Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan hệ kinh tế việt nam - hàn quốc (1992 -2010)...

Tài liệu Quan hệ kinh tế việt nam - hàn quốc (1992 -2010)

.PDF
121
108
78

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Đoàn Văn Mao QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM - HÀN QUỐC (1992 -2010) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Tp. Hồ Chí Minh, năm 2011 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Đoàn Văn Mao QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM - HÀN QUỐC (1992 -2010) Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM Mã số: LSVN-08-006 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ HUỲNH HOA Tp. Hồ Chí Minh, năm 2011 LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình hoàn thành luận văn với đề tài: Quan hệ kinh tế Việt-Hàn (19922010), tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình, chu đáo của cô hướng dẫn. Với lòng biết ơn sâu sắc tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới: Tiến sĩ Lê Huỳnh Hoa, cô đã hết lòng giúp đỡ, đóng góp những ý kiến quý báu, động viên cho tôi hoàn thành đề tài luận văn này. T.p Hồ Chí Minh, ngày tháng 08 năm 2011 MỤC LỤC Trang phụ bìa Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương I: CƠ SỞ CỦA MỐI QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM - HÀN QUỐC 1.1. Một số điểm tương đồng về lịch sử giữa hai dân tộc Việt -Hàn............................. 7 1.1.1. Truyền thuyết về cội nguồn dân tộc .......................................................... 7 1.1.2. Việt Nam-Hàn Quốc cùng đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc ................................................................................................................... 8 1.2 . Một số nét tương đồng về văn hóa giữa Việt Nam - Hàn Quốc ...................... 15 1.2.1. Nét tương đồng trong phong tục tập quán: ăn, uống ............................... 15 1.2.2. Nét tương đồng trong phong tục hôn nhân truyền thống giữa Việt Nam- Hàn Quốc ........................................................................................................ 18 1.2.3. Nét tương đồng trong phong tục thờ cúng tổ tiên.................................... 20 1.2.4. Nét tương đồng trong các ngày lễ tết truyền thống ................................ 21 1.2.5. Nét tương đồng trong hệ thống văn tự chữ Hán ..................................... 23 1.2.6. Nét tương đồng về tôn giáo tín ngưỡng .................................................. 24 1. 3. Quan hệ bang giao Việt – Hàn trước 1992 ...................................................... 26 13.1 Quan hệ bang giao Việt –Hàn thời trung đại ............................................ 26 1.3.2 Quan hệ Việt –Hàn thời cận đại ............................................................... 28 1.3.3 Sơ lược quan hệ Việt- Hàn giai đoạn từ sau 1954 đến 1975 ................... 30 1.3.4 Quan hệ Việt – Hàn giai đoạn 1975 đến năm 1992 .................................. 31 1.3.5 Quan hệ bang giao năm 1992 - Nhân tố quan trọng thúc đẩy quan hệ kinh tế Việt – Hàn .......................................................................................................... 32 Chương II: QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM - HÀN QUỐC (1992-2010) 2.1. Những khái niệm liên quan đến quan hệ kinh tế quốc tế và tiềm năng hợp tác kinh tế Việt – Hàn ........................................................................................................ 35 2.1.1. Những khái niệm liên quan hệ kinh tế quốc tế và tính tất yếu của quan hệ kinh tế quốc tế ..................................................................................................... 35 2.1.2. Tiềm năng hợp tác từ phía Việt Nam ...................................................... 36 2.1.3. Tiềm năng hợp tác từ phía Hàn Quốc ...................................................... 38 2.2. Quan hệ thương mại Việt Nam – Hàn Quốc (1992-2010) .............................. 39 2.2.1. Khái quát chung quan hệ thương mại Việt Nam – Hàn Quốc trước khi hai nước chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao (1983 - 1992) ............. 39 2.2.2. Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Hàn Quốc ( 1992-2010 ) .......... 41 2.2.3. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc (1992-2010) ..... 44 2.3.1. Mặt tích cực ............................................................................................ 53 2.3.2. Mặt hạn chế .............................................................................................. 54 2. 4. Quan hệ đầu tư Việt – Hàn (1992-2010 ) ......................................................... 56 2.4.1. Đầu tư của Việt Nam vào Hàn Quốc (1992-2010 ) ................................. 56 2.4.2. Đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam (1992-2010) ................................. 58 2.4.3. Đánh giá chung về quan hệ đầu tư Việt –Hàn ( 1992-2010 ) ................. 64 Chương III: TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP ...................................................... 67 3.1. Triển vọng và định hướng của quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc ............ 67 3.1.1. Triển vọng của quan hệ kinh Việt Nam – Hàn Quốc .............................. 67 3.1.2. Định hướng phát triển cho quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc ........ 74 3. 2. Một số giải pháp thúc đẩy quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc................. 76 3.2.1. Giải pháp về chính trị .............................................................................. 76 3.2.2. Giải pháp nhằm nâng cao quan hệ thương mại Việt - Hàn .................... 77 3. 3. Các giải pháp thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc vào Việt Nam 88 3.3.1. Xây dựng hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư .............................. 88 3. 3. 2. Phát triển cơ sở hạ tầng ......................................................................... 89 3. 3. 3. Cải cách thủ tục hành chính .................................................................. 90 3. 3.4. Nâng cao trình độ cho các doanh nghiệp và người lao động Việt Nam........ 91 KẾT LUẬN.............................................................................................................. 96 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 101 PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1 : Trình tự hôn lễ truyển thống giữa Việt Nam và Hàn Quốc .....................23 Bảng 1.2 : Các cuộc viếng thăm cấp cao giữa Việt Nam – Hàn Quốc ...................37 Bảng 1.3 : Các Hiệp định được ký kết giữa Việt Nam- Hàn Quốc ..........................38 Bảng 2.1: Tổng kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam-Hàn Quốc (1983-1992) ..................................................................................................................47 Bảng 2. 2: Kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam –Hàn Quốc (1992- 2003) .50 Bảng 2. 3: Kim ngạch thương mại Việt Nam- Hàn Quốc(2004-2010) .....................50 Bảng 2.4: Mười thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam ..................................51 Bảng 2.5: Hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc(2001-2003) ...................54 Bảng 2.6: Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam giai đoạn 2004-2010.....56 Bảng 2.7 : Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc(2004-2010) .........57 Bảng 2.8: Mộ số hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc (2007-2010) .........57 Bảng 2.9: Các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc(2001 -2003) .........59 Bảng 2.10: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc(2004-2010) ............61 Bảng 2.11: Một số mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc (2007-2010) .. ..................................................................................................................61 Bảng 2.12 : Nhập siêu của Việt Nam từ Hàn Quốc (1998-2003) .............................64 Bảng 2.13 : Nhập siêu của Việt Nam từ Hàn Quốc (2004-2010) .............................64 Bảng 2.14 : Một số thị trường nhập khẩu của Hàn Quốc năm 2010 ........................65 Bảng 2.15: Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được cấp giấy phép thời kỳ 1989 - 2009 phân theo đối tác đầu tư chủ yếu ........................................................................................67 Bảng 2.16: Đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam ( 1991- 2003) .........................68 Bảng 2.17 : Một số dự án hàng đầu của Hàn Quốc tại Việt Nam (1992-2005) ......69 Bảng 2.18:Đầu tư của một số nước vào Việt Nam được cấp giấy phép phân theo đối tác đầu tư chủ yếu.................................................................................................................. 70 Bảng 2.19 : Cơ cấu đầu tư của Hàn Quốc tại Việt Nam theo ngành kinh tế.............71 Bảng 2.20: Đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam phân theo ngành 90 .....................72 Bảng 2.21 : Đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam phân theo địa phương .................73 Bảng 3.1: Một số dự án đầu tư lớn của Hàn Quốc tại Việt Nam ..............................83 Bảng 3.2:Một số hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc .............90 Bảng 3.3 : Tiềm năng thủy sản nước mặn của Việt Nam .........................................91 Bảng 3.4: Các nước nhập khẩu thủy sản chính trên thế giới....................................92 Bảng 3.5: Thị trường xuất khẩu cao su Việt Nam 2006 ...........................................92 Bảng 3.6 : Một số hàng công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc .......97 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 3.1 : Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc ( 2004-2010) ....79 Biểu đồ 3.2: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc ( 2004-2010) ....80 Biểu đồ3.3: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Hàn Quốc (1993-2003) ............................................................................................81 Biều đồ 3.4: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Hàn Quốc (2004-2010) ...........................................................................................82 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Việt Nam và Hàn Quốc là hai quốc gia ở Đông Á, có nhiều nét tương đồng về lịch sử và văn hóa. Trong lịch sử cả hai dân tộc đã nhiều lần phải đương đầu với thế lực ngoại xâm lớn hơn mình gấp nhiều lần. Lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm đã hun đúc nên tinh thần yêu nước và ý thức dân tộc bất khuất của nhân dân hai nước. Đều nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, Việt Nam và Hàn Quốc đều sớm tiếp nhận nhiều ảnh hưởng của nền văn minh ra đời sớm và nổi tiếng này. Mặt khác cả hai dân tộc đều sớm có một nền giáo dục và thi cử theo tinh thần nho giáo. Phật giáo cũng sớm du nhập vào hai nước và trong lịch sử, phật giáo đã từng một thời giữ vị trí quốc giáo của hai nước và cho đến ngày nay vẫn tiếp tục phát triển. Những nét tương đồng về lịch sử, văn hóa nêu trên đã khiến cho hai dân tộc dễ xích gần lại với nhau. Trong lịch sử, mối quan hệ giữa hai nước đã có từ nhiều thế kỷ trước: Thế kỷ XII, XIII, hai Hoàng tử của vương triều Lý (1010-1225) là Lý Dương Côn - em Lý Dương Hoán- tức vua Lý Thần Tông (1128-1138), kế tiếp là Hoàng tử Lý Long Tường- Hoàng tử thứ của vua Lý Anh Tông (1138-1175), cháu nội của vua Lý Thần Tông, em vua Lý Cao Tông (1176-1210) đã từng đặt chân đến Hàn Quốc và đã có nhiều đóng góp to lớn cho đất nước này. Hiện Nay ở Hàn Quốc vẫn còn nhiều hậu duệ dòng họ Lý đang sinh sống và làm việc tại đây. Tuy nhiên mối quan hệ Việt- Hàn không phải lúc nào cũng diễn ra êm đẹp. Trong giai đoạn nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ (1954-1975), quan hệ giữa hai nước đã trở nên căng thẳng, thậm chí là thù địch. Với tư cách là đồng minh của Mỹ, Hàn Quốc đã gửi quân đến Việt Nam tham chiến (1964) và đã gây ra nhiều tội ác đối với nhân dân Việt Nam. Sau chiến thắng 30-4-1975 của nhân dân Việt Nam, quan hệ giữa hai nước rơi vào thời kỳ đóng băng trong một thời gian dài (1975-1992). Thời gian này mối quan hệ giữa hai nước có chăng chỉ diễn ra qua hình thức trung gian . Với mong muốn khép lại quá khứ hướng tới tương lai, hai nước cùng chung quyết tâm phát triển mối quan hệ, hợp tác trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền dân tộc, phấn đấu vì sự ổn định và hợp tác phồn thịnh ở khu vực cũng như trên thế giới, ngày 22-12-1992, Việt Nam và Hàn Quốc đã chính thức ký kết quan hệ ngoại giao. Từ đó đến nay, quan hệ hai nước không ngừng phát triển về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội...Cả hai đều có những tiềm năng to lớn để có thể hợp tác bổ sung cho nhau trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Hiện nay quan hệ giữa hai nước đang phát triển tốt đẹp trên nhiều lĩnh vực ngoại giao, kinh tế, văn hóa... Thương mại giữa hai nước và đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam ngày càng tăng trưởng nhanh. Giao lưu văn hóa, khoa học kỹ thuật giữa hai nước cũng được quan tâm dưới nhiều hình thức như: hội thảo khoa học, trao đổi chuyên gia, sinh viên, các đoàn nghệ thuật.. Tại Hàn Quốc, khoa tiếng Việt đã được mở ở một số trường Đại Học... Tại Việt Nam, việc nghiên cứu và đào tạo về Hàn Quốc học cũng đã bắt đầu sau khi hai nước ký kết quan hệ bang giao.... Tuy nhiên quan hệ kinh tế là nổi bật nhất, thường xuyên giữa hai quốc gia. Trong điều kiện khả năng của mình, tôi chỉ đi vào nghiên cứu ở khía cạnh quan hệ kinh tế với mong muốn có cách nhìn toàn diện đầy đủ hơn về lịch sử phát triển đất nước cũng như kinh tế -văn hóa giữa hai dân tộc.. Vì tất cả những lý do trên, tôi đã chọn đề tài quan hệ kinh tế Việt Nam –Hàn Quốc ( 1992-2010 ) làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng chính của luận văn là mối quan hệ kinh tế Việt Nam-Hàn Quốc (1992-2010). Ngoài ra những nét tương đồng về lịch sử và văn hóa giữa hai quốc gia cũng được xem xét trong luận văn này.. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn là giai đoạn từ 1992, thời điểm bắt đầu đặt quan hệ ngoại giao cho đến năm 2010. Trong quan hệ kinh tế, luận văn tập trung nghiên cứu hai vấn đề: Quan hệ thương mại và quan hệ đầu tư. Trong quan hệ thương mại, chủ yếu tìm hiểu, nghiên cứu tình hình xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Hàn Quốc (1992-2010). Trong quan hệ đầu tư, chủ yếu tìm hiểu tình hình đầu tư giữa Việt Nam và Hàn Quốc (1992-2010) 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề và các nguồn tài liệu Quan hệ kinh tế Việt- Hàn giai đoạn từ 1992 đến 2010 là đề tài mới, những công trình nghiên cứu về quan hệ kinh tế giữa hai nước có thể tìm thấy qua các sách, báo, tạp chí, internet.... Xin được liệt kê dưới đây. + Về lĩnh vực kinh tế có các bài viết sau: - Hội nhập kinh tế Đông Á và tác động của nó tới quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc của PGS. TS Ngô Xuân Bình – Viện nghiên cứu Đông Bắc Á. Tác giả tập trung phân tích những vấn đề: Nhận dạng hội nhập kinh tế Đông Á, liên kết phi hiệp định khu vực, khu vực thương mại tự do (FTAs), hiệp định tư do song phương (FTAs) ..sau đó chỉ rõ sự hội nhập kinh tế Đông Á tác động tới quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc. - FDI và ODA của Hàn Quốc vào Việt Nam: Thực trạng và triển vọng của TS. Trần Quang Minh và Th.S. Võ Hải Thanh – Viện nghiên cứu Đông Bắc Á. Tác giả tập trung phân tích nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) và viện trợ phát triển chính thức (ODA) của Hàn Quốc vào Việt Nam góp phần không nhỏ vào quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam nói riêng và quan hệ hợp tác giữa hai nước nói chung... - Hợp tác kinh tế Việt Nam Hàn Quốc thông qua đầu tư hợp tác trực tiếp nước ngoài (FDI) của GS.TS. Hwy- Chang Moon. Bài viết dừng lại ở việc nói rõ đầu tư của Hàn Quốc tại Việt Nam, phân tích môi trường FDI... không đề cập đến quan hệ thương mai Việt – Hàn. - Quan hệ thương mại Việt Nam –Hàn Quốc của PGS. TS. Phạm Thị Quý – Đại Học Kinh tế Quốc Dân. Bài viết tập trung đi sâu vào phân tích quan hệ thương mại giữa hai nước từ năm 1992 đến năm 2003, sau đó vạch ra giải pháp và triển vọng thúc đầy quan hệ hai nước lên tầm cao mới... - Quan hệ kinh tế Việt Nam- Hàn Quốc: 15 năm hợp tác và phát triển của Tiến sĩ Trần Quang Minh, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu Đông Bắc Á. Nội dung đề cập đến viện trợ phát triển của Hàn Quốc dành cho Việt Nam, tổng kết 15 năm quan hệ kinh tế Việt - Hàn, sơ lược tình hình đầu tư của Hàn Quốc tại Việt Nam. Nội dung bài viết mang tính chất khái quát, tham khảo là chính. - Thúc đẩy quan hệ kinh tế Việt Nam- Hàn Quốc là nghiên cứu khoa học của Ngô Xuân Bình và Đặng Khánh Toàn, đăng trên tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5 ( 111) 52010. Nội dung chủ yếu đưa ra những nhận định, đánh giá trong quan hệ kinh tế Việt – Hàn. Mặt khác bài viết còn tập trung phân tích tiềm năng hợp tác và triển vọng quan hệ kinh tế Việt – Hàn trong bối cảnh quốc tế. - Nguyễn Hồng Nhung với Quan hệ thương mại, đầu tư Việt Nam- Hàn Quốc và vấn đề nhập siêu của Việt Nam, đăng trên tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 1 ( 107) 1-2010. Nội dung đề cập đến quá trình trao đổi hàng hóa Việt Nam – Hàn Quốc, tình hình đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam, mối liên hệ thương mại- đầu tư trong quan hệ song phương ViệtHàn và vấn đề nhập siêu của Việt Nam. Người đọc có thể hiểu một cách khái quát quan hệ kinh tế Việt – Hàn. Tuy nhiên bài viết đi sâu vào phân tích tình hình xuất, nhập khẩu của hai nước trong các năm 1993, 2000, 2008, chưa chỉ rõ được sự phát triển vượt bậc trong quan hệ kinh tế Việt – Hàn qua các năm. Bài viết có đề cập đến quan hệ đầu tư giữa hai quốc gia, tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở việc khái quát những con số, chưa chỉ rõ được nguyên nhân của sự hạn chế đầu tư của Việt Nam vào thị trường Hàn Quốc. - Việt Nam trên đường đồi mới – Quan hệ kinh tế Việt Nam- Hàn Quốc: triển vọng tốt đẹp của Nguyễn Sinh đăng trên Tạp chí Cộng Sản số ra ngày 6/1/2011. Tác giả đã cho người đọc thấy được những kết quả to lớn trong quan hệ kinh tế giữa Việt Nam – Hàn Quốc. Nội dung ngắn gọn, chỉ hơn 2 trang, tuy nhiên ưu điểm của bài viết chỉ rõ được tầm quan trọng cũng như những hạn chế trong quan hệ kinh tế Việt- Hàn. - Tác giả Nghi Phương, trong bài viết Tổng kim ngạch thương mại hàng hóa song phương giữa Việt Nam và Hàn Quốc tăng mạnh trong 5 tháng đầu năm 2010, đăng trên trang web của Tổng cục Hải quan Việt Nam ngày 4/3/201. Nghi Phương đã khái quát tổng kim ngạch 5 tháng đầu năm 2010 trong quan hệ thương mại Việt – Hàn, bên cạnh đó cũng chỉ rõ tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 2005-2007. Tuy nhiên bài viết này mang tính chất tổng kết hơn là đi sâu phân tích kết quả đạt được trong quan hệ kinh tế Việt- Hàn. - Hợp tác thương mại và công nghiệp song phương giữa Hàn Quốc và Việt Nam của GS.TS. Inshik Oh ( đại học tổng hợp Sangmyung). Bài viết đưa ra những khái quát trong quan hệ thương mại của Hàn Quốc ( 1992-2003), tình hình phát triển thương mại của Hàn Quốc, cơ cấu thương mại song phương Việt – Hàn, những hợp tác công nghiệp giữa hai quốc gia... Quan hệ kinh tế Việt- Hàn chưa được đề cập đẩy đủ trong bài viết này... - Ngô Thị Trinh ( Viện kinh tế và chính trị thế giới ) có bài viết: Quan hệ hợp tác Việt Nam – Hàn Quốc trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực việt Nam: Thực trạng, xu hướng và kiến nghị giải pháp. Nội dung chủ yếu đề cập đến sự hợp tác nguồn nhân lực giữa hai bên, cũng như chỉ ra được tiềm năng hợp tác giữa hai quốc gia trong việc phát triển nguồn nhân lực...nội dung quan hệ kinh tế Việt- Hàn đề cập rất ít trong bài viết này. - Trong luận án Tiến sĩ lịch sử Việt Nam: Mối quan hệ Việt – Hàn trong và sau chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam (1955-2005) của Ku –Su- Jeong, có đề cập đến mối quan hệ kinh tế Việt - Hàn, tuy nhiên chỉ là những nét sơ lược về quan hệ kinh tế trong và sau chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. (1955-2005), tác giả không đi vào phân tích tình hình xuất, nhập khẩu và tổng kim ngạch giữa hai quốc gia cũng như chưa chỉ ra được những hạn chế trong quan hệ kinh tế giữa hai nước. + Về lĩnh vực văn hóa- xã hội. Luận văn quan tâm đến những nét gần giống về lịch sử- văn hóa giữa Việt Nam – Hàn Quốc trước khi nghiên cứu quan hệ kinh tế giữa hai quốc gia. Tuy nhiên chưa thấy một công trình nào nghiên cứu về vấn đề này một cách đầy đủ. Đây là một công việc khó khăn. Có một số bài viết đề cập đến những nét gần nhau trong lịch sử - văn hóa Việt – Hàn, tuy nhiên đều sơ lược. Xin được liệt kê dưới đây: - Việt Nam – Hàn Quốc những nét gần nhau và khác nhau trong quá trình phát triển dân tộc của PGS. TS Mạc Đường. Bài viết không nêu bật được sự giống và khác nhau về văn hóa giữa hai dân tộc mà đi vào những nét khái quát... - Gia lễ trong văn hóa Việt – Hàn của TS. Ahn Kyong Hwan. Bài viết khái quát về gia lễ trong văn hóa Việt- Hàn, chưa chỉ rõ được những nét giống và khác nhau trong gia lễ của hai nước... - Cuốn: Một chuyến du lịch Hàn Quốc NXB Quảng Đông Trung Quốc. Nội dung cuốn sách chỉ tập trung ở việc khái quát lịch sử Hàn Quốc, tuy nhiên cuốn sách cung cấp thêm cho đọc giả về nét văn hóa truyền thống, những điểm du lịch hấp dẫn của Hàn Quốc. - Bước chân thần kỳ trong hệ thống giáo dục Hàn Quốc- Tạp chí giáo dục và thời đại. Nội dung cung cấp về sự phát triển vượt bậc của nền giáo dục Hàn Quốc cũng như những chính sách hấp dẫn nhằm lôi kéo du hoc sinh nước ngoài đến Hàn Quốc trong đó có Việt Nam. - Đất Nước Hàn Quốc do An Châu và Trung Vinh biên soạn. Nôi dung cuốn sách cung cấp tương đối đầy đủ về lịch sử đất nước con người, văn hóa của Hàn Quốc. Cuốn sách cung cấp một số những sự kiện quan trọng trong quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc (19922006) - Đối thoại với các nền văn hóa Triều Tiên biên dịch Trịnh Huy Hóa. Nội dung đưa đến cho người đọc hiểu rõ được những nét khái quát nhất về lịch sử văn hóa của Hàn Quốc...không đề cập đến những nét giống nhau trong lịch sử- văn hóa giữa hai quốc gia. Tuy nhiên người đọc có thể rút ra được những nét khái quát nhất về lịch sử- văn hóa của Hàn Quốc để từ đó so sánh đối chiếu với văn hóa- lịch sử Việt Nam. - Sổ tay du lịch và khám phá Hàn Quốc do Nguyễn Lư biên soạn, được NXB văn hóa thông tin xuất bản năm 2007. Nội dung sách giới thiệu khái quát về văn hóa lịch sử con người Hàn Quốc... Ngoài các tư liệu từ sách báo, tạp chí nói về mối quan hệ kinh tế Việt - Hàn, ... từ internet có thể tìm thấy nhiều nguồn tài liệu qua các trang web sau : + Bộ ngoại giao Việt Nam : http://WWW mofa.gov.vn + Đại sứ quán Hàn Quốc tại Việt Nam: http: //WWW.hanquocngaynay.com + Tổng cục thống kê Việt Nam:http: WWW.gso.gov.vn + Bộ kế hoạch và đầu tư http: //WWW mpi.gov.rn 4. Phương pháp nghiên cứu và bố cục của luận văn - Để tiến hành nghiên cứu nghiên cứu đề tài, phương pháp lịch sử và phương pháp logic được sử dụng chủ yếu. Ngoài ra còn có các phương pháp khác như: tổng hợp, phân tích, loại suy, thống kê để làm rõ mối quan hệ kinh tế giữa hai nước. - Bố cục luận văn ngoài phần dẫn luận, phần kết luận, nội dung chính chia làm 3 chương : Chương I : CƠ SỞ CỦA MỐI QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM - HÀN QUỐC Chương II: QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM - HÀN QUỐC (1992-2010) Chương III: TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM – HÀN QUỐC 5. Đóng góp của luận văn + Về mặt khoa học: Nghiên cứu mối quan hệ về kinh tế giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong giai đoạn từ 1992-2010 để có điều kiện tái hiện quá trình bang giao Việt – Hàn từ khi hai nước chính thức đặt quan hệ. Từ đó có thể đưa ra những nhận định, đánh giá, và tổng kết lại những mặt tích cực và hạn chế trong mối quan hệ kinh tế giữa hai nước...qua đó vạch ra được những định hướng phát triển cho mối quan hệ kinh tế Việt – Hàn ở các giai đoạn tiếp sau. + Về mặt thực tiễn: Qua nghiên cứu có thể giúp nhân dân hai nước hiểu biết hơn về lịch sử và văn hóa của nhau, từ đó thúc đẩy và nâng cao mối quan hệ Việt – Hàn lên tầm cao mới, ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn, đặc biệt là quan hệ kinh tế. Chương I: CƠ SỞ CỦA MỐI QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM - HÀN QUỐC 1.1. Một số điểm tương đồng về lịch sử giữa hai dân tộc Việt -Hàn 1.1.1. Truyền thuyết về cội nguồn dân tộc Nhìn lại lịch sử hình thành đất nước Hàn Quốc, có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam. Cả hai quốc gia có đều có truyền thuyết nói lên quá trình hình thành dân tộc mình. Cả hai truyền thuyết đều chứa đựng những môtip đặc trưng dân tộc của vùng Đông Nam Á như mô tip hôn nhân lưỡng hợp, kết hợp. Truyền thuyết về buổi đầu dựng nước của Hàn Quốc nói tới hôn nhân kết hợp mang sắc thái bán đảo Đông Bắc Á. Đó là cuộc hôn nhân giữa hoàng tử Hwang ( Hoàng Hùng) con trai đấng tối cao trên thiên đường bay xuống ngọn núi Taebaek San (núi Thái Bạch) với 3000 người hầu để xây kinh thành, kết hôn với con gái gấu, sinh ra con trai là Tagun. Tagun lập vương quốc Choson (vào khoảng năm 233 trước Công nguyên) - tổ tiên của người Hàn Quốc hiện nay. [14, 30] Thuở ấy, ở núi Taebaek có một con gấu và một con hổ cùng sống. Hai con đến gặp Hwang để xin được trở thành người. Hwang cho chúng lá ngải và hai mươi nhánh tỏi thần và bảo chúng ăn hết những thứ đó trong một trăm ngày thì sẽ biến thành người. Sau đó gấu trở thành một cô gái xinh đẹp vì thực hiện đúng lời vua dặn, còn hổ thì không. Vua Hwang biến thành chàng trai xinh đẹp, đến xin kết hôn với cô gái gấu ( Hoàng nữ). Họ sinh được một con trai tên là Tan Gun Wang Keun. Tan Gun lên ngôi vua tại Choson đóng đô ở Pyong-yang (Bình Nhưỡng) và đặt tên nước là Choson (Hàn Quốc). Lúc này bên Trung Quốc, vua Nghiêu lên ngôi được mười năm. Tan Gun cai quản đất nước 1500 năm, nhường ngôi cho Cơ Tử, lên núi ở ẩn tại vùng Chang Tang Kieng, rồi trở thành Thần núi [25, 207] Đối với Việt Nam, truyền thuyết dựng nước cũng bắt đầu bằng huyền thoại với cuộc hôn nhân mang tính lưỡng hợp, kết hợp. Âu Cơ (giống Tiên) từ vùng núi xuống kết hợp cùng Lạc Long Quân (giống Rồng) từ biển lên, sinh ra trăm trứng nở trăm người con, sau lại chia đôi, một nửa ở miền đồi núi, một nửa miền sông nước, lập ra họ Hồng Bàng cùng các triều đại vua Hùng. Theo sách Lĩnh Nam chính quái, cuộc kỳ ngộ giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ như sau: Lạc Long Quân là cháu mấy đời của vua Thần Nông là con của Kinh Dương Vương là con gái của Thần Núi Ngũ Lĩnh tức bà Vu Tiên. Kinh Dương Vương lấy con gái thần Hồ Động Đình – cuộc hôn nhân giữa con trai Thần Núi và con gái Thần Nước sinh ra Lạc Long Quân, tên thật là Sùng Lãm. Lạc Long Quân lớn lên được Kinh Dương vương cho cai quản đất Lạc Việt. Bờ cõi nước Xích- Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp hồ Động Đình (Hồ Nam), phía nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thụ (Tứ Xuyên), phía Đông giáp Nam Hải.[52, 9-10] Bấy giờ Đế Lai trị ở phương Bắc, vốn giòng dõi thần Nông đi thăm nước Xích –Quỷ ở phương Nam. Trong lúc ấy Long Quân đang ở Thủy phủ. Đế Lai để con gái Âu Cơ cùng những kẻ theo hầu ở lại, còn mình đi thăm các địa phương. Dân chúng khổ sở vì những nỗi phiền nhiễu của họ hàng phương Bắc của Lạc Long Quân, bèn cùng nhau to tiếng, gọi lên “ Bố ơi ở đâu? Sao để cho chúa phương Bắc đến quấy nhiễu dân chúng?” Long Quân đến, thấy Âu Cơ nhan sắc đẹp đẽ thì đem lòng yêu thương. Long quân biến thành một chàng trai khỏe mạnh, phong độ, hiện ra trước cửa đàn, hát tỏ tình ghẹo Âu Cơ, Ậu cơ trông thấy có cảm tình, vui theo...Long Quân đưa Âu Cơ về Long Trang. Không lâu sau Âu Cơ sinh hạ được một cái bọc có trăm trứng, mỗi trứng lại nở thành một người con trai. Về sau do hoàn cảnh khác nhau, kẻ trên cao người vùng biển, Lạc Long Quân và Âu Cơ buộc phải chia tay. Năm mươi con theo mẹ về núi, năm mươi con theo cha về biển, chia nhau cai quản các nơi. Tổ tiên người Việt bắt đầu từ đó. Âu Cơ cùng năm mươi con ở Phong Sơn, nay thuộc huyện Bạch Hạc (Phú Thọ), tôn người con trưởng làm chúa. Gọi là Hùng Vương, tức thủy tổ của dân tộc Việt Nam. Có nhiều nghi vấn về khởi thủy lập quốc bằng truyền thuyết của Việt Nam và Hàn Quốc, mốc thời gian dựng nước của hai quốc gia cũng còn nhiều vấn đế cần nghiên cứu rõ hơn. Khoảng 2333 trước công nguyên Hàn Quốc đã thành lập được quốc gia đầu tiên (cũng có tài liệu cho rằng quốc gia cổ Choson Hàn Quốc ra đời muộn nhất vào khoảng thế kỷ IV TCN) [17, 70]. Theo các nhà nghiên cứu, Nhà nước đầu tiên của Việt Nam ra đời vào khoảng thế kỷ VII TCN [36, 40] Mặc dù có nhiều vấn đế cần nghiên cứu và xem xét lại về quá trình hình thành lịch sử dân tộc của hai quốc gia, tuy nhiên việc dựa vào truyền thuyết để nói về quá trình lập quốc là một điều tương đồng. Nét tương đồng này được xem như bước mở đầu cho mối quan hệ Việt – Hàn. Từ khi lập quốc cho đến suốt quá trình xây dựng và kiến tạo lịch sử, hai dân tộc còn nhiều điểm tương đồng khác, sự tương đồng ấy thể hiện rõ qua quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc. 1.1.2. Việt Nam-Hàn Quốc cùng đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc 1.1.2.1. Chống phong kiến Trung Hoa Việt Nam cũng giống như Hàn quốc, lịch sử dựng nước đi đôi với lịch sử giữ nước chống ngoại xâm. Việt Nam Và Hàn Quốc đều có kẻ thù chung là Trung Hoa phong kiến, cả hai dân tộc đã kiên trì trong một thời gian dài để đánh tan sự xâm lược của ngoại bang. Sự tương đồng trong việc chống ngoại xâm Trung Hoa giữa hai dân tộc được thể hiện qua các sự kiện lịch sự sau: - Chống ách thống trị của nhà Hán Theo ghi nhận của lịch sử, năm 108 trước Công nguyên quốc gia cổ Choson đã bị nhà Hán xâm lược. Nhà Hán chia miền Bắc bán đảo Hàn Quốc ra làm 4 quận.; Lo-lang, Chen –fan (sau này là Tai-fang), Lin,-t’un và Hsuan-t’u. [17, 71]. Nhà Hán đã kiểm soát bán đảo này hơm 400 năm.Trong thời kỳ này, một phần rất lớn văn hóa Trung Quốc đã bị đồng hóa bởi cư dân bán đảo, một sự kiện mở đầu cho nhiều thế kỷ vay mượn văn hóa của người Trung Quốc. Giống như Hàn Quốc Việt Nam bị nhà Hán xâm lược vào năm 111 trước Công nguyên, trước Hán Quốc 3 năm, tương tự, nước Việt nam bị chinh phục và bị người Hán chia làm 3 quận (Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam) [36, 56] - Chống ách cai trị của nhà Tùy Từ cuối thời Đông Hán đến thời Nam –Bắc triều, xã hội trung Hoa luôn luôn hỗn loạn vì nội chiến và sự xâu xé của các tộc ở phương Bắc nên các triều đại phong kiến Trung Hoa không thể xâm lược ra bên ngoài được. Nhưng khi đất nước được thống nhất, nhà Tùy (581681) liền phát động những cuộc chiến tranh xâm lược ra bên ngoài để thôn tính các nước xung quanh, trong đó thể hiện rõ mưu đồ xâm chiếm bán đảo Hàn. Thời gian từ năm 53 đến 668, bán đảoTriều Tiên thường diễn ra các cuộc đối địch giữa 3quốc gia (thường được gọi là thời kỳ tam quốc); Koguryo, Paekche và Shilla, chia cắt bán đảo này thành 3 vùng riêng biệt (giống như một cuộc nội chiến chia cắt đất nước). Ba quốc gia đếu có cơ cấu đẳng cấp xã hội chặt chẽ và tổ chức quân sự hùng mạnh, tiến hành chiến tranh nhằm giành lấy uy quyền tối cao trên bán đảo. Koguryo gồm miền Bắc bán đảo Hàn và hai tỉnh Liêu Ninh, Cát Lâm, một phần tỉnh Hắc Long Giang của Trung Quốc ngày nay. Paekche nằm ở Tây Nam bán đảo Hàn. Shilla ở Đông Nam bán đảo Hàn. Để gây sự với Koguryo, năm 597, Tùy Văn Đế (người mở đầu triều đại nhà Tùy) gửi thư kể tội vua Koguryo nhiều lần sai quân giết hại cư dân ở biên giới và ngầm mua chuộc thợ cung nỏ làm việc trong binh công xưởng của Trung Quốc trốn chạy sang Koguryo. Năm 598, Tùy Văn Đế lấy cớ vua Koguryo cho quân cướp phá ở biên giới nên đã huy động 30 vạn quân thủy bộ chia đường đánh Koguryo. Tuy nhiên cuộc tấn công không thành công. Năm 605, Tùy Dưỡng Đế (còn gọi là Tùy Dượng Đế) lên ngôi, nhà Tùy cho rằng Koguryo là đất của Trung Quốc, nay mới không thần phục, lập thành một vùng riêng. Vì vậy, năm 611, Dưỡng Đế hạ chiếu chuẩn bị đánh Koguryo. Đầu xuân năm 612, Tùy Dưỡng Đế huy động 1.130.000 quân chia làm hai đạo tấn cống Koguryo [35, 113] Do bị thất bại trong trận đánh vào năm 612, năm 613, tùy Dưỡng Đế tự mình đem quân xâm lược Koguryo lần thứ hai. Khi quân Tùy đang tấn công Liêu Đông nghe tin Thượng trụ quốc Dương Huyền Cảm khởi binh, Tùy Dưỡng Đế phải vội vàng ra lệnh rút quân, bỏ lại quân trang, quân nhu chất cao như núi. Dẹp xong cuộc nổi dậy của Dương Huyền Cảm, năm 614, Tùy Dưỡng Đế lại tiếp tục chuẩn bị lực lượng tấn công Koguryo lần thứ ba. Nhưng thời gian này, nông dân khắp nơi trong nước nổi dậy khởi nghĩa. Tùy Dưỡng Đế vội vàng kéo quân viễn chinh về để đối phó. Như vậy trong vòng 16 năm, nhà Tùy đưa đại quân sang xâm lược nước Koguryo 4 lần, nhưng đều thất bại. Đối với Việt Nam, cũng giống Hàn Quốc, cũng bị quân Tùy tấn công. Năm 544, Lý Bí đã đánh bại quân xâm lược Lương, thành lập nước Vạn Xuân, giành lại quyền tự chủ cho Tổ quốc. Năm 602, Tùy Văn Đế sai Lưu Phương đem 10 vạn quân sang tấn công nước Vạn Xuân. Lý Phật Tử huy động nhân dân tổ chức anh dũng chiến đấu. Nhiều trận chiến đấu diễn ra ác liệt ở vùng biên giới đất nước. Do quân Tùy đông, tổ chức đánh nhanh, đánh gấp, quân Lý Phật Tử không chống cự nổi. Quân Tùy tiến xuống vây thành Cổ Loa, vừa uy hiếp vừa dụ dỗ đe dọa, buộc Lý Phật Tử đầu hàng, rồi bắt đem về Trường An. [36, 70] Nhà nước Vạn Xuân kết thúc, nước Vạn Xuân rơi vào ách thống trị của nhà Tùy. - Chống quân xâm lược nhà Đường Năm 618 Lý Uyên thành lập nhà Đường, mở ra thời đại mới cho lịch sử Trung Hoa. Đến thời Đường Thái Tông Trung Quốc bước vào thời kỳ thống nhất ổn định. Cũng giống như các vương triều trước của Trung Quốc, nhà Đường lại phát động nhiều cuộc chiến tranh xâm lược các nước xung quanh. Việt Nam và Hàn Quốc không nằm ngoài đối tượng xâm lược của Trung Hoa. Năm 643 Shilla bị liên quân Koguryo và Paekche tấn công, nên sai sứ sang Trung Quốc xin cứu viện. Nhân cơ hội này, dưới chiêu bài “báo thù cho em của Trung Quốc và rửa nhục cho vua cha Koguryo”, Đường Thái Tông quyết định tấn công Koguryo. Với 10 vạn quân thủy bộ và 500 thuyền chiến, năm 645, Đường Thái Tông đích thân chỉ huy cuộc viễn chinh. Shilla cũng đem 5 vạn quân cùng tác chiến. Quân Đường hạ được một số thành ở Liêu Đông, nhưng khi vây đánh thành An Thị (Liêu Ninh ngày nay) qua 88 ngày vẫn không hạ được, trái lại quân Đường bị tổn thất nặng nề. Vì vậy đến tháng 9 năm 645, lấy lí do “ vùng tả ngạn sông Liêu rét sớm, cỏ khô, nước đông, người ngựa khó ở lâu được, vả lại lương thực sắp hết ”. [47, 121] Đường Thái Tông ra lệnh rút quân. Năm 649 Đường Thái Tông chết, mưu đồ chinh phục bán đảo Hàn phải gác lại. Đến thời Đường Cao Tông, sự xung đột giữa các nước ở bán đảo Hàn vẫn tiếp diễn. Với sự súp đỡ của Koguryo, Paekche nhiều lần xâm nhập Shilla. Năm 660, Shilla lại cầu cứu nhà Đường. Năm 660 nhà Đường mang 10 vạn quân phối hợp với Shilla cùng tấn công Paekche, Paekche bị diệt vong. Koguryo bị cô lập. Năm 666 nội bộ Koguryo xảy ra xung đột vũ trang làm thế nước này càng suy yếu. Lợi dùng tình thế ấy, năm 667, nhà Đường tiếp tục phối hợp với Shilla tấn công Koguryo. Năm 668, Koguryo bị chinh phục. Ngay năm 668, nhà Đường thành lập An Đông đô họ phủ ở Bình Nhưỡng và chia đất đai chiếm được thành châu, quận để cai trị. Như vây, lực lượng hùng mạnh nhất của lịch sử sơ khai Hàn Quốc đã bị đánh bại; Shilla phải chống lại sức mạnh của nhà Đường. Sau thắng lợi, nhà Đường đã thiết lập các quận trên lãnh thổ Koguryo và Paekche, bắt đầu đối xử với Shilla như một nước chư hầu. Tuy nhiên, năm 676 Shilla thành công trong việc đuổi quân nhà Đường ra khỏi quốc vương Paekche cũ và thành lập ở đó một nhà nước có biên giới phía Bắc cắt ngang bán đảo từ cửa sông Taedong. Tất nhiên, điều này không có nghĩa khôi phục lại toàn bộ lãnh thổ của ba vương triều trước kia. Đối với Việt Nam, sau khi nhà Tùy sụp đổ, nhà Đường kế tục sự nghiệp và tiếp tục chính sách cai trị Việt Nam. Nhà Đường đã bãi bỏ các quận do nhà Tùy lập, đặt Giao Châu đô hộ phủ (622) rồi đặt An Nam đô hộ phủ (679). Địa danh An Nam có từ đó. Những thủ đoạn cai trị xảo quyệt và âm mưu đồng hóa, ngu dân của chính quyền đô họ nhà Đường vẫn không làm cho nhân dân Việt Nam khuất phục. Trái lại, trong ba thế kỷ đô hộ của nhà Đường cũng chính là ba thế kỷ đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của nhân Việt Nam mà đỉnh cao là các cuộc khởi nghĩa vũ trang của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến (687), khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (722). Mai Thúc Loan kêu gọi những người dân đã cùng ông đi gánh vải nộp cống nổi dậy khởi nghĩa. Mai Thúc Loan đã phát triển cuộc khởi nghĩa ra khắp vùng Hoan, Diễn, Ái ( vùng Thanh- Nghệ- Tĩnh Việt Nam bây giờ). Theo cựu Đường thư , Mai Thúc Loan liên kết được dân chúng của 32 châu. Lợi dụng vùng địa thế Sa Nam ( cạnh sông Lam, Nghệ An), có sông sâu rừng rậm, ông chọn làm căn cứ và đóng đại bản doanh, đắp một chiến lũy dài hơn 10.000 mét dọc bờ sông Lam, lấy núi Đụn làm chỗ dựa, gọi là thành Vạn An. Nơi trữ lương thực đặt ở phía trong núi, nhiều đồn trại đóng ở sườn núi phía ngoài, sông Lam vây bọc quanh núi như con hào tự nhiên. [36, 74] Mai Thúc Loan xưng đế, đóng đô ở thành Vạn An, sử cũ gọi là Mai Hắc Đế ( ông vua đen họ Mai). Tuy nhiên lúc này nhà Đường còn mạnh, nhà Đường đã cử Dương Tư Húc đem 10 vạn quân tiến quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Do lực lượng yếu hơn, Mai Thúc Loan thất trận, nghĩa quân tan vỡ. Thất bại cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan càng làm tăng thêm tinh thần quyết chiến của người dân Việt. Khoảng nửa sau thế kỷ VIII, một hào trưởng ở Đường Lâm (Ba Vì ) tên là Phùng Hưng đã phát động một cuộc khởi lớn chống chính quyền đô hộ ( 783-791) Tiếp sau cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng là khởi nghĩa của Dương Thanh (819820 ). Vốn là một hào trưởng Việt, có nhiều thế lực, làm thứ sử châu Hoan. Ông đã tập hợp lưc lượng chiếm phủ Tống Bình, giết chết Lý Tượng Cổ và hơn 1000 bộ hạ của y. Cuối thế kỷ IX, triều đình nhà Đường rơi vào tình trạng khủng hoảng, suy vong. Nạn cát cứ của các tập đoàn quân phiệt ngày càng ác liệt, khởi nghĩa của Hoàng Sào (874-884) đã làm lung lay tận gốc chính quyền của nhà Đường. Chính trong bối cảnh này, một hào trưởng ở Hồng Châu (Hải Dương ) là Khúc Thừa Dụ được nhân dân ủng hộ đã tiến quân ra chiếm đánh phủ Tống Bình (Hà Nội), tư xưng là tiết độ sứ, thực chất là xóa bỏ chế độ đô hộ để khéo léo chuyển sang giành độc lập dân tộc một cách vững chắc hơn. Triều đình nhà Đường buộc phải công nhận một sự đã rồi. Tuy còn mang danh hiệu của nhà Đường, nhưng thực chất Khúc Thừa Dụ đã xây dựng một chính quyền tự chủ, kết thúc về cơ bản ách thống trị hơn 1000 năm của triều đại phong kiến phương Bắc năm 905. Như vậy, nhìn lại lịch sử Hàn Quốc và lịch sử Việt Nam trong giai đoạn chống ách thống trị của Trung Hoa phong kiến có nhiều điểm tương đồng. Cả hai dân tộc cùng chống ách xâm lược của nhà Hán, Tùy, Đường. Cả hai dân tộc đã vùng lên đấu tranh để thoát khỏi ách thống trị của trung Hoa rộng lớn. Tuy cũng có những điểm khác nhau, nhưng tựu chung cả hai dân tộc là đối tượng mà Trung Hoa nhắm tới để xấm chiếm, mở rộng lãnh thổ. Cuối cùng cả hai dân tộc đã vùng lên đấu tranh, thoát khỏi sự lệ thuộc của phong kiến Trung Hoa. 1.1.2.2. Việt Nam- Hàn Quốc cùng đấu tranh chống quân xâm lược Mông Cổ Việt Nam - Hàn Quốc cùng có kẻ thù chung là Trung Hoa phong kiến, tuy nhiên cả hai dân dân tộc còn có kẻ thù chung là Mông Cổ. Cuối thế kỷ XII, đầu thế kỷ XIII, người Mông Cổ sống thành bộ lạc, liên minh bộ lạc trên vùng lãnh thổ Châu Á rộng lớn từ hồ Bai-can và sông A-mua phía Đông đến thượng lưu sông I-ê-ni-xê-i, phía Tây miền Nam Xi-bê-ri đến Vạn Lý Trường Thành ở phía Nam. Danh từ “ Mông Cổ ” chính thức được xuất hiện trong sách vở sau khi Thành- Cát – TưHãn lập nên quốc gia Mông Cổ thống nhất (1206), sử sách Trung Quốc gọi là người Thát. Sau khi thống nhất, Thành –Cát- Tư –Hãn dốc toàn bộ lực lượng quân sự vào những cuộc chiến tranh xâm lược với quy mô lớn. Quân Mông Cổ ào ạt tiến sang phương Đông, phương Tây. Tiến đánh Trung Quốc (1219), tràn vào trung Á (1218), tiến đánh nước Nga (1223). Tiếp nối là những cuộc viễn chinh xâm lược đẫm máu về phía Tây, phía Đông rồi tràn xuống phía Nam. Trong bối cảnh chung của khu vực, Việt Nam và Hàn Quốc không thể thoát khỏi sự xâm chiếm và mở rộng lãnh thổ của Mông Cổ. Tuy nhiên có một điểm khác với Hàn Quốc là Việt Nam đã đánh tan ba lần xâm lược của quân Nguyên- Mông giữ yên bờ cõi đất nước. Trước khi cho quân xâm lược Đại Việt, Mông Cổ nhiều lần cho sứ sang dụ hàng, nhưng sứ đi mà không trở lại. Vua Trần kiên quyết kháng chiến, ra lệnh bắt giữ sứ của Mông Cổ. Năm 1258, quân Mông Cổ chia làm hai đường tấn công vào Đại Việt. Trần Thái Tông tự thân chỉ huy chiến đấu. Quân Mông Cổ bị Đại Việt đánh tan ở Đông Bộ Đầu, Thăng Long, buộc phải quay ngựa chạy về Vân Nam – Trung Quốc. Sau khi đánh bại được Trung Hoa rộng lớn, Mông Cổ đã thành lập triều Nguyên ở Trung Quốc (1271-1368). Với bản chất hiếu chiến, nhà Nguyên tiếp tục chính sách mở rộng lãnh thổ. Năm 1282 nhà Nguyên yêu cầu Đại Việt phải cho mượn đường để tiến đánh Chiêm Thành nhưng bị vua Trần kiên quyết khước từ. Viện lý do Đại việt không chịu khuất phục, đầu năm 1285, Hốt Tất Liệt sai con mình là Thoát Hoan đem 50 vạn quân sang đánh, nhưng đến giữa năm 1285, quân Nguyên bị bất bại hoàn toàn. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để quân lính khiêng mới sống sót về nước. [35, 152]. Nhục nhã vì bị thất bại trước Đại Việt, Hốt Tất Liệt quyết định ngừng xâm lước Nhật Bản để tập trung lực lượng tấn công Đại Việt một lần nữa. Năm 1287, Thoát Hoan lại được giao nhiệm vụ dẫn 50 vạn quân tấn công Đại Việt. Một lần nữa quân Nguyên bị thất bại. Một số tướng lĩnh như Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ.... bị bắt sống. Tại bán đảo Hàn, năm 1231 Goryo ( Cao Ly ) bị Mông Cổ xâm chiếm. Toàn dân tộc Goryo đã đứng lên chiến đấu dũng cảm trước sự tấn công mạnh mẽ của Mông Cổ nhưng kết cục khác với Đại Việt, Goryo phải khuất phục trước sự tấn công của Mông Cổ. Dưới sự can
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan