Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ QUAN HỆ GIỮA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CỘNG HÒA PHÁP (1991 - 20...

Tài liệu QUAN HỆ GIỮA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CỘNG HÒA PHÁP (1991 - 2005)

.PDF
188
116
58

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH QUAN HỆ GIỮA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CỘNG HÒA PHÁP (1991 - 2005) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Thành phố Hồ Chí Minh – 2006 MỤC LỤC MỤC LỤC .................................................................................................................... 3 30T T 0 3 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 6 30T T 0 3 MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 7 30T T 0 3 1. Lý do chọn đề tài: ............................................................................................................7 T 0 3 30T 2. Lịch sử vân đề và nguồn tư liệu: ....................................................................................9 T 0 3 T 0 3 3. Phương pháp nghiên cứu:............................................................................................12 T 0 3 30T 5. Đóng góp của luận văn. ................................................................................................14 T 0 3 30T 6. Bố cục của luận văn: ....................................................................................................15 T 0 3 30T Chương 1: QUAN HỆ VIỆT - PHÁP TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 1996 ............... 16 30T T 0 3 1.1. Khái quát về quan hệ Việt - Pháp trước 1991. ..........................................................16 T 0 3 T 0 3 1.2. QUAN HỆ VIỆT NAM - PHÁP TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 1996. .........................20 T 0 3 T 0 3 1.2.1. Tình hình quốc tế và khu vực. .............................................................................20 T 0 3 T 0 3 1.2.1.1. Tình hình quốc tế. .........................................................................................20 T 0 3 30T 1.2.1.2. Tình hình khu vực. ........................................................................................22 T 0 3 30T 1.2.2. Tình hình nước Pháp ...........................................................................................24 T 0 3 30T 1.2.3. Tình hình Việt Nam .............................................................................................27 T 0 3 30T 1.2.4. Quan hệ Việt - Pháp trong lĩnh vực chính trị - ngoại giao ..................................29 T 0 3 T 0 3 1.2.5. Quan hệ Việt - Pháp trong lĩnh vực kinh tế- thương mại. ...................................35 T 0 3 T 0 3 1.2.5.1. Thương mại. .................................................................................................35 T 0 3 30T 1.2.5.2. Hợp tác đầu tư..............................................................................................36 T 0 3 30T 1.2.5.3.Chính sách viện trợ. ......................................................................................41 T 0 3 30T 1.2.6. Quan hệ Việt - Pháp trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục, khoa học - kỹ thuật......43 T 0 3 T 0 3 1.2.7. Quan hệ Việt - Pháp trên một số lĩnh vực khác. ..................................................47 T 0 3 T 0 3 1.2.8. Tiểu kết chương 1 ................................................................................................49 T 0 3 30T 3 Chương 2: QUAN HỆ VIỆT NAM - PHÁP TỪ NĂM 1997 ĐEN NĂM 2005 .... 51 30T T 0 3 2.1. Tình hình quốc tế và khu vực. ...................................................................................51 T 0 3 30T 2.1.1. Tình hình quốc tế: ................................................................................................51 T 0 3 30T 2.1.2. Tình hình khu vực................................................................................................53 T 0 3 30T 2.2. Tình hình nước Pháp.................................................................................................54 T 0 3 30T 2.3. Tình hình Việt Nam. ..................................................................................................57 T 0 3 30T 2.4.Quan hệ Việt - Pháp trong lĩnh vực chính trị - ngoại giao. ......................................59 T 0 3 T 0 3 2.5.Quan hệ Việt - Pháp trong lĩnh vực kinh tế - thương mại. .......................................63 T 0 3 T 0 3 2.5.1.Thương mại. .........................................................................................................63 T 0 3 30T 2.5.2. Hợp tác đầu tư. ....................................................................................................68 T 0 3 30T 2.5.3.Chính sách viện trợ. ..............................................................................................71 T 0 3 30T 2.6.Quan hệ Việt - Pháp trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục, khoa học - kỹ thuật. ........75 T 0 3 T 0 3 2.7.Quan hệ Việt - Pháp trên một số lĩnh vực khác.........................................................77 T 0 3 T 0 3 2.8.Tiểu kết chương 2. ......................................................................................................81 T 0 3 30T Chương 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ VE QUAN HỆ VIỆT – PHÁP 30T (1991 - 2005) ............................................................................................................... 84 30T 3.1. Kết quả của quan hệ Việt - Pháp. ..............................................................................84 T 0 3 T 0 3 3.2.Đặc điểm của quan hệ Việt - Pháp. ............................................................................93 T 0 3 T 0 3 3.3. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ quan hệ Việt - Pháp. ....................................99 T 0 3 T 0 3 3.4.Những cơ hội và thách thức trong quan hệ Việt - Pháp. ........................................103 T 0 3 T 0 3 3.5.Triển vọng của quan hệ Việt - Pháp.........................................................................106 T 0 3 T 0 3 3.6.Tiểu kết chương 3: .................................................................................................... 110 T 0 3 30T KẾT LUẬN .............................................................................................................. 112 30T 30T TÀI LIÊU THAM KHẢO ...................................................................................... 116 30T 30T I.Tiếng Việt: ..................................................................................................................... 116 T 0 3 30T II.Tiếng Anh: ...................................................................................................................131 T 0 3 30T 4 III.Tiếng Pháp:................................................................................................................131 T 0 3 30T IV.Website: .......................................................................................................................132 T 0 3 30T 1.Phía Việt Nam: ..........................................................................................................132 T 0 3 30T 2.Phía Pháp: .................................................................................................................134 T 0 3 30T PHỤ LỤC CÁC BẢNG ........................................................................................... 135 30T 30T 5 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ADB: Ngân hàng phát triển Châu Á. ADETEF: Cơ quan hỗ trợ phát triển trao đổi công nghệ, kinh tế và tài chính Pháp. AFD: Cơ quan phát triển Pháp. APD: Viện trợ phát triển chính thức. ASEAN: Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á. BAD: Ngân hàng phát triển châu Á. CCF: Trung tâm văn hóa Pháp CFD: Quỹ phát triển Pháp. EEC: Cộng đồng kinh tế Châu Âu. Eư: Liên minh châu Âu. FDI: Đầu tư nước ngoài trực tiếp. FF: Đồng Franc Pháp. FSP: Quỹ đoàn kết ưu tiên. IMF: Quỹ tiền tệ Quốc tế. NICs: Các nước công nghiệp. ODA: Viện trợ phát triển chính thức. RPE: Quỹ dành cho các nước đang phát triển Pháp. UNDP: Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc. USD: Đô la Mỹ. XHCN: Xã hội chủ nghĩa. WB: Ngân hàng thế giới. WTO: Tổ chức Thương mại thế giới. ZPE: Khu vực đoàn kết ưu tiên. 6 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Việt Nam và Pháp có mối quan hệ khá lâu. Ngay từ thế kỷ XVII - VXIII, khi những nhà truyền giáo đầu tiên đặt chân lên đất nước ta để giảng đạo, một bộ phận nhỏ cư dân Việt Nam đã đón nhận và tin theo những gì họ mang đến. Quan hệ hai nước có lẽ được nhắc đến nhiều hơn khi Nguyễn Ánh (vua Gia Long sau này) gặp giáo sỹ Pigneau de Béhaine (còn gọi là Bá-Đa-Lộc) và được chính phủ Pháp giúp đỡ thông qua Hiệp ước Versailles năm 1787, một phần trong những lý do đau đớn cho nhân dân Việt Nam với cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc chống thực dân Pháp ròng rã gần một thế kỷ sau đó (1858 - 1954). Một thời gian khá dài kể từ khi Mỹ hất cẳng và thay thế Pháp ở Đông Dương, mối quan hệ giữa nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) và Cộng hòa Pháp (từ đây gọi tắt là Quan hệ Việt - Pháp) gần như "đông cứng" cho đến khi hòa bình được lập lại, Việt Nam hoàn toàn thống nhất, quan hệ trên mới được khai thông, đặc biệt từ năm 1991 đến nay. Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ vu (6/1991), trên cơ sở nhận định về mục tiêu của hoạt động đối ngoại là giữ vững hòa bình, tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đẩy lùi một bước âm mưu bao vây, cô lập nước ta của các thế lực thù địch, từ đó tăng thêm bầu bạn và nâng vào uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; Đảng ta đã chỉ rõ: Trong tình hình thế giới và quan hệ quốc tế có nhiều thay đổi vừa qua, công tác đối ngoại bộc lộ một số yếu kém do chưa đánh giá đầy đủ và kịp thời, thiếu thống nhất giữa chủ trương và hành động. Do đó, văn kiện Đại hội vn đã xác định nhiệm vụ đối ngoại thời gian tới là: "giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc'' [36, tr.88]. Đại hội VII cũng yêu cầu quán triệt việc đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ trên mọi lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật đến quan hệ về Nhà nước, về Đảng và các tổ chức đoàn thể xã hội. Điều này tiếp tục được nhắc đến tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1/1994). Đặc biệt, quan điểm và chủ trương trên đã được hoàn chỉnh và cụ thể hóa tại Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996), trong đó nhấn mạnh đến việc mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế, giải quyết các vấn 7 đề bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp phù hợp thông qua thương lượng trên cơ sở tôn trọng, bình đẳng cùng có lợi. Văn kiện Đại hội IX (2001) của Đảng cộng sản Việt Nam cũng lần nữa khẳng định "Thực hiện nhất quán đối ngoại độc lập, tự chả mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, Việt Nam sẵn sàng là bạn của các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển" [38, tr.42]. Như vậy, bắt đầu từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, qua các kỳ Đại hội, Đảng cộng sản Việt Nam đã thể hiện sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động về quan hệ đối ngoại với các nước trong khu vực và thế giới, đặc biệt là các nước phát triển cao, có mối quan hệ truyền thống từ trước. Như vậy, chủ trương trên đã trở thành cơ sở pháp lý để Việt Nam nghiêm túc đánh giá lại quan hệ với nhiều nước, trong đó có Cộng hòa Pháp, đồng thời tiếp tục nâng quan hệ với Pháp lên một "tầm cao" mới. Mặt khác, từ góc độ của Pháp (và Cộng đồng châu Âu) ắt hẳn cũng muốn thông qua Việt Nam tiếp cận hơn nữa với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á mà không lâu trước đây là những nước đối đầu. Chủ đề quan hệ Việt - Pháp trong giai đoạn trước đây luôn là mối quan tâm lớn của nhiều học giả, các giới lãnh đạo chính trị, các nhà quân sự, các nhà quản lý kinh tế... ở nhiều góc độ chuyên môn và phương pháp tiếp cận khác nhau, nhìn chung những kết quả nghiên cứu đã có những đóng góp to lớn và hết sức giá trị nhằm nâng caơ sự hiểu biết về mối quan hệ hai nước với những thành tựu đã đạt được qua các giai đoạn lịch sử cụ thể. Từ sau năm 1975, mối quan hệ này càng có điều kiện nảy nở và đặc biệt được thúc đẩy mạnh mẽ trong giai đoạn 1991 - 2005 trên nhiều lĩnh vực: chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa giáo dục, khoa học kỹ thuật... Trên cơ sở những tài liệu đã được công bố, tôi mạnh dạn chọn đề tài "Quan hệ giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Pháp từ năm 1991 đến năm 2005" với mong muốn của bản thân là dựa trên những sự kiện thu thập được từng bước khái quát hóa và nhận diện rõ hơn mối quan hệ thú vị này. Từ đó, chúng tôi đưa ra những nhận định trên cơ sở đặt mối quan hệ này trong bối cảnh thế giới, khu vực và sự phát triển của tình hình nội tại mỗi quốc gia trong từng thời điểm khác nhau. Luận văn cũng là cơ hội cho bản thân tìm hiểu thêm tư tưởng của Hồ Chí Minh về quan điểm đối ngoại và sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới, mà quan hệ Việt - Pháp là một ví dụ sinh động và điển hình. 8 Mục đích chính của luận văn là góp phần tìm hiểu thực chất quá trình phát triển của quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Pháp từ năm 1991 đến năm 2005. Để đạt được yêu cầu trên, chúng tôi mạn phép nếu và giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản sau: ❖ Phân tích những nhân tố cơ bản tác động tới quan hệ giữa Việt - Pháp từ năm 1991 đến năm 2005. ❖Phục dựng lại thực trạng quan hệ Việt - Pháp trên lĩnh vực chính trị -ngoại giao; kinh tế - thương mại; văn hóa - giáo dục; khoa học - kĩ thuật... giai đoạn 1991 - 2005. ❖Từ thực trạng của mối quan hệ trên, rút ra nhận xét, những đặc điểm và bài học kinh nghiệm, những cơ hội và thử thách, nêu lên triển vọng và một số suy nghĩ chủ quan góp phần củng cố và tăng cường quan hệ Việt - Pháp tong thời gian tới. 2. Lịch sử vân đề và nguồn tư liệu: Cho tới thời điểm hiện nay, theo tìm hiểu của chúng tôi đã có một số sách xuất bản, toong đó đề cập đến vấn đề quan hệ Việt - Pháp trên lĩnh vực kinh tế hoặc được lồng ghép trong mối quan hệ chung của khu vực EU và thế giới. Ở trong nước: đã có một khối lượng lớn những công tành nghiên cứu về lịch sử Đảng, lịch sử quân sự, lịch sử ngoại giao có đề cập ít nhiều đến quan hệ của Việt Nam với các nước, đặc biệt với Pháp như: cuốn "Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945 - 1954", tập I, Nhà xuất bản (NXB) Quân đội nhân dân, 1994; "Tổng kết cuốc kháng chiến chống thực dân Pháp -thắng lợi và bài học", NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; "Lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954" của Ban Tổng kết Biên soạn Lịch sử Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam, Hà Nội, 1991; "Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận dụng cửa Đảng trong thời kỳ đổi mới" của TS. Đinh Xuân Lý, NXB Chính tri Quốc gia, Hà Nội, 2005; "Nhận dạng các quan điểm sai trái thù địch" của Ban tư tưởng văn hóa Trung Ương, Hà Nội, 2005; "Thúc đẩy quan hệ thương mại - đầu tư giữa Liên hiệp Châu Au và Việt Nam trong năm đầu thế kỷ 21", NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001; "Quan hệ thương mại - đầu tư giữa Việt Nam và các nước thành viên ASEAN" do Võ Thanh Thu chủ biên, TP. Hồ Chí Minh, 1998; "Quan hệ Việt Nam - Liên minh châu Âu" của Trần Thị Kim Dung, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001; "Quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và ASEAN”, của Đỗ Như Khuê và Nguyễn Thị Loan Anh, H. Thống kê, 1997; "Ngoại giao trong thời đại mới" của Nguyễn Ngọc Nhạ dịch, 9 S. 1968, Perkings Dexter; "Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh", Hội thảo khoa học, Bộ Ngoại giao, H. Chính trị Quốc gia, 2000; "Trật tự thế giới thời kỳ chiến tranh lạnh" của Nguyễn Xuân Sơn chủ biên, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997;... Nhiều bài nghiên cứu viết về mối quan hệ Việt Nam - Pháp cũng được đăng tải trên các tạp chí ở trong nước như: "Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Pháp dưới triều Nguyễn" của Đinh Xuân Lâm và Vũ Trường Giang, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 40, tháng 4/2001; "Công cuộc tư bản hóa của Pháp và những chuyển biến trong xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX" của Nguyễn Văn Khánh, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 4 năm 1998; "Quan hệ Việt Pháp trong những năm gần đây" của Trần Vũ Phương, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 1 năm 1996; "Quan hệ giữa Việt Nam - Pháp", Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 12 năm 1996; "Các hoạt động trên lĩnh vực FDI và ODA của Pháp tại Việt Nam" của Đinh Mạnh Tuấn, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 37, tháng 1/2001; "Kế hoạch phát triển quan hệ hợp tác Việt - Pháp về văn hóa, khoa học và kỹ thuật năm 2000 -2002", Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 4/2000; "Đầu tư của các công ty Pháp ở nước ngoài gần đây" của Lưu Ngọc Trinh, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 6/1995; "Quan hệ Việt - Pháp trên lĩnh vực chính trị - đối ngoại, lịch sử và hiện tại" của Nguyễn Hoàng Giáp và Nguyễn Văn Lan, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 37, thángl/2001; "Quan hệ hữu nghị hợp tác giữa cộng hòa Pháp và Việt Nam - một năm khởi sắc" của Nguyễn Thu Phương, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 36, tháng 6/2000; "Pháp - Đối tác đầu tư quan trọng của Việt Nam" của Hoàng Xuân Hòa, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 57, tháng 6/2004... Một số hồi ký của các nhân vật có liên quan đến quan hệ Việt Nam -Pháp như: "Nhật ký hành trình của phái đoàn Quốc hội Việt Nam sang Pháp" của Nguyễn Tấn Gi Trọng, lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam; "Hà Nội - Paris" - Hồi ký ngoại giao của Mai Văn Bộ", NXB Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, 1993; "Nhật ký hành trình của Hồ Chí Minh bốn tháng sang Pháp" của Đ.H, lưu tại Bảo tàng cách mạng Việt Nam... Một số sách chuyên đề liên quan đến đề tài trong những năm gần đây tương đối phong phú như: "Đấu tranh ngoại giao trong cách mạng dân tộc dân chủ 1945 - 1975", tài liệu tổng kết của Bộ Ngoại giao, Hà Nội, 1976; "50 năm ngoại giao Việt Nam", tập 1 của Lưu Văn Lợi, NXB Công an Nhân dân; Hà Nội, 1996; "Quan hệ quốc tế từ 1945 - 1995" của Hoàng Văn Hiển và Nguyễn Viết Thảo, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998; "Lịch sử Ngoại giao từ 1919 đến ngày nay" của Jean Baptiste Duroselle, do Lưu Đoàn Huynh và Quách Ngọc Bảo dịch, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội, tháng 10/1994... 10 Đáng chú ý có một số luận văn, luận án viết về thể loại này như: "Quan hệ Việt - Pháp từ 1993 đến nay" (1993 - 1996) của Lê Thanh Bình, Luận văn tốt nghiệp khoa Quốc tế học trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997; "Quan hệ thị trường trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế ở Việt Nam", luận án chuyên ngành kinh tế chính trị XHCN của Hoàng Xuân Long, H. Học viện Nguyễn Ái Quốc, 1991; "Quan hệ Trung - Pháp về vấn đề Việt Nam cuối thế kỷ XIX”, luận án phó tiến sĩ khoa học lịch sử của Trịnh Nhu, 1991; "Hoạt động đối ngoại của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa thời kỳ 1945 -1950” luận án tiến sĩ lịch sử của Nguyễn Trọng Hậu, Hà Nội, 2000; "Quan hệ Nhật - Pháp về vấn đề Đông Dương" (6/1940 - 3/1945), Luận án PTS KHLS của Trần Văn La, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1993... Những luận văn, luận án này đã đề cập đến một số hoạt động đối ngoại tác động đến tình hình Việt Nam. Ở ngoài nước: cũng có những công trình nghiên cứu về quan hệ Việt Nam - Pháp giai đoạn từ 1991 - 2005 và trước đó, chủ yếu là ở Pháp. Đó là các nhà chính trị, ngoại giao và các nhà nghiên cứu. Có thể kể ra một vài công trình và tác giả như: "Coopération France Vietnam: Répertoire de la coopération technique et de la recherche", NXB Thế giới, tháng 11/1997; "Coopération France - Vietnam: Répertoire desỷormations", NXB Thế giới, tháng 10/1997; "La Place la France dans le development economique du Vietnam", Tham tán Thương mại Pháp - Hà Nội, 27/11/1997... Nét nổi bật của các công tành này là tương đối phong phú về tư liệu. Tuy nhiên, do đánh giá trên phương diện một phía nên thiếu một cái nhìn toàn cục, vì thế các công tành này chỉ góp thêm hoặc bổ sung nguồn tư liệu mới, giúp chúng tôi tiếp cận nội dung nghiên cứu của đề tài để đối chiếu, so sánh. Trong quá trình triển khai đề tài, chóng tôi cũng có điều kiện tiếp cận trực tiếp với các cuốn tài liệu giới thiệu hoạt động hợp tác của Pháp tại Việt Nam do Đại sứ quán Pháp xuất bản bằng ba thứ tiếng Việt, Pháp và Anh. Những loại tài liệu này chỉ mang tính chất là nguồn cung cấp số liệu mà không đưa ra lời bình luận hay nhận xét, đồng thời chỉ xuất bản từ năm 2002 trở lại đây. Như vậy, hiện vẫn chưa có một công trình hay cuốn sách nào được công bố mà nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về quan hệ Việt - Pháp giai đoạn từ 1991 đến 2005. Do đó đề tài được thực hiện trên cơ sở tham khảo các nguồn tài liệu chính sau: Các văn kiện của Đảng, nhà nước CHXHCN Việt Nam, các Hiệp định, Tuyên bố chung, Thông cáo chung, Nghị định thư và văn bản ký kết giữa hai nước. Các bài phát biểu, 11 điện, thư của các nhà lãnh đạo hai nước. Các văn bản, báo cáo tiếp xúc của các phái đoàn, chính phủ, cơ quan ngoại giao hai nước. Các tài liệu của Bộ ngoại giao, số liệu của Bộ Thương mại, Bộ kế hoạch đầu tư, Cục thống kê... Các tài liệu liên quan đến quan hệ Việt Nam - Pháp lưu trữ ở Trung tâm lưu trữ Quốc gia n, Đại sứ quán Pháp... Các bài viết đăng tải trên tạp chí: Nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu châu Âu, Nghiên cứu Quốc tế, nghiên cứu kinh tế thế giới, Tạp chí Cộng sản, Tạp chí chính tri lý luận, Những vấn đề kinh tế thế giới... và các bài đăng trên các báo Thông tấn xã, Nhân dân, Quân đội, Tuần tin tức, Tuần báo Quốc tế, Đầu tư, Hà Nội mới, Sài Gòn giải phóng, Lao Động...; Các trang web của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như: website của Đảng cộng sản Việt Nam (www.cpv.org.vn), Quốc hội Việt Nam U U (www.na.gov.vn), Bộ Văn hóa - Thông tin (www.cinet.vnn.vn), Bộ khoa học công nghệ và U U U U môi trường (www.moste.gov.vn), Tổng cục thuế (www.customs.gov.vn), Bộ Ngoại giao U U U U Việt Nam ("www.mofa.gov.vn), Tổng cục thống kê (www.gso.gov.vn) ... và một số trang U U U U web khác của Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam như: www.ambafrance-vn.org, lãnh sự quán U U tại thành phố Hồ Chí Minh như: www.consulfrance-hcm.org, chương trình "TOKTEN" UB U U về người Việt Nam ở nước ngoài (Bộ ngoại giao Việt Nam), www.environement.gouv.fr, U các website từ Pháp như: U www.diplomatie.gouv.fr, U U www.coseilU constitutionnel.fr, www.outre-mer.gouv.fr, www.industrie.gouv.fr ... U U U U U Nhìn chung, tài liệu về đề tài này tương đối phong phú nhưng không tập trung, những số liệu trích dẫn từ các nguồn nhiều lúc có sự chênh lệch, không nhất quán gây không ít khó khăn trong quá trình tập hợp và phân loại tài liệu với khả năng có hạn của người thực hiện đề tài. 3. Phương pháp nghiên cứu: Về phương pháp nghiên cứu, dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng tôi sử dụng hai phương pháp chuyên ngành, đó là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Đồng thời, chúng tôi cũng vận dụng phương pháp liên ngành như phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế, quan hệ kinh tế quốc tế... nhằm phối hợp đồng bộ kiến thức của những ngành khoa học và xâu chuỗi các sự kiện, nội dung liên quan đến đề tài như chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa... Trong quá trình khai triển đề tài và xử lý tài liệu, chúng tôi vận dụng phương pháp lịch sử để tiếp cận có hệ thống với nội dung cần phân tích. Đó là xem xét mối quan hệ Việt - 12 Pháp trên nhiều khía cạnh, dưới nhãn quan từ hai phía, ngay từ khi ra đời cho đến trước năm 2005 để thấy được sự phát triển từ đối đầu trong giai đoạn trước năm 1954 (giai đoạn Pháp xâm lược Việt Nam), sang giai đoạn đối thoại từ năm 1954 đến trước năm 1991 (trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và khi Pháp chính thức đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam cho đến sự kiện các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Việt Nam đối mặt với rất nhiều khó khăn sau chiến tranh và bước đầu đổi mới); là đối tác của nhau trong giai đoạn từ 1991 - 2005 (đánh dấu bước ngoặt trong quan hệ hai nước thông qua các hoạt động hợp tác được đẩy mạnh trên nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - giáo dục.. .) Để vấn đề được khái quát và khoa học hơn, khi tìm hiểu về bản chất của mối quan hệ song phương, bên cạnh phương pháp lịch sử, chúng tôi sử dụng phương pháp logic. Đó là đặt mối quan hệ hai nước trong bối cảnh lịch sử cụ thể. Quan hệ Việt - Pháp từ 1991 - 2005 luôn chịu sự tác động của tình hình thế giới và bối cảnh khu vực. Đây cũng là khi xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ trên khắp các lĩnh vực, khuynh hướng chuyển từ đối đầu sang đối thoại trở thành yếu tố cơ bản tác động làm cho nền chính trị thế giới trở nên ổn định trên phạm vi toàn cầu, đặc biệt ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Trong sự tương tác của tình hình đó, các mối quan hệ giữa các quốc gia, khu vực được khôi phục hoặc thiết lập. Mối quan hệ Việt - Pháp cũng không nằm ngoài quy luật phát triển chung này. Phương pháp logic trở thành cơ sở để chúng tôi vạch ra bản chất, khuynh hướng chung của sự hợp tác giữa hai nước trong bối cảnh lịch sử cụ thể từng giai đoạn. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng tiếp thu một cách nghiêm túc những quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đối ngoại và sự vận dụng của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Chúng tôi cũng luôn bám sát các quan điểm đánh giá và nhận định tình hình quốc tế và khu vực của Đảng ta trong các văn kiện về chính sách đối ngoại, coi đây là nguồn cung cấp những căn cứ mang tính chất lý luận và định hướng tư tưởng. Ngoài các phương pháp chủ yếu trên, các phương pháp khác như: phân tích, so sánh, đối chiếu, thông kê... cũng được sử dụng với mức độ khác nhau để hỗ trợ. Trong quá tành thực hiện, do khả năng nắm bắt vấn đề còn hạn chế, rất mong nhận được sự chỉ bảo của thầy cô và góp ý của bạn bè, đồng nghiệp. 4. Giới hạn phạm vi, đối tượng nghiên cứu đề tài: ❖Đối tượng nghiền cứu của luận văn xác định là mối quan hệ toàn diện trên các lĩnh vực giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Pháp giai đoạn 1991 2005. 13 ❖Phạm vi đề tài: + Về thời gian: Luận văn đề cập đến mối quan hệ Việt Nam - Pháp từ 1991 đến 2005. Tuy nhiên, để làm rõ hơn mối quan hệ truyền thống này chúng tôi có đề cập một vài vấn đề liên quan giai đoạn trước năm 1991. + về nôi dung: Đề tài đi sâu vào tìm hiểu mối quan hệ Việt Nam - Pháp giai đoạn 1991 - 2005 trên một số lĩnh vực: chính tri - ngoại giao; kinh tế thương mại; văn hóa - giáo dục; khoa học - kĩ thuật và một vài nội dung khác. Trình bày thêm những nhân tố tác động đến quan hệ Việt Nam - Pháp như bối cảnh quốc tế, khu vực; sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Pháp... Qua đó, chúng tôi rút ra những nhận xét, bài học kinh nghiệm, dự báo những cơ hội và thách thức, nêu lên triển vọng và xu thế phát triển của quan hệ hợp tác giữa hai nước. 5. Đóng góp của luận văn. - Trên cơ sở phân tích và so sánh những tài liệu thu thập được, chúng tôi cố gắng hệ thống hóa hoàn chỉnh trong điều kiện có thể về quan hệ Việt -Pháp từ năm 1991 - 2005 trên các lĩnh vực hợp tác. - Nằm trong chính sách đối ngoại, đặc biệt từ 1991 đến nay, Đảng ta đã chủ trương triển khai mạnh mẽ quan điểm đa dạng hóa, đa phương hóa, sử dụng ngoại lực để chấn hưng nội lực và thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Luận văn đã góp phần phản ánh cho thấy tính chất đúng đắn trong chính sách, sự chủ động, linh hoạt và kịp thời ương chỉ đạo chiến lược cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển vững mạnh của Đảng cộng sản Việt Nam. - Từ kết quả của mối quan hệ này, chúng tôi đưa ra những nhận định về đặc điểm, rút ra những bài học kinh nghiệm, cơ hội thách thức trong bối cảnh mới để từ đó dự báo triển vọng hợp tác của mối quan hệ này, đồng thời làm cơ sở để xây dựng mối quan hệ hợp tác khác. - Trong quạ trình thực hiện đề tài, tiếp cận với nhiều loại tài liệu khác nhau, đặc biệt các nguồn tài liệu cung cấp từ Đại sứ quán Pháp, trên hệ thống website của các tong tin điện tử trong và ngoài nước, luận văn đã tập hợp được một số tranh ảnh, bản biểu đồ, các nghị định, các bản thỏa thuận hợp tác giữa hai nước, từ đó làm sáng tỏ thêm mối quan hệ giữa hai nước được thiết lập là phù hợp với mong muốn và quyền lợi của hai bên. 14 6. Bố cục của luận văn: Luận văn bao gồm: phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn được triển khai qua 3 chương: Chương 1: Quan hệ Việt Nam - Pháp từ năm 1991 đến năm 1996. Chương 2: Quan hệ Việt Nam - Pháp từ năm 1997 đến năm 2005. Chương 3: Một số nhận xét đánh giá về quan hệ Việt - Pháp (1991 - 2005) 15 Chương 1: QUAN HỆ VIỆT - PHÁP TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 1996 1.1. Khái quát về quan hệ Việt - Pháp trước 1991. Trước chiến tranh thế giới thứ hai, Việt Nam không có tên trên bản đồ thế giới, người ta chỉ biết đến bán đảo Đông Dương - một vị trí chiến lược quan trọng của Pháp ở phía Đông Nam châu Á. Đông Pháp (tên gọi Đông Dương của một số học giả) có khí hậu ôn hòa, đất đai trù phú thích hợp để phát triển nông nghiệp; rừng núi chứa nhiều lâm sản, nguyên liệu và khoáng vật quý có giá trị, giao thông thủy bộ đều thuận tiện để trao đổi buôn bán với nhiều thương cảng lớn nằm rải rác từ Bắc chí Nam. Do nằm ở vị trí chiến lược lại có nhiều yếu tố địa lý thuận lợi như vậy nên không phải ngẫu nhiên mà khu vực này được các nhà tư bản ví như là "con gà mái đẻ trứng vàng", còn các nhà chiến lược thực dân lại xem là bàn đạp để xuất phát cho các cuộc chinh phục lên phía Bắc, xuống phía Nam hay tiến ra châu Á. Việc xác lập xứ Đông Dương thuộc Pháp được sớm hình thành cùng với quá trình xâm lược. Mối liên hệ duy nhất giữa hai nước Việt - Pháp đơn thuần chỉ là quan hệ giữa một kẻ thù đi xâm lược với nhân dân thuộc địa đang cố chống lại sự đô hộ đó. Tính cho đến trước năm 1991, quan hệ giữa hai nước có thể được chia làm ba giai đoạn gắn với nhiều sự kiện và trải qua nhiều khó khăn, thử thách. Một là thời điểm Pháp xâm chiếm Việt Nam năm 1858 cho đến 1954 (thực ra có thể tính từ Hiệp ước năm 1883 - 1884 đến Hiệp định năm 1954); hai là từ 1954 cho đến 1973 khi hai nước chính thức đặt quan hệ ngoại ngoại và thời gian còn lại. Ở giai đoạn đầu, quan hệ hai nước chỉ mang tính chất một chiều và chất chứa nhiều yếu tố bất bình đẳng của Pháp đối với Việt Nam. Xuất phát từ sự khác nhau rất xa về nhiều mặt (từ trình độ phát triển, chế độ chính trị cho đến ý thức hệ...) nên thực dân Pháp đã tự phong cho mình cái gọi là sứ mệnh khai hóa. Thực tế, Pháp chỉ coi Việt Nam như một "đóa hoa đẹp nhất trong các thuộc địa" cung cấp cho chính quốc mọi thứ từ vật chất đến nguồn lực. Trước hai cuộc chiến tranh thế giới, Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng bị cuốn vào bởi những chính sách huy động kinh tế, nhân lực và tài lực; còn sau chiến tranh, nơi này trở thành "cái mỏ" để tư bản Pháp đào khoét và vơ vét nhằm bù đắp thiệt hại. 16 Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã mở ra thời kỳ mới trong lịch sử thế giới hiện đại. Bên cạnh sự hình thành của trật tự thế giới hai cực Ianta, các phong trào giải phóng dân tộc, đòi hòa bình dân chủ của nhân dân lao động tại những nước thuộc địa và phụ thuộc cũng bùng phát mạnh mẽ. ở Đông Dương, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Lợi dụng sự non trẻ của chính quyền cách mạng, sự che chơ của quân đội Đồng Minh, Pháp lại lần nữa nổ súng đánh chiếm Việt Nam, âm mưu cai trị lâu dài. Tuy nhiên, thời thế lúc này đã khác, người Pháp không hiểu được rằng những biến đổi sâu sắc về chính tri trong chiến tranh thế giới thứ hai đặt đế quốc Pháp trước một xứ Đông Dương đã nhận thức được sức mạnh của chính mình và sẽ quyết tâm đứng lên giành độc lập. Họ không thấy được rằng những nguyên tắc về chế độ thuộc địa mà người ta quan niệm trước đây đã không thể đứng vững trước những rung chuyển về mặt xã hội do cuộc chiến tranh thế giới thứ hai gây ra. Họ không nhận thức được một cách đúng đắn và đầy đủ những thay đổi về thời cuộc, họ đã "tự tách mình ra khỏi những biến cố trên thế giới và cứ tưởng như mình đang sống vào năm 1939..." [203, tr.43]. Với Việt Nam, đường lối đối ngoại của chính phủ cũng là ước nguyện của hai mươi triệu dân quyết "đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy" như trong bản Tuyên ngôn độc lập đọc tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) ngày 2/9/1945. Nói cách khác "Hiện nay Việt Nam bắt buộc phải theo chính sách khác mà đối phó. Trước hết đối với những kiều dân Pháp, nếu họ yên tĩnh làm ăn trong vòng trật tự và tôn trọng sự độc lập của Việt Nam, thì sinh mệnh và tài sản của họ vẫn được bảo vệ theo Luật quốc tế. Nhưng đối với chính phủ Pháp De Gaulle chủ trương thống trị Việt Nam, thì quyết chống lại, nếu chính phủ ấy không chịu thừa nhận sự độc lập hoàn toàn của Việt Nam" [101, tr.47]. Như vậy, trong quá trình đấu tranh chống xâm lược Pháp, Việt Nam luôn phân biệt bạn thù, tôn trọng nhân dân Pháp, chủ động thiết lập mối quan hệ hòa bình, hợp tác và ổn định để phát triển. Nhu cầu ấy đã được chính phủ ta nỗ lực thực hiện đến mức tối đa với nhiều hình thức, kể cả việc gia nhập vào Liên hiệp Pháp. Tháng 7 năm 1946, trong chuyến thăm Pháp, thay mặt Chính phủ Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định "Tôi tin rằng sự hợp tác thành thực và thân thiện của hai nước sẽ là gương lớn cho thế giới biết rằng, với một sự tin cậy lẫn nhau, nhiều dân tộc tự do và bình đẵng vẫn có thể giải quyết những vấn đề khó khăn nhất". về quan hệ Việt - Pháp, Người tuyên bố trước toàn thế giới rằng: Việt Nam sẽ hợp tác làm ăn với toàn thế giới mà Pháp là nước ưu tiên hàng đầu, "chúng tôi sẽ gọi đến những nhà chuyên môn Pháp trước những nhà 17 chuyên môn khác"[51, tr.144], bởi lẽ, nước Pháp "đã cống hiến rất nhiều cho văn hóa, khoa học và cho văn minh" [51, tr.148]. Điều đó có nghĩa Việt Nam rất cần sự hợp tác "thật thà" để đón nhận tinh thần "khai hóa" của Pháp. Trong thư trả lời bà Sotxi - Hội Liên hiệp Phụ nữ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói thêm: "Người ta cho rằng những người Pháp đến Đông Dương là những người đi khai hóa. Tôi cũng mong như vậy!" và "nếu những thanh niên Pháp đến Việt Nam như những công nhân, kỹ thuật viên hoặc nhà bác học thì tôi xin đảm bảo với các bà rằng, họ sẽ được đón tiếp nồng nhiệt như những người bạn, những người anh em" [51, tr.159-160]. Đáng tiếc, vì nhiều lý do, chính phủ Pháp đã không đáp lại thiện chí của Việt Nam, buộc chúng ta phải tiến hành cuộc kháng chiến ròng rã chín năm trời, kết thúc bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu và bản Hiệp định Genève, đánh dấu sự chấm hết của Pháp sau gần một thập kỷ đô hộ. Việt Nam trở thành một nước tự do, độc lập, thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất Việt Nam [50, tr.3]. Từ sau cuộc chiến, quan hệ hai nước bắt đầu sang chương mới, từ đối đầu chính trị quân sự đã chuyển dần sang đối thoại và hợp tác kinh tế - văn hóa. Trước hết, hai bên chấp thuận việc thành lập cơ quan Tổng đại diện tại thủ đô mỗi nước, tiến đến chính thức đặt quan hệ ngoại giao vào ngày 12/4/1973. Đối với cuộc chiến tranh xâm lược do Mỹ phát động ở Việt Nam, Pháp đã có một số tuyên bố làm cho "nhiều người Mỹ coi là xúc phạm đối với họ" [63, tr.578]. Trong suốt thời gian từ 1968 đến 1973, chính phủ Pháp đã tạo điều kiện giúp đỡ cho cuộc đàm phán Paris (giữa Việt Nam và Mỹ về việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam) thắng lợi. Về kinh tế, trong khoảng lo năm sau khi kết thúc chiến tranh, hàng xuất khẩu của nước ta sang Pháp không nhiều nhưng thường xuyên với những nhóm hàng xuất chính là than, nông lâm thổ sản và những sản phẩm của tiểu thủ công nghiệp (chẳng hạn ngay trong năm 1961, ta đã ký xuất 55,5 ngàn tấn than, 41 tấn dầu hồi, 371 tấn hoa hồi, 2,5 tấn cánh kiến trắng, 29 tấn quế...)- Kim ngạch xuất khẩu trong thời gian này giao động trong khoảng 0,5 triệu USD đến 3,5 triệu USD. Các năm tiếp theo (1965 - 1975) kim ngạch xuất có tăng nhưng cũng không đáng kể và thể loại hàng có mở rộng ít nhiều. Riêng năm 1973, Pháp đã ký Nghị định thư tài chính đầu tiên với Việt Nam tri giá 100 triệu FF. Năm 1974 là 230 triệu FF và đến năm 1975 số tiền lên tới 329 triệu FF. Từ năm 1973 - 1990, quan hệ giữa hai nước bị chi phối bởi tình hình thế giới, khu vực. Sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô đã giáng đòn mạnh mẽ khi Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn mà trước hết phải kể đến sự cấm vận 18 của Mỹ đã kéo theo hàng loạt nước, tổ chức (trong đó có Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới) không cho Việt Nam vay tiền. Ngoại giao của chúng ta với các nước trong khu vực cũng ở mức báo động vì vấn đề Campuchia. Quan hệ chính trị Việt - Pháp trở nên "đóng băng" cho đến năm 1987 mới được nối lại và thực sự khởi sắc vào những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Như vậy, dù diễn biến còn nhiều bất ổn nhưng chính phủ Pháp vẫn kiên quyết theo đuổi chính sách "tiếp tục phát triển quan hệ với Việt Nam về kinh tế, văn hoa cổ thể cả chính trị bất kể hoàn cảnh khổ khăn như thế nào" như nội dung trong bản Cương lĩnh của Đảng xã hội (Đảng của Tổng thống Francois Mitteưand) [134, tr.22]. Hai bên đã nỗ lực rất nhiều để nối quan hệ. Trong việc giải quyết vấn đề Camphuchia, Pháp đã có những động thái tích cực giúp đỡ Việt Nam hòa giải bằng việc tăng cường các cuộc tiếp xúc với Việt Nam cho dù vấp phải không ít lời chỉ trích của cộng đồng phương Tây. về ngoại giao, có thể điểm qua các sự kiện đánh dấu quá trình phát biển mối quan hệ giữa hai nước. Đó là chuyến thăm Pháp của Thủ tướng Phạm Văn Đồng (25 - 28/4/1977), Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch (4/1982). Các hoạt động này ngoài việc đem đến cho Việt Nam những điều kiện thuận lợi mới về sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước sau chiến tranh với việc kí kết các hợp đồng, hiệp định...; còn có ý nghĩa lớn về chính trị: đó là tăng cường uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, từng bước tranh thủ được sự ủng hộ của các quốc gia đối với sự nghiệp đổi mới. Trong quan điểm về tiến trình hội nhập quốc tế nói chung và chính sách đối với Pháp nói riêng, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho biết: "chúng tôi ra sức phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước anh em và bầu bạn gần xa. Trong đó nước Pháp có một vị trí xứng đáng" [7, tr.1] Về phía Pháp, ngoài các trao đổi đoàn, phải kể đến chuyên thăm Việt Nam của Bộ trưởng ngoại giao De Guiringard (tháng 9/1978), Thứ trưởng Ngoại giao Stirn (7/1979), cựu Bộ trưởng ngoại giao Francois Poncet (9/1980), Bộ trưởng Ngoại giao Cheyson (1983). Kết quả của các cuộc thăm viếng thường xuyên này đã giúp hai nước hiểu rõ về lập trường, quan điểm của nhau và Tổng thống Pháp - Valéry Giscard D'Estaing đã khẳng định: "chúng tôi nhận thức rõ tầm quan trọng và vai trò của Việt Nam với sự ổn định và hòa bình ở Đông Nam Á. Chúng tôi cho rằng Việt Nam phải sớm giữ được vị trí của mình tại Liên Hợp Quốc" [7, tr.4].. 19 Trong quan hệ thông thương, từ 1975 tới 1986, ta có thêm một số mặt hàng xuất khẩu mới là cao su và cà phê; đối với hàng nhập khẩu ngoài hàng tiêu dùng, phụ tùng thay thế và nguyên liệu sản xuất, có thêm một số công tình thiết bị toàn bộ và máy móc lẻ... nhờ vào nguồn vốn "viện trợ phát triển", làm cho kim ngạch nhập trong giai đoạn này tăng vọt. Hợp tác kinh tế giữa hai nước còn được sự hỗ trợ từ các mối giao hảo của quan hệ chính trị, như việc kí các Nghị định thư tài chính mà theo cam kết Pháp giúp vốn cho Việt Nam để mua sắm tài sản và thiết bị của mình nhằm thực hiện những dự án ưu tiên, hay Hiệp định vận chuyển Hàng không (14/4/1977), Hiệp định Hàng hải (7/9/1978), các hiệp định khung về "hợp tác kinh tế và công nghiệp" và "hợp tác về văn hoa, khoa học và kỹ thuật"... về lĩnh vực đầu tư, không chỉ là quốc gia có mặt đầu tiên ngay sau khi Việt Nam ban hành luật đầu tư nước ngoài vào cuối năm 1987, Pháp còn liên tục đứng ở vị trí hàng đầu trong số các nước, lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam từ 1988 đến 1990. Như vậy, quan hệ Việt Nam - Pháp sau thời gian bị chi phôi bởi bối cảnh quốc tế, khu vực và tình hình mỗi nước đã có nhiều biểu hiện cải thiện, đặc biệt ngày càng phát triển đa dạng vào cuối thập kỷ 80, khi Việt Nam giành được những thành tựu quan trọng bước đầu trong việc thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa hội nhập với cộng đồng quốc tế. Trong điều kiện mới, với những biến chuyển tích cực từ phía Việt Nam cũng như sự tác động từ bên ngoài, Pháp ngày càng chú ý quan tâm hơn tới Việt Nam và coi việc thúc đẩy quan hệ với Việt Nam là một ưu tiên trong đường lối đối ngoại ở châu Á. Đồng thời, với chính sách ngoại giao độc lập, năng động và linh hoạt, Pháp mong muốn Việt Nam đóng vai trò cầu nối để quá trình hợp tác và hiện diện của Pháp tại khu vực này ngày càng trở nên rõ nét. 1.2. QUAN HỆ VIỆT NAM - PHÁP TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 1996. 1.2.1. Tình hình quốc tế và khu vực. 1.2.1.1. Tình hình quốc tế. Chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu va Liên Xô sụp đổ vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX là sự kiện đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị, tác động trực tiếp và sâu xa đến toàn bộ cục diện thế giới. Cùng với sự tan rã này, dường như người ta chứng kiến một cuộc chạy đua quyền lực mới giữa các nước và các nhóm nước nhằm xác lập vai trò và vị tó của mình trên trường quốc tế. Xu hướng đa cực hóa chính trị dần hình thành và đang trở nên phổ biến trong thế giới đương đại. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan