Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan hệ giữa nhà nước quân chủ Lý, Trần với phật giáo ...

Tài liệu Quan hệ giữa nhà nước quân chủ Lý, Trần với phật giáo

.PDF
171
234
118

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------*------ HOÀNG ĐỨC THẮNG (THÍCH MINH TRÍ) QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC QUÂN CHỦ LÝ, TRẦN VỚI PHẬT GIÁO LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ HÀ NỘI, 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------*------ HOÀNG ĐỨC THẮNG (THÍCH MINH TRÍ) QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC QUÂN CHỦ LÝ, TRẦN VỚI PHẬT GIÁO Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam cổ đại và trung đại : 62 22 54 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. Vũ Minh Giang HÀ NỘI, 2012 1 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 6 1. Lý do chọn đề tài 6 2. Về các nguồn sử liệu và lịch sử nghiên cứu vấn đề 9 3. Mục tiêu của Luận án 14 4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu 15 5. Phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận 15 6. Đóng góp mới của Luận án 16 Chương 1 KHÁI LƯỢC VỀ PHẬT GIÁO 17 VÀ TÌNH HÌNH PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC TRIỀU LÝ 1.1. Khái lược về Phật giáo 17 1.1.1. Sự xuất hiện của Phật giáo 17 1.1.2. Tóm lược hệ thống giáo lý cơ bản của Phật giáo 24 1.1.3. Ảnh hưởng và giá trị của Phật giáo đối với xã hội 1.2. Phật giáo Việt Nam trước triều Lý 34 45 1.2.1. Sự du nhập Phật giáo vào Việt Nam 45 1.2.2. Hệ thống tư tưởng Phật giáo được du nhập vào Việt Nam 47 1.2.3. Vai trò của Phật giáo trong thời kỳ Bắc thuộc 49 1.2.4. Phật giáo và tình hình chính trị dưới triều Ngô, Đinh và Tiền Lê 53 Tiểu kết Chương 1 61 Chương 2 QUAN HỆ GIỮA VƯƠNG TRIỀU LÝ VỚI PHẬT GIÁO 63 2.1. Bối cảnh chính trị - xã hội và sự kiến lập triều Lý 63 2.1.1. Bối cảnh chính trị - xã hội 63 3 2.1.2. Vai trò của thiền sư Vạn Hạnh trong công cuộc kiến tạo triều 65 Lý 2.1.3. Lý Công Uẩn với việc định đô Thăng Long 70 2.2. Tình hình Phật giáo thời Lý 72 2.2.1. Quan hệ giữa triều Lý với Phật giáo 72 2.2.2. Trải nghiệm tâm linh của một số vị vua triều Lý 84 2.3. Nội dung cơ bản của chính sách đối với Phật giáo của triều Lý 91 2.3.1. Chính sách của nhà Lý đối với tôn giáo 91 2.3.2. Thực hiện chính sách phát triển Phật giáo 96 2.4. Vai trò và ảnh hưởng của Phật giáo dưới triều Lý 103 2.4.1. Phật giáo giúp vua trong công cuộc trị quốc, an dân 103 2.4.2. Phật giáo và văn hóa nghệ thuật 115 Tiểu kết chương 2 122 Chương 3 QUAN HỆ GIỮA VƯƠNG TRIỀU TRẦN VỚI PHẬT GIÁO 123 3.1. Bối cảnh lịch sử 123 3.2. Tình hình Phật giáo thời nhà Trần 125 3.2.1. Tam tông quy nhất tông 125 3.2.2. Ảnh hưởng của các dòng phái khác 130 3.2.3. Sinh hoạt của Tăng đoàn Phật giáo thời nhà Trần 134 3.3. Quan hệ giữa triều Trần với Phật giáo và đóng góp của Phật 139 giáo vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước 3.4. Chính sách của triều Trần đối với Phật giáo 148 3.4.1. Chính sách bình đẳng tôn giáo và tự do tín ngưỡng của nhà 148 Trần 3.4.2. Đưa Phật giáo nhập thế để trị quốc, an dân 4 151 3.4.3. Nội dung cơ bản của chính sách triều Trần đối với Phật giáo 155 3.5. Góp phần tìm hiểu nguyên nhân suy thoái của triều Trần 158 Tiểu kết chương 3 160 KẾT LUẬN 162 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN 165 ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 5 166 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Phật giáo được du nhập vào Việt Nam đã trên dưới 2000 năm, gắn bó đồng hành cùng dân tộc và có mối quan hệ khăng khít với văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội trong suốt chiều dài lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phật giáo có mục đích cao cả là đem lại hạnh phúc và an lạc cho chư Thiên và loài người. Trên nguyên tắc đoàn kết, hòa hợp, tùy thuận chúng sinh, nên tuy là một yếu tố văn hóa “ngoại sinh” nhưng đã được dân tộc Việt Nam đón nhận một cách rất tự nhiên như cây cần có nước và đã được hấp thụ, chuyển hóa thành một bộ phận hữu cơ và tạo nên những nét đặc sắc trong văn hóa dân tộc. Phật giáo đã ảnh hưởng sâu đậm trong ý thức, tư tưởng, tình cảm của người Việt, đúng như Đức Phật đã từng dạy các đệ tử của mình khi lãnh trách nhiệm đi hoằng dương chính pháp: “Này các Tỳ kheo, hãy lên đường thuyết pháp vì hạnh phúc, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người ” [82, tr.502]. Với tư tưởng hòa đồng, đồng thời với tinh thần từ bi và trí tuệ, tư tưởng Phật giáo đã trở thành một điểm tựa tinh thần vững chắc, một công cụ sắc bén để giữ gìn bản sắc dân tộc, chống lại âm mưu đồng hóa của phong kiến phương Bắc suốt hơn 1000 năm Bắc thuộc. Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua các thời kỳ lịch sử, tinh thần Phật giáo đã được các chính quyền vận dụng vào những kế sách trị nước an dân. Bản thân Phật giáo cùng các bậc cao tăng cũng đã có những đóng góp đáng kể vào sự hưng thịnh của quốc gia, trường tồn của dân tộc. Chính vì vậy mà một số triều đại phong kiến đều rất chú trọng đến quan hệ với Phật giáo. Trong số các triều đại phong kiến Việt Nam, đặc biệt triều Lý và Trần là hai vương triều thành công nhất trong các chính sách với Phật giáo và cũng đã gặt hái được những thành tựu rực rỡ nhất về mọi mặt, từ quan hệ từ văn hóa, chính trị, kinh tế, ngoại giao v.v... Những chính sách đó xuất phát từ ba yếu tố cơ bản sau đây: 6 - Nhu cầu khách quan trong việc xây dựng một xã hội đồng thuận, quốc gia thống nhất dựa trên nền tảng của bầu không khí làng xã và quan hệ Làng – Nước hòa đồng. - Sự sùng mộ đạo Phật của các bậc quân vương và nhận thức của họ về vai trò xã hội của Phật giáo. - Đóng góp thực tế của giới sư tăng mà trước hết và chủ yếu là các Quốc sư với đất nước. Trong suốt hơn 4 thế kỷ, vai trò Phật giáo được phát huy cao độ, tinh thần Phật giáo đã là chất liệu cố kết nhân tâm, là cầu nối giữa chính quyền trung ương với địa phương. Trong thời kỳ này, tinh thần đoàn kết hòa hợp dân tộc cũng đã được vận dụng tối đa cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các vị quân vương thời Lý - Trần đã xây dựng thành công một mô hình Nhà nước quân chủ rất đặc thù, rất Việt Nam thời trung đại, đó là kiểu Nhà nước “tập quyền thân dân”. Với mô hình này hai vương triều nói trên đã đưa dân tộc ta trở thành một trong những quốc gia phát triển trong khu vực châu Á thời bấy giờ. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều học giả đã đưa ra nhận định rằng, thời Lý - Trần Phật giáo là Quốc đạo. Đây là những vấn đề lớn vừa có giá trị học thuật vừa có ý nghĩa thực tiễn cao. Về mặt khoa học, nghiên cứu về vấn đề này sẽ góp phần tìm hiểu sâu hơn mối quan hệ tương tác mật thiết giữa tư tưởng Phật giáo với chính quyền hai triều Lý - Trần. Trong đó, những vấn đề cần đặc biệt lưu ý là bối cảnh lịch sử, vai trò của các vị Quốc sư với các vị quân vương, cũng như sự nhận thức của các bậc quân vương đối với giá trị của hệ thống tư tưởng Phật giáo. Đây là những yếu tô cơ bản đã được phát huy tích cực, mang lại hiệu to lớn nhất trong việc lãnh đạo đất nước, trị quốc an dân. Một nghiên cứu chuyên sâu về mối quan hệ giữa Phật giáo với hai vương triều nói trên chắc chắn sẽ góp phần không nhỏ vào việc soi rọi, làm sáng tỏ những khía cạnh độc đáo của lịch sử dân tộc trong một thời kỳ đầu của kỷ nguyên Đại Việt. Trên phương diện thực tiễn, từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong sự nghiệp 7 giành và giữ độc lập dân tộc, Việt Nam đã chiến thắng các thế lực đế quốc, thực dân hùng mạnh. Chiến thắng mùa xuân 1975 vĩ đại đã mở đường cho đất nước bước vào kỷ nguyên hoàn toàn độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, Liên Xô bị tan rã, Việt Nam đứng trước thử thách hiểm nghèo. Dân tộc Việt Nam cần phải có lựa chọn đúng đắn để khẳng định chính mình. Hơn lúc nào hết dân tộc ta cần một bệ đỡ tinh thần, một hệ tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt để chèo lái con thuyền của dân tộc đưa đất nước tới cái đích mà Đảng, Bác Hồ cũng như cả dân tộc mong muốn là xây dựng một đất nước dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Kiên định với con đường đã chọn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và lý luận. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta đã có một bệ đỡ tư tưởng hoàn chỉnh. Để hoàn thiện cần phải có một đường lối chính sách, một sách lược và thiết chế chính trị sao cho vừa giữ gìn và phát huy được bản sắc văn hóa dân tộc, vừa đáp ứng được xu thế hội nhập thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước đã và đang gặt hái được nhiều thành tựu trong công cuộc Đổi mới để hội nhập và phát triển. Với quan điểm hội nhập mà không hòa tan theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ V (khóa VIII) đề ra là: “bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, cần phải nghiên cứu kỹ các bài học và kinh nghiệm lịch sử dân tộc để tìm ra những giải pháp phù hợp đáp ứng được nhu cầu thực tế của đất nước hiện nay. Đi theo hướng này, luận án của chúng tôi đề cập tới những nội dung mà nếu giải quyết thấu đáo sẽ góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng của lịch sử, văn hóa của dân tộc và làm phong phú thêm cơ sở khoa học cho chính sách của Đảng và Nhà nước. Lý – Trần là một thời kỳ lịch sử võ công rực rỡ, văn trị sáng chói. Đây cũng là giai đoạn chính quyền và Phật giáo có mối quan hệ tương hỗ khăng khít. Trong bối cảnh hiện nay, khi xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc là một nhiệm vụ có tầm chiến lược, trong đó đoàn kết tôn giáo, để các tôn giáo đồng hành 8 cùng dân tộc, quan hệ giữa chính quyền và tôn giáo là những nội dung hết sức quan trọng thì những bài học và kinh nghiệm lịch sử càng có ý nghĩa thực tiễn rất cao. 2. Về các nguồn sử liệu và lịch sử nghiên cứu vấn đề Cho đến nay chưa có một tác phẩm nghiên cứu chuyên sâu nào về chính sách tôn giáo của hai triều Lý – Trần và về mối quan hệ giữa Phật giáo với hai vương triều này. Tuy nhiên, những đề tài liên quan cũng đã được nhiều nhà sử học ở Việt Nam và nước ngoài quan tâm nghiên cứu. Những tư liệu về Phật giáo thời Lý – Trần trong các thư tịch cổ Trung Hoa như Tống sử, Nguyên sử, và Tục tư trị thông giám trường biên của Lý Đào … đã được các nhà sử học Việt Nam tổng hợp, phiên dịch và khai thác phục vụ cho việc nghiên cứu những vấn đề lịch sử có liên quan tới đề tài. Trong số các bộ sử biên niên Việt Nam, Đại Việt sử ký toàn thư là bộ sử có giá trị, được khắc in lần đầu tiên vào năm Chính Hòa thứ 18 (1697), gắn liền với tên tuổi của những nhà sử học nổi tiếng như Ngô Sĩ Liên, Phạm Công Trứ, Lê Hy. Có thể nói đây là nguồn sử liệu quan trọng để nghiên cứu tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam từ khởi nguyên đến thời hậu Lê nói chung và Phật giáo nói riêng. Hầu như tất cả các học giả sau này đều coi đây là tư liệu gốc cho việc nghiên cứu tư tưởng chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, quân sự và tôn giáo của các triều đại phong kiến Việt Nam. Bên cạnh đó còn có các bộ sử sách cũ cũng được coi là những nguồn sử liệu quý báu, có giá trị tham khảo cao, như Việt Sử lược (hay Đại Việt sử lược của một tác giả khuyết danh đời Trần), An Nam chí lược của Lê Tắc, Kiến văn tiểu lục và Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn, Đại Việt sử ký tiền biên và Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú và sau này là bộ sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn và Việt sử cương mục tiết yếu của Đặng Xuân Bảng vv…. Đây là một trong những nguồn thông tin quan trọng nhất mà Luận án này sử dụng. Ngoài các thông tin từ Đại Việt sử ký toàn thư và các bộ sử cũ, bao gồm cả một khối lượng rất lớn tài liệu văn bia, văn khắc đã được sưu tập và công bố, lịch sử Phật giáo và lịch sử dân tộc thời Lý – Trần còn được phản ánh rất phong phú trong 9 Ket-noi.com chia sẻ miễn phí nhiều bộ thư tịch Phật giáo. Đây là một nguồn sử liệu có giá trị tham khảo cao còn chưa được khai thác đầy đủ. Trong đó, trước hết cần phải kể ra đây sách Thiền uyển tập anh. Đây là bộ sách tập hợp hành trạng của những bậc chân tu, cao tăng thạc đức của Phật giáo đã vận dụng trí tuệ do tu chứng để giúp cho Đạo pháp và Dân tộc dưới các triều đại Việt Nam cho đến thời Lý - Trần. Theo ý kiến của một số chuyên gia, Thiền uyển tập anh được biên soạn dưới triều Lý và hoàn thành vào triều Trần. Trải qua một thời gian khá dài, bộ sách này đã bị thất tán và cũ nát, nên đến thời hậu Lê nhà sư Thích Như Trí cùng các đệ tử đã tổ chức in lại vào năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715). Đến đầu thế kỷ XX, một bậc danh tăng uyên bác là Phúc Điền lại một lần nữa hiệu chỉnh và cho khắc in lại dưới tựa đề “Trùng khắc Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục”. Trong lần hiệu chỉnh này, hòa thượng Phúc Điền đã viết lại truyện của thiền sư Không Lộ, còn các phần khác thì hầu như không sửa chữa gì. Với những giá trị tư liệu đặc biệt, sách Thiền uyển tập anh đã được các học giả danh tiếng như Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú sử dụng để biên soạn các tác phẩm của mình. Lê Quý Đôn từng nhận xét về giá trị của sách này như sau: “Nước ta từ khi gây dựng, văn minh không kém gì Trung Quốc... Hai vua Thánh Tông, Nhân Tông nhà Lý đều giỏi sách hay thơ, nhưng nay không biết tra tìm vào đâu, chỉ thấy Thiền uyển tập anh còn chép được của Thái Tông hai bài, của Nhân Tông hai bài…”[63, tr.24]. Bên cạnh Thiền uyển tập anh, trong nguồn sử liệu Phật giáo phải kể đến các tác phẩm Tam Tổ thực lục là tập truyện về ba vị Tổ Thiền phái Trúc lâm đời Trần, bản in sớm nhất còn lại vào năm Cảnh Hưng thứ 16 (1765) do Sa môn Quảng Điền và Hải Lượng hiệu đính và trùng san; Thánh đăng lục là tiểu truyện về 5 vị Thiền sư đồng thời là vua Triều Trần, đó là Trần Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông và Minh Tông, bản in sớm nhất còn lại vào năm Cảnh Hưng thứ 11 (1750) do sư Quảng Đức hiệu đính và đề tựa; Ngự chế Thiền uyển thống yếu kế đăng lục, do Thiền sư Như Sơn biên soạn, được khắc bản vào năm Giáp dần (1734); Khóa hư lục của Trần Nhân Tông. Ông là Tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm, pháp hiệu Điều ngự Đầu đà, biên soạn sách này khi đã nhường lại ngôi vua lên núi tu hành. 10 Đến thập niên 30 - 40 của thế kỷ XX, hòa cùng phong trào yêu nước là trào lưu chấn hưng Phật giáo. Từ đây dưới sự lãnh đạo của các bậc cao tăng và cư sĩ ở cả ba miền, Phật giáo như được hồi sinh. Trong thời kỳ này bắt đầu xuất hiện những công trình nghiên cứu. Đáng kể nhất là cuốn Việt Nam Phật giáo sử lược của hòa thượng Thích Mật Thể, xuất bản lần đầu vào năm 1943, sau được tái bản vào các năm 1970, 1996. Có thể coi đây là cuốn sử Phật giáo đầu tiên của thời cận đại Việt Nam được biên soạn tương đối bài bản với các tư liệu có giá trị để dựng nên một bức tranh tổng thể của Phật giáo Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Cuốn sách này tuy tính học thuật chưa thật cao, nhưng những sự kiện lịch sử đã được tác giả sắp xếp có lớp lang khiến cho người đọc dễ nhớ. Điều quan trọng ở đây chính là sự mở màn cho phong trào tu học và nghiên cứu của tăng ni cũng như các học giả sau này. Về mối quan hệ giữa chính quyền với tôn giáo, cụ thể là triều Lý với Phật giáo, không thể không nói tới tác phẩm Lý Thường Kiệt – Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý của Hoàng Xuân Hãn, xuất bản lần đầu vào năm 1941 và được chỉnh lý tái bản nhiều lần. Đây là một tác phẩm có giá trị cao về mặt học thuật và có nhiều tư liệu quý lần đầu được công bố. Tuy tác phẩm tập trung nghiên cứu về đường lối ngoại giao và tôn giáo triều Lý, trong đó Lý Thường Kiệt là nhân vật trung tâm, nhưng toàn bộ xã hội thời Lý và cuộc chiến chống Tống đã được tái hiện một cách chân thực và sinh động. Từ 1945 đến 1975 mặc dù đất nước còn đang chiến tranh, mọi nguồn lực phải dồn vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nhưng một số tác phẩm có giá trị liên quan tới lịch sử Phật giáo cũng đã được biên dịch và xuất bản, trong đó đáng kể nhất là bộ Thơ văn Lý – Trần. Một số vấn đề có liên quan đến lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng được khảo cứu và bàn luận trong quyển I của bộ sách về lịch sử tư tưởng nổi tiếng của Trần Văn Giàu với tiêu đề Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1973). Trong khi đó, ở miền Nam từ năm 1967 Thích Nhất Hạnh đã cho ra đời cuốn sách Vietnam: Lotus in a Sea of Fire (Việt Nam: hoa sen trong biển lửa), công bố tại New York (Mỹ). Có lẽ đây là lần đầu tiên Phật giáo Việt Nam được giới thiệu ra 11 thế giới bên ngoài dưới hình thức một nghiên cứu khoa học. Tiếp đó, năm 1973 nhà xuất bản Lá Bối đã công bố bộ sách Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang. Đây là một trong những khảo cứu công phu nhất về lịch sử Phật giáo Việt Nam, trong đó có Phật giáo thời Lý – Trần. Tác phẩm của Nguyễn Lang được xuất bản lần đầu vào năm 1973 và sau đó được tái bản có chỉnh lý, sửa chữa vào các năm 1977, 1992, 2000. Trong lần tái bản gần đây nhất, tác giả đã cho hợp cả ba tập thành một quyển. Sau mỗi lần cho in và xuất bản, tác giả đều có hiệu chỉnh và thêm vào những chứng cứ sử liệu, đến lần tái bản thứ tư bộ sách đã được tương đối hoàn thiện. Bên cạnh đó phải kể đến công trình của Trần Văn Giáp Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XIII được Đại học Vạn Hạnh công bố ở Sài Gòn năm 1973. Nghiên cứu Phật giáo có xu hướng phát triển mạnh từ thập kỉ 80 của thế kỉ XX trở về đây. Do kinh tế đất nước ngày một phát triển, nhu cầu nhận thức khoa học và hội nhập ngày càng cao, các ngành khoa học có điều kiện và phải tự vươn lên để tự khẳng định mình. Trong bối cảnh đó đã xuất hiện một số công trình về lịch sử Phật giáo. Trước hết phải kể đến cuốn Lịch sử Phật giáo Việt Nam của tập thể tác giả do Nguyễn Tài Thư chủ biên, công bố bởi Nxb. Khoa học Xã hội tại Hà Nội năm 1991. Công trình này tiếp cận lịch sử Phật giáo Việt Nam chủ yếu từ góc độ lịch sử tư tưởng. Bên cạnh đó còn có một số nghiên cứu đáng chú ý của Lê Mạnh Thát, như Lịch sử Phật giáo Việt Nam (2 quyển) do Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2001, Mâu Tử (xuất bản năm 1982), Khương Tăng Hội toàn tập (xuất bản năm 1975), Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh (xuất bản năm 1999)... Cùng với các tác phẩm nói trên, còn phải kể đến tác phẩm Thiền sư Việt Nam của hòa thượng Thích Thanh Từ, xuất bản năm 1972. Đây là một cuốn sách hệ thống lại các nguồn sử liệu về hành trạng của các Thiền sư Việt Nam. Về mặt tư liệu tuy không có gì mới, nhưng điều đáng lưu ý ở đây là tác giả đã dịch một số tài liệu chữ Hán sang chữ Quốc ngữ và đưa ra những kiến giải mới về hành trạng của các Thiền sư mà trước đó chưa ai đề cập. Tác phẩm Đạo Phật và dòng sử Việt của Đức Nhuận, xuất bản năm 1996 tại Hoa Kỳ cũng là một tác phẩm đáng lưu ý. 12 Tác phẩm Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh, xuất bản năm 1999 chủ yếu đi sâu nghiên cứu hệ tư tưởng của Phật giáo nói chung và của các bậc cao tăng đức độ trong Phật giáo, trong đó có cả các bậc minh quân xuất gia tu hành giác ngộ, qua đó cho thấy vai trò của Phật giáo trong xã hội đương thời và mối quan hệ giữa Phật giáo và hệ thống chính trị của triều đại Lý – Trần. Còn phải kể đến tác phẩm Truyền thống văn hóa và Phật giáo Việt Nam của tác giả Minh Chi, xuất bản năm 2003. Trong tác phẩm tác giả đã đưa ra quan điểm chỉ trích “cái hại của tệ sùng đạo Nho” và đề cao “chủ nghĩa bình đẳng, từ, bi, bác ái, tư tưởng không giáo điều, không cố chấp của đạo Phật”, cho đó là một trong những cơ sở để “phát động một cao trào tự hào, tự cường dân tộc, toàn dân đoàn kết nhất trí, đánh thắng bao lần giặc Tống và giặc Nguyên”. Đứng trên quan điểm Phật giáo, tác giả đã nhìn nhận như một mối nguy hại tệ hủ Nho, coi đó là văn minh giả tạo của phong kiến phương Bắc tác động đến lịch sử Việt Nam trong suốt một thời gian dài từ Lê sơ đến nhà Nguyễn. Trong dịp Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, đã xuất hiện nhiều công trình khoa học đánh giá sâu sắc hơn lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc dưới hai triều đại Lý và Trần, trong đó vai trò và sự đóng góp của Phật giáo với lịch sử dân tộc nói chung và công cuộc xây dựng, phát triển thủ đô Thăng Long nói riêng được làm rõ. Từ đây có thể hiểu thêm tinh thần từ bi và trí tuệ của đạo Phật. Cùng với những công trình của các nhà khoa học phải kể đến Tập san của Viện nghiên cứu Phật học Việt nam – tủ sách Phật giáo và dân tộc. Đây là tập hợp những bài viết của Tăng ni sinh khóa VI chuyên ngành Phật giáo Việt Nam thực hiện để chào mừng Đại lễ 1000 năm của dân tộc, với tựa đề “Phật giáo đời Lý” do nhà xuất bản Tôn giáo in năm 2010. Qua các bài viết của tăng ni sinh, có thể thấy được giá trị hào hùng của dân tộc qua hàng nghìn năm nhưng vẫn còn đang lưu chảy trong huyết quản của mỗi người dân Việt Nam nói chung và của tăng ni nói riêng. 13 Liên quan đến đề tài của Luận án này còn có hàng trăm công trình của các nhà nghiên cứu Việt Nam và nước ngoài về lịch sử Việt Nam giai đoạn Lý – Trần nói riêng và lịch sử Việt Nam thời kỳ trung đại nói chung. Đây là những công trình có giá trị tham khảo cao, song, trong khuôn khổ của Luận án, chúng tôi không đi sâu mô tả, tóm lược và phân tích được. Có thể nêu ra đây một số vấn đề chính đã được các công trình này tập trung khảo cứu. Thứ nhất là nhóm công trình đề cập đến lịch sử chiến tranh, chủ yếu là các cuộc kháng chiến chống xâm lược phương Bắc của dân tộc ta trong thời kỳ Lý – Trần. Thứ hai là nhóm công trình khảo cứu khía cạnh lịch sử kinh tế, nhất là chế độ ruộng đất thời kỳ Lý – Trần. Thứ ba là nhóm các công trình nghiên cứu các khía cạnh xã hội, văn hóa, giáo dục, nghệ thuật thời Lý – Trần. Thứ tư là nhóm các công trình nghiên cứu về lịch sử chính trị, bao gồm thân thế, hành trạng các vị vua, đại thần, danh tướng vv… thuộc về nhóm này, gần đây có hai tác phẩm do Vũ Minh Giang biên soạn và làm chủ biên có liên quan trực tiếp đến đề tài của Luận án. Đó là các cuốn Lịch sử Việt Nam truyền thống và hiện đại và Những đặc trưng cơ bản của bộ máy quản lý đất nước và hệ thống chính trị nước ta trước thời kỳ đổi mới xuất bản năm 2008 và 2009. Tuy không trực tiếp nghiên cứu về Phật giáo nhưng có nhiều phát hiện mới về các giá trị truyền thống và hệ thống chính trị Việt Nam, trong đó có đề cập đến mối quan hệ giữa các chính quyền thời phong kiến với Phật giáo. 3. Mục tiêu của Luận án Luận án nhằm đạt được các mục tiêu sau đây: 1) Thông qua việc nghiên cứu các chính sách và hoạt động thực tiễn liên quan đến Phật giáo của hai triều Lý – Trần và những đóng góp của Phật giáo với lịch sử dân tộc trong thời kỳ này làm rõ mối quan hệ tương hỗ giữa hai vương triều nói trên với Phật giáo trong sự nghiệp chấn hưng, dựng xây và bảo vệ đất nước. 2) Trên cơ sở nghiên cứu so sánh lịch đại, góp phần chỉ ra vị trí của Phật giáo trong bệ đỡ tư tưởng của mô hình tập quyền thân dân và những mặt ưu việt của mô hình này so với các thiết chế tập quyền khác trong lịch sử. 14 3) Từ phân tích những kinh nghiệm và bài học lịch sử, tác giả luận án hy vọng sẽ góp phần minh định vai trò của Phật giáo trong xã hội Việt Nam không chỉ trong quá khứ đã cùng dân tộc tạo dựng một quốc gia thịnh vượng, mà ngay cả hiện tại. Với đường lối hiện nay của Đảng, Nhà nước Phật giáo là một thành tố quan trọng để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, là điểm tựa tinh thần vững chắc cho công cuộc đổi mới và hiện đại hóa đất nước. 4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu các chính sách của hai triều Lý và Trần đối với Phật giáo, những hoạt động thực tiễn tác động đến Phật giáo của nhà nước quân chủ, và ngược lại, nghiên cứu những hoạt động và đóng góp của Phật giáo với chính sách trị quốc an dân của hai triều đại này. Từ đây, luận án sẽ nghiên cứu làm rõ mối quan hệ giữa nhà nước quân chủ dưới hai vương triều Lý và Trần với Phật giáo, trên cơ sở đó kết nối truyền thống với hiện đại để rút ra những kinh nghiệm lịch sử nhằm góp phần hoàn thiện nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, đặc biệt là ý thức dân tộc, xây dựng một quốc gia hòa bình thịnh vượng của nhà nước độc lập và dân chủ. Về thời gian, giới hạn nghiên cứu của Luận án tập trung chủ yếu vào thời kỳ tồn tại của hai triều đại Lý và Trần (1009-1400) trải suốt gần bốn trăm năm. Trong quá trình nghiên cứu, luận án có đề cập tới thời kỳ trước đó (các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê) và sau đó (triều Lê sơ) nhưng chủ yếu chỉ để minh họa, so sánh làm nổi bật thời kỳ trọng tâm. 5. Phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận Phương pháp nghiên cứu chủ đạo được sử dụng trong Luận án là duy vật biện chứng và duy vật lịch sử cùng các phương pháp tiếp cận của khoa học lịch sử và tôn giáo học. Ngoài ra, trong một mức độ nhất định Luận án còn áp dụng phương pháp phân tích định lượng và nghiên cứu so sánh kết hợp với tiếp cận chính trị học, văn hóa học đồng thời giữ vững tính thống nhất giữa lôgíc và lịch sử. Ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh hơn đến cách tiếp cận vấn đề theo hướng liên ngành của Luận án, trong đó đặc biệt chú trọng đến sự phối hợp giữa tiếp cận 15 sử học, chính trị học và văn hóa – tôn giáo học nhằm làm sáng tỏ những khía cạnh nhập thế, tham chính của Phật giáo và những trải nghiệm tâm linh mang đặc sắc Phật giáo của các vị quân vương hai triều Lý và Trần, trên cơ sở đó mà phân tích mối quan hệ tương hỗ giữa nhà nước quân chủ Việt Nam và Phật giáo trong một thời kỳ lịch sử đặc biệt. Đây là cách tiếp cận vừa đảm bảo yêu cầu khoa học nghiêm cẩn của Luận án, vừa phù hợp với vị thế là một tỳ kheo Phật giáo của tác giả luận án. 6. Đóng góp mới của Luận án - Đây là lần đầu tiên mối quan hệ giữa chính quyền thời Lý – Trần và Phật giáo được nghiên cứu một cách hệ thống và kết quả nghiên cứu chỉ ra vai trò và ảnh hưởng của Phật giáo trong xã hội đương thời trên các phương diện chính trị, văn hóa, kinh tế, ngoại giao và quân sự, trong đó điểm trọng yếu chính là nhận thức của các vua quan đối với tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng để định hướng đường lối chính sách vừa bảo đảm khối đại đoàn kết toàn dân, nhưng vẫn phát huy được những tinh hoa văn hóa của dân tộc. Trong đó nổi bật là vai trò lãnh đạo của các bậc minh quân, cũng như vai trò của các vị quốc sư trong quá trình hình thành nên hệ tư tưởng chủ đạo của các bậc quân vương cũng như quần chúng. - Đưa ra những nhận định mới về vị trí của tư tưởng và thái độ, phương thức nhập thế của Phật giáo thời Lý-Trần trong lịch sử dân tộc, lịch sử Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam. - Nêu lên những kiến nghị mang tính giải pháp về mối quan hệ giữa chính quyền và Phật giáo phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và văn hóa Việt Nam hiện nay. 16 Chương 1 KHÁI LƯỢC VỀ PHẬT GIÁO VÀ TÌNH HÌNH PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC TRIỀU LÝ 1.1. Khái lược về Phật giáo 1.1.1. Sự xuất hiện của Phật giáo Trong lịch sử thế giới, Ấn Độ là một trong những quốc gia có nền văn minh sớm nhất của nhân loại. Trước khi Đức Phật xuất thế, vùng đất phía bắc Ấn Độ ngày nay, bao gồm cả một phần lãnh thổ của Pakistan, Nepal, Bangladesh đã phát triển tới một trình độ tương đối cao cả về kinh tế, chính trị và văn hóa. Vào khoảng thời gian 3000 – 3500 năm cách ngày nay, một nhánh thuộc tộc người Aryan đã di cư đến vùng sông Ấn, đem theo truyền thống văn hóa, khi ấy đã phát triển triển tương đối cao của họ, trong đó có hệ thống ngôn ngữ khá hoàn chỉnh, sau này trở thành ngôn ngữ chính thức và phổ biến là tiếng Sanskrit (tiếng Phạn) và những nghi lễ tôn giáo hiến tế các vị thần tượng trưng cho các thế lực của thiên nhiên như Indra, Agni và Varuma. Đặc biệt, người Aryan đã đem đến vùng này bộ kinh Veda (Vệ Đà hay Phệ Đà). Lâu đời nhất là tập Rig Veda (1.500 - 1.200 Tr. C.N.). Đặc điểm của Kinh Veda là hướng con người đến những giá trị chân, thiện, mỹ và là bước chuyển tiếp từ những nghi lễ mang tính hình thức vào những trải nghiệm nội tâm. Kinh Veda có quan hệ rất mật thiết với tư tưởng của Đức Phật sau này. Cùng với quá trình phát triển nền văn minh, sau bộ kinh điển Rig Veda (Lê câu Phệ đà), cư dân vùng sông Ấn-Hằng tiếp tục sáng tạo nên các bộ kinh điển khác như Bràhmana (Phạm thư) và Upanishad (Áo nghĩa thư). Đây là những bộ kinh điển quan trọng của Bà La Môn giáo, nó không chỉ hàm chứa những tư tưởng triết học về nhân sinh quan và thế giới quan, mà nó còn ảnh hưởng rất lớn tới vấn đề chính trị, tôn giáo. Thời kỳ trước khi Đức Phật xuất thế, guồng máy chính trị của Ấn Độ là thể chế quân chủ, nhưng cũng chính vì sự phân biệt đẳng cấp ngày một rõ rệt, khiến 17 cho xã hội của thể chế cộng hòa ngày một suy tàn và thay vào đấy là thể chế quân chủ chuyên chế. Tuy rằng Ấn Độ là một quốc gia có nền văn minh sớm, nhưng cũng lại là đất nước mà sự phân biệt đẳng cấp vô cùng nặng nề. Cho đến ngày nay, những di tồn của sự phân biệt đẳng cấp vẫn còn tồn tại ít nhiều trong xã hội Ấn Độ. Thời kỳ cổ đại, xã hội Ấn Độ bị chia thành 4 đẳng cấp (caste) đó là: đẳng cấp Bà La Môn (Brāhmaṇa), đây là đẳng cấp mà mọi người phải kính nể và tôn trọng nhất bao gồm các tu sĩ, triết gia, học giả, chuyên thực hiện các nghi thức tế lễ và ban bố các giới luật. Đẳng cấp vua chúa quý tộc (Kshastriya), đây là đẳng cấp cai trị, nắm quyền bính trong xã hội, họ tự cho có quyền sinh quyền sát với bất cứ ai. Đẳng cấp thương nhân và thợ thủ công nghiệp (Vaisya), đây là đẳng cấp chuyên làm những việc giao dịch buôn bán và làm những nghề thủ công hay nông nghiệp nhỏ. Đẳng cấp nô lệ (Soudra) thấp kém nhất trong xã hội, họ hầu như không có một quyền lợi gì trong xã hội, suốt đời phải làm thuê làm mướn. Đến thời Đức Phật xuất thế, tại Ấn Độ loạn lạc liên miên làm cho xã hội bị xáo trộn, ngay cả đẳng cấp Bà La Môn cũng bị lay chuyển tới cả gốc rễ, do đó lúc này đã hình thành lên rất nhiều trường phái triết học khác nhau như: Kỳ Na giáo (Jain), Lục Sư ngoại đạo (Sat- Tirthakarah) vv… Các học thuyết này chỉ hình thành một thời gian ngắn rồi tuyệt diệt. Ngoài Lục Sư ngoại đạo ra, còn có sáu trường phái triết học khác. Những trường phái triết học này, có trường phái tích cực, cũng có trường phái mang tư tưởng tiêu cực, về quan điểm nhân sinh quan và thế giới quan, có trường phái lấy duy tâm làm cơ bản, nhưng cũng có những trường phái lấy duy vật làm nền tảng cho học thuyết của mình. Và có thể nói, tất cả nền văn hóa, cũng như các trường phái tư tưởng và triết học này, ít nhiều có ảnh hưởng tới quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo. Đấng giáo chủ của đạo Phật là Đức Phật tổ Siddhārtha Gautama (Tất Đạt Đa Cồ Đàm1. Ngài sinh trưởng trong một gia đình hoàng tộc thuộc xứ Sakya (Thích 1 Về thân thế của Đức Phật có rất nhiều quan điểm khác nhau, từ dòng tộc đến ngày tháng năm sinh của Ngài. Căn cứ vào tài liệu của Hòa Thượng Thích Thánh Nghiêm, thì có khoảng 70 thuyết khác 18 Ca). Sau này được xưng tụng là Sakya Mouni (Thích Ca Mâu Ni / Người thông tuệ xứ Thích Ca). Ngài là một nhân vật lịch sử, năm sinh của Ngài tính theo Phật lịch thì đến nay đã 2556 năm. Khi tròn 19 tuổi Ngài xuất gia, 30 tuổi thành đạo, trụ thế thuyết pháp suốt trong 49 năm. Năm 80 tuổi Ngài nhập Niết bàn. Vốn xuất thân từ dòng dõi hoàng tộc, Ngài là con vua Suddhodana (Tịnh Phạn) và hoàng hậu Maya (Ma Da), trị vì ở thành Kapilavastu (Ca Tỳ La Vệ), nay thuộc Nepal. Vì hoàng hậu hiếm muộn, chỉ sinh một con nên Ngài đã được phong làm Thái tử khi vừa mới chào đời. Không may, hoàng hậu qua đời sau khi sinh nở mới được bẩy ngày. Thái tử đã được dì ruột là Ma Ha Ba Xà Ba Đề nuôi dưỡng. Hiện nay vẫn còn cây trụ đá đã được vua A Dục dựng lên để lưu dấu tích và kỷ niệm nơi Thái tử đản sinh và tại thủ đô Kathmandu của Nepal hiện vẫn còn cả một khu mang dòng họ Gautama (Cồ Đàm). Tất cả những điều đó cho thấy Đức Phật là một nhân vật lịch sử, chứ không phải là một nhân vật huyền thoại. Có thể nói, sự vĩ đại của Thái tử đã bắt đầu từ bước chân đầu tiên khi rời khỏi cung điện. Danh vọng cũng như tất cả cuộc sống của một bậc vương giả, Thái tử đã vứt bỏ như một chiếc dép rách, không một chút luyến tiếc. Phàm rằng con người thường có một thói quen dễ thực hiện đó là, từ một cuộc sống nghèo khổ mà bước tới một cuộc sống sung sướng thì dễ hơn là từ bỏ một cuộc sống sung sướng để dấn thân vào cuộc sống khổ hạnh đầy thiếu thốn. Thái tử đã quyết chí bước trên con đường tìm kiếm phương pháp giải thoát đau khổ cho chúng sinh, chính nhờ có trái tim từ bi mãnh liệt tìm cầu chân lý đó, mà những cám dỗ thế gian cũng như khó khăn gian khổ Thái tử đều có thể vượt qua. Ngài đã sống bằng lý tưởng của mình, nhau về ngày tháng năm sinh của Đức Phật, tất nhiên có rất nhiều lý do, chính vì thế, Đại hội Phật giáo thế giới lần thứ 3 đã thống nhất lấy năm 554 trước công nguyên là năm Phật nhập Niết bàn. Đây là kết quả suy luận từ niên đại ghi trên văn bia của vua Ca la Tì la (Siri khàravela Mala – Meghavàhana ) của nước Kiệt Lăng Già (Kalinga) ở miền nam Ấn Độ. Về dòng tộc của Đức Phật các học giả đều thống nhất dòng họ Thích Ca thuộc đẳng cấp Sát- đế - lợi (Kshastriya), dòng dõi vua Cam Giá phát xuất từ họ Cồ Đàm mà ra, nhưng về chủng tộc lại có nhiều ý kiến khác nhau, cho chủng tộc của dòng tộc Thích Ca thuộc người Aryan da trắng, cũng có thuyết nói là tộc người Mông Cổ da vàng. Nhưng Hòa thượng Thích Thánh Nghiêm dựa vào tài liệu Tây vực kí, thì thời Đức Thế Tôn chưa có tộc da vàng nào xâm nhập vào Ấn Độ, phải tới vương triều Quí Xương mới có dân tộc Đại Nguyệt thị vào đất Ấn Độ. Do vậy, tộc Thích Ca không thuộc huyết thống Aryan thuần nhất. 19 đó là sống cho nhân loại và vì hạnh phúc của nhân loại. Từ tấm gương sống cuộc sống mộc mạc nhưng thanh cao của Đức Phật, đã khiến một thi nhân Hồi giáo Abdul Atahiya phải có một nhận xét dưới tiêu đề “Người cao quí nhất của nhân loại”, ông viết: “Nếu bạn muốn thấy người cao quí nhất của loài người, bạn hãy nhìn vị hoàng đế trong y phục một người ăn xin; chính là Ngài đó, siêu phàm thánh tính của Ngài thật vĩ đại giữa con người ” [44, tr.31]. Căn cứ vào những tài liệu lịch sử cuộc đời Đức Phật, sau những ngày tháng tầm thầy học đạo, từ nhà đại học giả trứ danh của Ấn Độ đương thời là Ra La Ca Lan và Uất Đà Ka La Ma Tử, mà vẫn chưa đạt được chân lý, cuối cùng Ngài quyết định vào rừng tu khổ hạnh sáu năm. Sáu năm là một cực hình với người bình thường, bởi mỗi ngày Ngài chỉ ăn có một bữa lúa hoang và vừng dại, uống nước suối. Tuy khổ hạnh là vậy, nhưng vẫn chưa tìm ra được chân lý. Cuối cùng, Ngài đã quyết định bỏ lối tu khổ hạnh này và thực hiện phương pháp dưỡng thân để tu hành theo phương pháp trung dung, đó là: không nên quá tham đắm vào vật chất, nhưng cũng không nên quá ép xác, vì cả hai đều không phù hợp cho con đường tìm cầu chân lý, đây chính là sự khơi nguồn của tư tưởng “Trung đạo” cơ bản trong hệ thống giáo lý Phật giáo sau này. Sau khi quyết định như vậy, Ngài đã xuống dòng sông Ni Liên Thiền tắm gội, rồi tới dưới gốc cây Bồ đề thiền định suốt 49 ngày đêm. Ngài đã dùng toàn bộ tâm lực vào việc quán chiếu, soi xét lại tất cả quá trình tu hành của mình cũng như áp dụng phương pháp quán thập nhị nhân duyên và duyên khởi, rồi đến đêm thứ 48 Ngài đạt được giác ngộ, hiểu rõ chân tướng của vạn pháp, tất cả đều vô ngã, như trong kinh Trung A hàm đã thuật lại cảm nhận của Ngài: “Nảy sinh trí tuệ, nảy sinh nhận thức, định được đạo, đánh giá được pháp, cuộc đời đã hết, phạm hạnh đã thành, điều cần làm đã làm xong, không còn trở lại kiếp người, biết được như chân thật ”. [12, tr. 32]. Từ đây, với tấm lòng từ bi và trí tuệ của mình, Ngài đã du hành khắp nơi để truyền bá chân lý mà Ngài đã chứng ngộ được. Chân lý mà Ngài chứng ngộ đó, nó siêu vượt không gian và thời gian, hay nói một cách khác, chân lý này phù hợp với 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan