Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan hệ việt nam-ucraina trong bối cảnh quốc tế mới...

Tài liệu Quan hệ việt nam-ucraina trong bối cảnh quốc tế mới

.PDF
211
120
75

Mô tả:

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NHIỆM VỤ HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THEO NGHỊ ĐỊNH THƯ Tên nhiệm vụ: QUAN HỆ VIỆT NAM – UCRAINA TRONG BỐI CẢNH QUỐC TẾ MỚI Tổ chức chủ trì nhiệm vụ: Viện Nghiên cứu Châu Âu Chủ nhiệm nhiệm vụ: GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn 9122 Hà Nội - 2011 THÀNH VIÊN THAM GIA CHÍNH 1. GS.TS Nguyễn Quang Thuấn 2. VS.GS.TS. Danhilenko A.I. 3. GS.TSKH. Kudrachenko A.I 4. GS.TS. Gorbatenko V. P. 5. GS.TS. V.A.Musijtruc 6. PGS.TS Nguyễn An Hà 7. TS. Nataliya Gorodnia 8. TS. A.S.Onhitsenko 9. TS. Trần Thị Phương Hoa 10. Ths. Phan Anh Dũng 11. Ths. Nguyễn Xuân Trung Và nhiều thành viên khác 1 MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................................... 7 CHƯƠNG I: BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT NAM – UCRAINA ......................................................................................................... 10 I. Bối cảnh quốc tế, khu vực tác động đến quan hệ Việt Nam - Ucraina ......................10 1. Bối cảnh quốc tế ................................................................................................................ 10 2. Bối cảnh khu vực châu Âu trong đó có Ucraina ........................................................... 20 3. Khu vực Châu Á–Thái Bình Dương và sự nổi lên mạnh mẽ của Trung Quốc .......... 36 II. Cải cách và hội nhập quốc tế của Ucraina ..................................................................43 III. Đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam ...............................................................59 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUAN HỆ VIỆT NAM – UCRAINA GIAI ĐOẠN 20012011................................................................................................................................................... 68 I. Quan hệ chính trị, ngoại giao và quốc phòng ..............................................................69 II. Quan hệ kinh tế..............................................................................................................78 III. Hợp tác khoa học – công nghệ, giáo dục – đào tạo và văn hóa................................95 1. Hợp tác Khoa học - công nghệ ........................................................................................ 95 2. Lĩnh vực giáo dục – đào tạo ........................................................................................... 114 3. Lĩnh vực văn hóa ............................................................................................................. 124 IV. Cộng đồng người Việt tại Ucraina............................................................................131 1. Quá trình hình thành và phát triển................................................................................ 131 2. Đặc điểm cộng đồng........................................................................................................ 132 3. Hoạt động của cộng đồng .............................................................................................. 135 V. Nhận xét, đánh giá quan hệ Việt Nam – Ucraina .....................................................143 1. Đánh giá thành tựu trong quan hệ Việt Nam - Ucraina............................................. 143 2. Những hạn chế và nguyên nhân..................................................................................... 146 CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUAN HỆ VIỆT NAM – UCRAINA GIAI ĐOẠN 2011-2020 ......................................................................................................... 151 I. Cơ hội và thách thức phát triển quan hệ Việt Nam Ucraina giai đoạn 2011-2020 .151 1. Những cơ hội trong quan hệ song phương................................................................... 151 2. Thách thức trong quan hệ hợp tác song phương......................................................... 160 II. Chiến lược và chính sách đối ngoại hai nước giai đoạn 2011-2020.........................162 1. Đường lối đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 2011-2020 .......................................... 163 2. Chiến lược và chính sách ngoại giao của Ucraina giai đoạn 2011-2020 ............... 166 2 III. Định hướng phát triển quan hệ song phương giai đoạn 2011-2020 ......................172 1. Quan điểm phát triển quan hệ Việt Nam - Ucraina .................................................... 172 2. Định hướng phát triển quan hệ Việt Nam - Ucraina .................................................. 176 IV. Những giải pháp chủ yếu thúc đẩy quan hệ song phương giai đoạn 2011-2020 ..188 KẾT LUẬN .................................................................................................................................... 196 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................199 3 DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH   Bảng 1.1: Khối lượng một số sản phẩm được sản xuất trong các xí nghiệp Ucraina giai đoạn năm 1990 – 1995.........................................................................45 Bảng 1.2: Các chỉ số phát triển kinh tế chính của Ucraina năm 2000 – 2007 .........46 Bảng 1.3 Các chỉ số phát triển kinh tế chính của Ucraina 2007 - 2009 ...................47 Hình 2.1: Kim ngạch XNK Việt Nam và Ucraina từ 2001 đến 2010 ......................79 Bảng 2.1: Một số mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Ucraina năm 2010...........82 Bảng 2.2: Vị trí của Việt Nam trong thương mại của Ucraina.................................83 Hình 3.1: Cơ cấu ngành và cơ cấu lao động của Việt Nam và Ucraina năm 2009 154 Hình 3.2: GDP/ng theo giá thực tế và sức mua tương của Việt Nam và Ucraina..155   DANH MỤC HỘP Hộp 2.1: Các văn bản đã được ký kết giữa hai chính phủ....................................... 74  Hộp 2.3: Đào tạo tiến sỹ cho người Việt Nam tại Đại học kỹ thuật Quốc gia Ucraina................................................................................................................... 118  Hộp 2.4: Đào tạo tiến sỹ lĩnh vực chính trị-xã hội cho người Việt Nam tại Đại học Quốc gia Kiev mang tên Taras Tseptrenko .................................................... 121  4 BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT AC: Cộng đồng ASEAN AFAS: Hiệp định khung về dịch vụ ASEAN AFTA: Khu vực thương mại tự do ASEAN AIA: Khu vực đầu tư ASEAN AICO: Hiệp định khung về hợp tác công nghiệp ASEAN APEC: Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương ARF: Diễn đàn khu vực ASEAN ASC: Cộng đồng an ninh ASEAN ASCC: Cộng đồng văn hóa xã hội ASEAN ASEM: Diễn đàn hợp tác Á-Âu ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á CHLB: Cộng hòa Liên bang CNXH Chủ nghĩa xã hội CSTO: Hiệp ước an ninh tập thể (SNG) EAC: Cộng đồng Đông Á EAS: Hội nghị thượng đỉnh Đông Á EC: Cộng đồng Châu Âu EPA: Hiệp định đối tác kinh tế EU: Liên minh Châu Âu FTA: Hiệp định thương mại tự do FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài GDP: Tổng sản phẩm quốc nội HDBA LHQ: Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc HLKHQG Hàn lâm khoa học quốc gia NATO: Khối quân sự Bắc Đại Tây dương ODA: Viện trợ phát triển chính thức OECD: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OSCE: Tổ chức hợp tác an ninh châu Âu PMC: Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (với các nước đối thoại) 5 RTA: Hiệp định thương mại khu vực SCO: Tổ chức hợp tác Thượng hải SNG: Cộng đồng các quốc gia độc lập TAC: Hiệp ước thân thiện và hợp tác TNC: Công ty xuyên quốc gia TREATI: Sáng kiến thương mại liên khu vực EU-ASEAN TTXVN: Thông tấn xã Việt Nam UBLCPUV Ủy ban liên chính phủ Ucraina-Việt Nam về hợp tác Kinh tếthương mại, khoa học – kỹ thuật USD: Đô la Mỹ WTO: Tổ chức thương mại thế giới XHCN Xã hội chủ nghĩa 6 LỜI NÓI ĐẦU Kể từ khi Ucraina tuyên bố độc lập, tách ra từ Liên Xô ngày 24 tháng 8 năm 1991, Việt Nam đã chính thức công nhận nền độc lập của Ucraina và vào ngày 23 tháng 01 năm 1992, quan hệ ngoại giao Việt Nam – Ucraina đã được thiết lập. Cho đến nay mối quan hệ này đã trải qua 20 năm phát triển với những thăng trầm và một sự tiến triển chậm chạp. Tuy nhiên, về thực chất quan hệ Việt Nam – Ucraina đã được phát triển từ vài thập kỷ trước đó trong thời kỳ phát triển quan hệ giữa Việt Nam với Liên Xô. Nhưng đáng tiếc là mối quan hệ giữa hai nước từ năm 1992 đến nay chưa kế thừa được những nền tảng vững chắc trước đó để phát triển hơn nữa, và dường như nó không được quan tâm đúng mức. Mặc dù quan hệ giữa hai nước được thiết lập trong bối cảnh thế giới có sự thay đổi mạnh mẽ, xu hướng hợp tác phát triển nổi trội chi phối phần lớn các nước trên thế giới. Ngay sau khi tuyên bố độc lập, Ucraina bước ngay vào quá trình cải cách toàn diện đất nước theo hướng phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập vào châu Âu. Trong suốt thập niên 1990, Ucraina gặp rất nhiều khó khăn, kinh tế suy giảm mạnh, chính trị không ổn định, đời sống nhân dân giảm sút. Bước sang thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, đà suy giảm kinh tế đã bị chặn lại, nền kinh tế từng bước hồi phục và tăng trưởng cao, tình hình chính trị cũng đã đi vào ổn định. Hiện nay, Ucraina vẫn đang tiếp tục cải cách và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, hội nhập tích cực vào khu vực và thế giới với mục tiêu chiến lược là gia nhập Liên mình châu Âu (EU). Trong chương trình cải cách giai đoạn 2010-2014, chính quyền Ucraina đã thể hiện chiến lược ưu tiên hội nhập vào châu Âu, tuy nhiên vẫn phát triển quan hệ với Nga và coi trọng quan hệ với Mỹ. Do phải tập trung giải quyết những vấn đề trong nước, sự quan tâm của Ucraina đến các đối tác bên ngoài còn giới hạn, cộng với mong muốn hội nhập vào EU, quan hệ của Ucraina với Việt Nam đã không được chú trọng phát triển. Bước vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI, chính quyền của tổng thống V.Yanukovich đã có sự điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng cân bằng 7 hơn trong quan hệ giữa phương tây và phương đông, và Việt Nam được xác định là có vị trí quan trọng ở khu vực Đông Nam Á nên đã được chú ý hơn. Đối với Việt Nam, Đảng và Nhà nước vẫn thực hiện chính sách ưu tiên hợp tác với các đối tác truyền thống trong đó có Ucraina. Chính vì vậy, khi Ucraina chú trọng hơn đến Việt Nam, quan hệ song phương đã có điều kiện phát triển. Thời điểm hiện nay là cơ hội tốt để hai nước Việt Nam và Ucraina tổng kết đánh giá về mối quan hệ giữa hai bên, những thành tựu đã đạt được và những yếu kém còn tồn tại. Đặc biệt nữa, mối quan hệ này vừa tròn 20 năm (1992-2012), việc đánh giá mối quan hệ song phương để đưa ra những giải pháp phát triển hơn nữa quan hệ Việt Nam – Ucraina vào thời điểm hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng. Cả hai nước đều đang đứng trước những cơ hội và thách thức trong bối cảnh quốc tế mới có nhiều biến động so với hai thập kỷ trước. Bên cạnh đó, hai nước đã bắt đầu đi vào quĩ đạo phát triển ổn định sau thời gian cải cách và tìm tòi đường hướng phát triển. Thêm vào nữa, hai nước đều có vị trí khá quan trọng trong khu vực và có tiềm năng rất lớn, hứa hẹn những dự án hợp tác triển vọng tạo ra nhiều lợi ích cho cả hai bên. Đề tài “Quan hệ Việt Nam- Ucraina trong bối cảnh quốc tế mới” là kết quả hợp tác nghiên cứu của tập thể các nhà khoa học thuộc Viện nghiên cứu Châu Âu thuộc Viện Khoa học xã hội việt Nam với Viện Kinh tế thế giới và Quan hệ quốc tế, Viện Phương Đông, Viện Kinh tế và dự báo thuộc Viện HLKH Quốc gia Ucraina trong khuôn khổ thực hiện nhiệm vụ khoa học cấp Nhà nước theo Nghị định thư Việt Nam- Ucraina. Nội dung của cuốn sách gồm 3 phần: i/ Đánh giá một cách khoa học bối cảnh quốc tế, khu vực và những nhân tố tác động đến quan hệ Việt Nam – Ucraina, vị trí của mối quan hệ này trong chiến lược phát triển của mỗi nước; ii/ Phân tích, đánh giá thực trạng quan hệ Việt Nam – Ucraina trên tất cả các mặt trong thời gian từ sau chiến tranh lạnh đến nay, nhất là từ giai đoạn 2001-2010, những thành tựu đã đạt được, những vấn đề đặt ra hiện nay và nguyên nhân của chúng; iii/ Đưa ra định hướng và giải pháp phát triển quan hệ Việt Nam – Ucraina cho giai đoạn 2011-2020. Ngoài ra, cuốn sách còn sử dụng một số kết quả tại Hội thảo khoa học quốc tế về: “Quan hệ Việt 8 Nam- Ucraina: Lịch sử, hiện trạng và triển vọng” do Viện Nghiên cứu Châu Âu tổ chức tại Hà Nội với sự tham gia của nhiều nhà khoa học, nhà quản lý và hoạch định chính sách của Việt Nam ở các cơ quan khác nhau, đặc biệt là sự tham gia của các nhà khoa học Ucraina và Sứ quán Ucraina tại Hà Nội. Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng do thời gian và nguồn tư liệu chắc chắn đề tài không tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong được sự góp ý và lượng thứ của độc giả. 9 CHƯƠNG I BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT NAM – UCRAINA I. Bối cảnh quốc tế, khu vực tác động đến quan hệ Việt Nam - Ucraina 1. Bối cảnh quốc tế Bước vào thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, thế giới tiếp bước xu hướng hòa bình, hợp tác và cùng phát triển. Kể từ giữa thập kỷ 1990, phần lớn các nước chuyển hướng nhanh sang phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của người dân. Chính phủ các nước đã đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên cao nhất trong các mục tiêu phát triển của mình. Xu hướng này cho thấy thế giới dường như đã có nhận thức cao hơn, thực chất hơn đối với cuộc sống con người1. Sự ấm dần lên của môi trường quốc tế đã khiến các nước xích lại gần nhau hơn, chia sẻ những kinh nghiệm phát triển và hợp tác cùng có lợi. Bởi vì các nước có lợi ích chung, đan xen và phụ thuộc lẫn nhau. Những nước có điều kiện tương tự nhau đã liên kết chặt chẽ với nhau hình thành các tổ chức khu vực vừa là để có tiếng nói lớn hơn vừa là tận dụng các thế mạnh của nhau. Không chỉ những nước có điều kiện khá tương đồng mà nhiều nước có điều kiện và trình độ rất khác nhau cũng tìm được lợi ích chung để hợp tác với nhau. Điều này làm cho thế giới hai thập kỷ qua nổi trội là những liên kết trong khu vực và liên khu vực: liên kết giữa các nước phát triển, các nước đang phát triển với nhau và giữa nước đang phát triển với nước phát triển. Đã có nhiều nước tranh thủ được những thuận lợi trong bối cảnh quốc tế này để vươn lên mạnh mẽ và có vị thế cao trên trường quốc tế. Trong thập kỷ này, xu hướng hợp tác cùng phát triển vẫn sẽ là xu hướng chủ đạo trong các mối quan hệ quốc tế. Các nước không kể lớn nhỏ, giàu nghèo đều lấy nền tảng hòa bình để phát triển. Có thể khái quát một số xu hướng quốc tế như sau: 1 Nguyễn Quang Thuấn (2008). Quan hệ Nga – ASEAN trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, NXB KHXH, HN 2008, tr 21. 10 Xu hướng đa cực hóa đang hình thành: Kể từ sau chiến tranh lạnh, Mỹ là siêu cường duy nhất thống trị mọi mặt của thế giới. Trong những năm gần đây, cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu xuất phát ở Mỹ năm 2008, đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế toàn cầu. Cho đến cuối năm 2011, Mỹ và các nước phương Tây vẫn chưa thoát ra khỏi sự trì trệ do cuộc khủng hoảng gây ra, thậm chí các nước châu Âu còn vướng vào cuộc khủng hoảng nợ công. Nói về cuộc khủng hoảng toàn cầu xuất phát từ Mỹ, có nhiều khía cạnh để phân tích. Tuy nhiên, trong khi Mỹ và các nước Châu Âu còn nhiều khó khăn về kinh tế, sự nổi lên mạnh mẽ của Trung Quốc và các nước BRICS khác đã làm cho cục diện thế giới chuyển hướng. Người ta nhận thấy rằng có sự suy giảm tương đối của Mỹ và các nước phương Tây. Chính sự phát triển và nổi lên của các nước đang phát triển lớn, như Trung Quốc đã nhanh chóng trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới và sự trở lại của Nga, sự nổi lên của Ấn Độ, Brazil, Nam Phi… đã làm nền kinh tế và chính trị thế giới biến chuyển theo hướng đa cực hóa, bắt đầu hình thành một trật tự thế giới mới. Trật tự này sẽ chi phối lại các định hướng quan hệ quốc tế… Một trong những cực của trật tự thế giới mới, sánh cùng với Mỹ và EU, rất có thể sẽ là Đông Á dưới hình thức "ASEAN +3" (các quốc gia ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc). Sự nhanh chóng thoát khỏi ảnh hưởng của khủng hoảng (trừ Nhật Bản), khiến vai trò toàn cầu của các nước trong khu vực Đông Á tăng lên, có tác động kéo nền kinh tế toàn cầu đi lên, làm dịch chuyển các trung tâm kinh tế và tài chính toàn cầu về Đông Á. Sự tăng cường ảnh của một số nước mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Brazil… được biểu hiện rất rõ ở vai trò ngày càng quan trọng của G20 trong giải quyết các vấn đề toàn cầu, dần thay thế G8. Toàn cầu hóa kinh tế và sự tăng cường liên kết khu vực và liên khu vực đang diễn ra mạnh. Toàn cầu hóa đã trở thành khái niệm quen thuộc bởi vì nó đã diễn ra sâu rộng trên mọi lĩnh vực. Toàn cầu hóa đã làm tăng đáng kể sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước trên thế giới dưới nhiều hình thức khác nhau, cả trên cấp độ toàn cầu và khu vực, đa phương và song phương. Hiện nay, trong lĩnh 11 vực kinh tế người ta đang quan tâm tới khái niệm “mạng sản xuất”, đó thực chất là quá trình phân công lao động quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu sắc. Quá trình sản xuất hiện nay không chỉ diễn ra ở một nước mà nó chuyên môn hóa ở nhiều nước, mỗi nước đảm nhiệm một hoặc một số công đoạn sản xuất một sản phẩm nào đó, rồi lắp ghép hoàn thiện sản phẩm tại một nơi. Quá trình này đã khiến các nước gắn chặt với nhau, phụ thuộc vào nhau. Ngay cả thương mại và đầu tư quốc tế hiện nay đã thay đổi về chất do sự phân bố lại nguồn lực lao động toàn cầu. Sản phẩm xuất khẩu của nước này có thể do nước khác sản xuất là chủ yếu hay đầu tư của một công ty ở nước A vào nước B nhưng thực chất công ty đó chỉ là một chi nhánh của một công ty khác ở nước C. Quá trình này khiến chúng ta khó tách biệt được hoạt động này là chỉ của hai bên mà nó còn có thể liên quan đến nhiều bên khác nhau. Hiện nay không phải xem xét toàn cầu hóa như một xu hướng có theo nó hay không mà cần xem chúng ta chấp nhận nó đến mức nào bởi vì bản thân quá trình này diễn ra có chứa đựng đầy những mâu thuẫn. Tác động tích cực của toàn cầu hóa thì rất rõ, càng tham gia vào quá trình này các nước càng có điều kiện tiếp cận các nguồn lực phát triển với chi phí rẻ hơn. Tuy nhiên, bản thân nó cũng chứa đựng nhiều thách thức đối với các quốc gia nhất là những nước đang hoặc kém phát triển. Đầu tiên, những lợi ích của toàn cầu hóa không tự đến hoặc không được phân chia đồng đều giữa các quốc gia và giữa các khu vực. Những lợi ích có được từ toàn cầu hóa được phân phối thông qua sự cạnh tranh giữa các quốc gia. Vì vậy, khả năng cạnh tranh quyết định cơ bản sự thành công của một quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Những nước đang phát triển, khả năng cạnh tranh thường kém những nước phát triển hơn. Vậy làm thế nào để các nước đang phát triển có thể thắng lợi trong quá trình hội nhập toàn cầu? Trên thực tế đã có nhiều nước đang phát triển hội nhập rất thành công nhờ những chiến lược hợp lý. Thứ nhất là họ củng cố nhanh chóng sức mạnh nội lực trước khi bước ra ngoài. Thứ hai là họ lựa chọn những lĩnh vực có thế mạnh có thể cạnh tranh được với các nước phát triển hơn làm cơ sở để kéo toàn bộ nền kinh tế 12 đi lên. Thứ ba là họ có thể hợp tác và liên kết với các nước khác để tăng sức mạnh tổng thể. Chính vì vậy, thời gian qua chúng ta chứng kiến nhiều khối liên kết khu vực và liên khu vực diễn ra trên thế giới. Mục đích chính của các nước này là giành cho nhau những ưu đãi để tạo điều kiện thuận lợi cho nhau cùng phát triển. Mặt khác, những liên kết này còn tạo ra những đối trọng với các cường quốc hoặc những nước lớn hơn. Tuy nhiên, quá trình toàn cầu hóa hiện nay còn làm nảy sinh mâu thuẫn giữa tự do hóa kinh tế toàn cầu và cơ chế điều tiết quản lý quá trình này2. Trong khi các thể chế mang tính quốc gia phải được điều chỉnh để thích ứng với các thể chế mang tính toàn cầu thì cũng chưa có một thể chế toàn cầu nào đủ hữu hiệu để quản lý quá trình toàn cầu thay thế các thể chế quốc gia. Thời đại toàn cầu hóa, biên giới hay ranh giới phân biệt giữa các quốc gia đã nhòa đi. Thị trường của một quốc gia đã mở rộng ra khu vực và toàn cầu. Đi cùng với nó là sự cạnh tranh gay gắt nhưng sẽ theo hướng công bằng hơn. Đối với các nước không có điều kiện thuận lợi về tự nhiên, lãnh thổ, con người thì nhiệm vụ tăng cường thương mại song phương, đầu tư, chuyển dịch lao động, hợp tác sản xuất có ý nghĩa quan trọng. Giai đoạn hiện nay không kể những nước có điều kiện hay không đều nỗ lực hợp tác, liên kết và hội nhập (trừ một số trường hợp cá biệt) vì họ còn tham vọng hơn nữa. Sự liên kết khu vực và quốc tế diễn ra mạnh mẽ trong hai thập kỷ gần đây khi hàng loạt các khối liên kết và hợp tác ra đời. Năm 1989, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) được thành lập; tháng 2/1992, Hiệp ước Maastricht đã được ký kết, thành lập Liên minh châu Âu; tháng 12/1992 Hiệp ước thành lập khu vực Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) giữa Mỹ, Canada và Mexico (hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1994); vào tháng 1/1992 tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN họp tại Singapore, các nước ASEAN đã thông qua quyết định thành lập khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) trong vòng 10 năm (có hiệu lực vào tháng 1, năm 2001, đối với "ASEAN-6"); năm 1993 hội nghị thượng đỉnh APEC đầu tiên được tiến hành và sau đó một năm, họ đã ký 2 Nguyễn Thiết Sơn (2011), Quan hệ Hoa Kỳ - ASEAN giai đoạn 2011-2020, Báo cáo tổng hợp đề tài Cấp Bộ, Viện Nghiên cứu Châu Mỹ. 13 Tuyên bố Bogor về ý định xây dựng khu vực thương mại tự do khu vực Châu Á Thái Bình Dương (APR) vào năm 2020; tháng 4 năm 1994, tổ chức Thương mại thế giới (WTO) được thành lập v.v… Ở khu vực châu Á, quá trình hội nhập đã được đẩy mạnh sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998, chủ yếu trong khu vực Đông Nam và Đông Á. Ngay trong năm 1997, Diễn đàn "ASEAN+3" xuất hiện, đã trở thành cơ sở của hội nhập Đông Á sau này. Cuộc khủng hoảng 1997-98 đã làm sâu sắc thêm sự hội nhập trong ASEAN, bằng chứng là Tuyên bố Bali (2003) về thành lập Cộng đồng ASEAN vào năm 2020 với ba trụ cột - an ninh, kinh tế và văn hóa xã hội (năm 2007, các nước ASEAN đã quyết định rút ngắn thời gian thành lập cộng động đến 2015); trong năm 2007, Hiến chương ASEAN ra đời (có hiệu lực trong năm 2008) đã góp phần thể chế hóa hiệp hội, chuyển đổi thành hiệp hội với nhiều mối liên kết hơn dựa trên các quy tắc rõ ràng. Một hình thức hội nhập nữa xoay quanh khu vực ASEAN là Hội nghị thượng đỉnh Đông Á ("ASEAN + 6"), được thành lập vào tháng 12 năm 2005, trong đó có sự tham gia của ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, New Zealand, Ấn Độ (đang xem xét sự tham gia của Nga và Mỹ). Một trong những yếu tố hội nhập kinh tế hay là một xu hướng nổi bật trong hơn một thập kỷ qua là việc thiết lập các hiệp định song phương và đa phương về thương mại tự do (FTA). Sự thiếu tiến triển trong vòng đàm phán Doha của WTO cũng góp phần tạo động lực cho sự sáng tạo này. Tuy nhiên, khi nó đã phát triển mạnh thì lại làm khó thêm các đàm phán trong khuôn khổ WTO. Trong bối cảnh tìm kiếm con đường nhằm thúc đẩy thương mại-đầu tư sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-98, quốc gia đầu tiên trong ASEAN tham gia vào các cuộc đàm phán để thiết lập FTA với các nước ngoài hiệp hội là Singapore (1999). Tính đến năm 2011, nước này đã ký thỏa thuận về việc thành lập khu vực thương mại tự do với nhiều nước3 và đang tiếp tục đàm phán với nhiều nước và 3 Với New Zealand (2000), Nhật Bản (2002), Khu vực Thương mại Tự do châu Âu (2002), Úc (2003), Mỹ (2003), Jordan (2004), Ấn Độ (2005), Hàn Quốc (2005), Chile, Brunei Darussalam và New Zealand (theo Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (2005)), Panama (2006), Peru (2008), Trung Quốc (2008), Qatar (2008), Hội đồng Hợp tác các nước vùng Vịnh (2008), v.v… 14 các khối khác, bao gồm cả Ucraina. Ban đầu, xu hướng này đã được các nước ASEAN chấp nhận một cách thận trọng, nhưng họ cũng đi theo không lâu sau đó. Đến nay nhiều nước trong ASEAN theo đuổi mạnh mẽ việc ký kết các FTA. Thực tế, trên thế giới đã có những liên kết chặt chẽ hơn, sâu hơn FTA như liên minh thuế quan, thị trường chung hay liên minh tiền tệ. Liên minh Châu Âu là điển hình của liên kết và hội nhập trên thế giới. Ở khu vực Châu Á, khu vực Đông Á hay ASEAN cũng đã hướng tới xây dựng cộng đồng trong tương lai gần. Đây đều là những liên kết cao hơn nhiều so với FTA. Xu hướng FTA tồn tại song song với quá trình liên kết ở tầm toàn cầu dưới WTO. Nó vừa bổ sung cho WTO vừa làm trì hoãn các cam kết của WTO. Ở cấp độ khu vực hay trên toàn cầu, các FTA đã và sẽ có những tác động nhiều chiều, trên nhiều phương diện đối với quá trình liên kết và hợp tác khu vực. Quá trình tự do hóa thương mại khu vực vừa tiến triển theo chiều hướng mở rộng phạm vi các nước tham gia hiện có vừa được đẩy mạnh giữa hai hoặc một nhóm nước bằng những thỏa thuận riêng. Chẳng hạn sự mở rộng của EU sang các nước Trung và Đông Âu hay kế hoạch mở rộng NAFTA ra cả Châu Mỹ. Như vậy, trong thế giới hiện đại các quá trình hội nhập dưới các hình thức khác nhau diễn ra song song và đồng thời hình thành một mạng lưới các mối quan hệ kinh tế cùng có lợi, tạo ra lợi thế quốc gia trong hệ thống phân công lao động toàn cầu. Sự gần gũi lãnh thổ không còn là một yếu tố quyết định trong hội nhập, chính sự bổ sung giữa các nền kinh tế, cũng như mức độ tin tưởng giữa người dân và giới tinh hoa chính trị giữa các quốc gia mới là những yếu tố quan trọng xác định sự hội nhập. Điều kiện như vậy tồn tại trong quan hệ giữa Ucraina và Việt Nam. Tuy nhiên, một thách thức lớn hiện nay đang đe dọa mô hình liên kết khu vực ở châu Âu khiến nhiều khu vực khác có ý định theo mô hình của EU phải xem lại. Nhiều người đã đặt câu hỏi liệu liên kết sâu theo mô hình của EU có phải là đích hướng đến của các khu vực? Trong khi thế giới đang chứng kiến khủng hoảng nợ công ở châu Âu có nguy cơ phá vỡ đồng tiền chung châu Âu (euro)- thành quả cao nhất trong hội nhập của khu vực này. 15 Cách mạng khoa học công nghệ ngày càng nổi lên là một nhân tố tác động mạnh mẽ đến sự phát triển và ổn định của thế giới: Việc xuất hiện những phát minh khoa học, làn sóng đổi mới công nghệ, sự đề cao tri thức và thông tin v.v... không chỉ đóng vai trò trọng yếu có tính quyết định như một lực lượng sản xuất trực tiếp trong phát triển kinh tế mà còn trực tiếp gây ra những biến đổi trong toàn bộ đời sống chính trị - xã hội ở các quốc gia. Sự phát triển của khoa học - công nghệ đã góp phần tạo lập sự gắn kết các mô hình kinh tế, các tổ chức xí nghiệp để tạo nên một không gian thông tin kết nối với nhau, từ đó xoá nhoà những giới hạn về không gian và thời gian trong các hoạt động kinh tế và hợp tác quốc tế. Khoa học - công nghệ phát triển giúp cho khoảng cách địa lý giữa các quốc gia, các trung tâm kinh tế như được thu hẹp lại. Điều quan trọng nữa, chi phí của nền kinh tế giảm đi rất nhiều. Vì vậy, kinh tế tri thức được coi là tạo ra tác động tích cực tới khả năng phối hợp sản xuất giữa các quốc gia cũng như tạo ra cơ hội lớn hơn để các quốc gia, các trung tâm phát triển của thế giới trở thành các đối tác quan trọng của nhau trong trao đổi thương mại hàng hoá, dịch vụ. Sự cạnh tranh của thế giới hiện nay có sự đóng góp lớn của sức mạnh tri thức và công nghệ tiên tiến. Nhu cầu phát triển các ngành kỹ thuật cao chứa đựng hàm lượng tri thức lớn đã khiến nhiều nước thiếu hụt trầm trọng những lao động có tay nghề cũng như lao động ở những ngành có trình độ cao. Hiện tượng khát nhân lực chất lượng cao diễn ra gần như ở khắp mọi nơi trên thế giới đặc biệt những nền kinh tế phát triển cao. Đây là những cơ hội cho những người có trình độ tay nghề ở các nước đang phát triển. Theo phân tích của các chuyên gia, từ năm 1992, lợi thế cạnh tranh của các nền kinh tế tiên tiến chỉ có 15% là phụ thuộc vào các chỉ số truyền thống (GDP, lạm phát, cán cân thương mại) và 85% - từ yếu tố "mềm" - khả năng cạnh tranh liên quan đến yếu tố con người (trình độ học vấn và kỹ năng, động lực, làm việc, vv)4. Sự phát triển của khoa học công nghệ sẽ làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế và 4 Nataliya Gorodnia (2011), Chính sách đối ngoại của Ucraina giai đoạn 2011-2020 và vị trí của Việt Nam trong chính sách đối ngoại của Ucraina, Viện Kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế, Viện HLKHQG Ucraina. 16 xã hội. Nhận thức điều này để có định hướng đúng đắn trong hợp tác giữa các quốc gia. Những thách thức mang tính toàn cầu đang tác động đến điều chỉnh chiến lược ở nhiều nước: Mặc dù thế giới đang nổi lên xu hướng hòa bình và hợp tác nhưng thực tế các vấn đề khủng bố, chiến tranh và xung đột sắc tộc vẫn đang thường trực hàng ngày ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của mọi người và các hoạt động kinh tế. Những mâu thuẫn sắc tộc, xu hướng ly khai và tranh chấp lãnh thổ chưa hề giảm. Ở đâu đó vẫn có những điểm nóng có thể xảy ra chiến tranh bất cứ lúc nào. Tình hình an ninh chính trị nhiều nơi đã biến chuyển theo một chiều hướng bất lợi cho sự phát triển. Một khi tình hình an ninh chính trị - xã hội bị đe doạ, niềm tin của các nhà đầu tư và thương mại bị giảm sút, người dân có xu hướng tích trữ, tiết kiệm thay vì tiêu dùng và đầu tư, các hoạt động du lịch, dịch vụ thiếu khởi sắc... và sự ổn định kinh tế sẽ bị đe dọa. Ngoài ra, chúng ta còn thấy hàng loạt vấn đề sinh ra từ các thách thức an ninh phi truyền thống như các vấn đề an ninh năng lượng, an ninh lương thực và sự biến đổi môi trường, khí hậu toàn cầu sẽ là vấn đề mà cả thế giới phải đối mặt trong vòng những thập niên tới. Năng lượng, môi trường tự nhiên ngày càng trở nên bức xúc. Càng phát triển, thế giới càng phụ thuộc vào các nguồn cung cấp năng lượng. Trong khi các nguồn năng lượng sạch như thuỷ điện, điện mặt trời, điện hạt nhân, ... và các loại nhiên liệu thay thế xăng dầu như hidro và nitơ hoá lỏng, hiện chưa đủ để đáp ứng nhu cầu vận chuyển, phát triển công - nông nghiệp, hay phục vụ sinh hoạt hàng ngày của người dân và công nghệ cũng chưa cho phép để cung cấp chúng với giá rẻ, nên thế giới vẫn còn phải phụ thuộc rất nhiều vào các nguồn năng lượng truyền thống là dầu mỏ và than đá. Sự tăng lên của giá dầu mỏ trên thị trường quốc tế trong những thập kỷ qua đã tác động mạnh tới đà tăng trưởng kinh tế của thế giới, mà cuộc khủng hoảng dầu mỏ những năm cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX và hiện tượng giá dầu tăng rất mạnh trong những năm gần đây là một ví dụ (giá dầu thô đã có thời điểm lên đến 140USD/thùng). Hiện tượng này làm nổi lên vấn đề đảm bảo an ninh năng lượng để duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế ở hầu hết các nước trên 17 thế giới, đặc biệt là các nước công nghiệp phát triển, các nước công nghiệp mới và chuyển đổi như NICs, Trung Quốc, SNG và ASEAN. Theo Bộ Năng lượng Mỹ, nhu cầu dầu mỏ của thế giới sẽ tăng nhanh trong những thập kỷ tới. Việc khai thác và sản xuất dầu mỏ sẽ không thể theo kịp được với nhu cầu đang ngày càng gia tăng5. Vì thế, duy trì được nguồn cung cấp năng lượng ổn định (nhất là dầu mỏ) với giá rẻ là yêu cầu tối cấp thiết với các nước. Mâu thuẫn và xung đột quốc tế xung quanh việc sở hữu hay kiểm soát nguồn cung cấp năng lượng do vậy có chiều hướng ngày càng gay gắt. Vụ đảo chính bất thành ở Venezuela, để dựng lên một chính phủ thân Mỹ, cũng có nhiều nguyên nhân trong đó nổi bật nhất là sự tranh giành quyền kiểm soát nguồn dầu mỏ lớn nhất Mỹ Latinh. Hay trong cuộc chiến Iraq-II vừa qua, liên quân Mỹ - Anh dù có đưa ra hàng loạt lý do về vũ khí huỷ diệt hay mối liên hệ giữa chính quyền Sadam Hussein với AlQaeda, cũng không thể che lấp được ý đồ muốn độc chiếm nguồn cung cấp dầu mỏ có trữ lượng lớn thứ hai Trung Đông, để từ đó chi phối việc cung ứng và định giá dầu mỏ trên thị trường thế giới một cách có lợi cho sự phát triển của các tập đoàn công nghiệp ở trong nước. Các cuộc cách mạng sắc màu diễn ra trong không gian hậu Xô Viết, đặc biệt ở khu vực Trung Á nhằm hướng tới khu vực dầu mỏ ở vùng biển Caspian cũng không nằm ngoài động thái này. Ở mức độ thấp hơn là những tranh chấp giữa Trung Quốc với một số nước ASEAN xung quanh đảo Trường Sa trên biển Đông của Việt Nam, bất chấp những chứng cứ lịch sử và địa lý, cũng có nguyên nhân từ việc muốn sở hữu những mỏ dầu tiềm năng ở vùng thềm lục địa này. Lịch sử thế giới đã ghi nhận các cuộc chiến trên con đường tơ lụa, con đường hương liệu,... thì ngày nay chúng ta đang được chứng kiến những tranh chấp xung quanh các “con đường dầu mỏ”. Xu hướng phát triển bền vững và hướng đến nền kinh tế xanh: Những năm gần đây các nước còn hướng đến phát triển bền vững. Cùng với toàn cầu hóa kinh tế, mô hình phát triển ở nhiều nước cũng thay đổi. Mục tiêu phát triển hiện nay đối với phần lớn các nước không chỉ là tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà nó đã tiến tới xu hướng hài hòa hóa hay người ta đã đặt mục tiêu phát triển bền vững. Trụ cột của phát triển bền vững là vừa đảm bảo tăng trưởng kinh tế 5 Michael T. Klare: “The New Geography of Conflict”. Foreign Affairs, May - June/2001, Vol. 80, No3, P. 55. 18 cao và ổn định vừa đảm bảo tiến bộ về xã hội và bảo vệ môi trường. Cũng có thể xã hội đã tiến tới nấc phát triển cao hơn hoặc cũng có thể vấn đề xã hội và môi trường đang đe dọa nghiêm trọng đời sống con người mà mục tiêu trên được coi trọng và đồng thuận cao như vậy. Phát triển bền vững là quan điểm xuyên suốt trong quản lý, điều hành nền kinh tế của mỗi quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa. Đây là phương thức phát triển theo định hướng nhân văn, hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế và các mặt môi trường sinh thái, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, các mặt về tiến bộ, công bằng xã hội đặc biệt là vấn đề tăng dân số, nạn thất nghiệp và khoảng cách giàu nghèo. Phát triển bền vững và tăng trưởng xanh sẽ gây áp lực lớn đối với những ngành công nghiệp truyền thống sử dụng công nghệ lạc hậu. Đồng thời nó cũng là thách thức đối với các nước đang phát triển. Sự bùng nổ dân số ở một số nước đang phát triển đã dẫn đến nạn phá rừng, làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên, làm giảm diện tích đất canh tác, đất đai bị sa mạc hóa, thất nghiệp, bần cùng hóa... Vì vậy, kiểm soát tỷ lệ tăng dân số hợp lý là một trong các biện pháp cơ bản đảm bảo phát triển bền vững. Quan điểm phát triển bền vững còn bao gồm cả các vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ tính đa dạng sinh học, an ninh lương thực và chống tội phạm cùng với các tệ nạn xã hội xuyên quốc gia; đồng thời cả vấn đề giao lưu văn hóa và giữ gìn bản sắc dân tộc. Như vậy, có thể nói bối cảnh quốc tế mới đã tạo nhiều thuận lợi cho mối quan hệ giữa Việt Nam và Ucraina phát triển: thứ nhất là vì mục tiêu phát triển, vì lợi ích quốc gia – dân tộc các nước phải nỗ lực duy trì ổn định chính trị để phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của người dân. Trước xu thế liên kết và hội nhập, quan hệ Việt Nam – Ucraina có động lực để phát triển hơn vì hai nước sẽ tranh thủ được các lợi thế của nhau gồm: nguồn lực tài nguyên, vốn, con người, công nghệ v.v..; hợp tác và liên kết sẽ học hỏi được kinh nghiệm quản lý và quản trị của nhau; mở rộng thị trường; tiếp đến, do những tiến bộ về công nghệ thông tin và giao thông vận tải giúp khắc phục những hạn chế về khoảng cách địa lý. Ngoài ra, Ucraina có thế mạnh về khoa học công nghệ sẽ có lợi thế khi phát huy 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan