ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN TRƢỜNG SƠN
QUAN HỆ CỦA ẤN ĐỘ VỚI ĐÔNG Á
SAU CHIẾN TRANH LẠNH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN TRƢỜNG SƠN
QUAN HỆ CỦA ẤN ĐỘ VỚI ĐÔNG Á
SAU CHIẾN TRANH LẠNH
Chuyên ngành: Lịch sử Thế giới Cận đại và Hiện đại
Mã số: 62.22.50.05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. NGUYỄN QUỐC HÙNG
HÀ NỘI – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực. Những kết
luận trong luận án chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào
khác.
Tác giả
Nguyễn Trƣờng Sơn
i
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
I
Mục lục
II
Các thuật ngữ viết tắt
V
Danh mục các bản đồ
VII
Danh mục các bảng biểu
VIII
MỞ ĐẦU
1
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
19
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
21
5. Đóng góp của luận án
22
6. Bố cục của luận án
23
Chƣơng 1. NHỮNG TIỀN ĐỀ CỦA VIỆC ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ
CỦA ẤN ĐỘ VỚI ĐÔNG Á SAU CHIẾN TRANH LẠNH
24
1.1. Mối liên hệ về lịch sử, văn hóa và an ninh giữa Ấn Độ với
Đông Á
24
1.2. Quan hệ của Ấn Độ với Đông Á giai đoạn 1947-1991
31
1.2.1. Quan hệ Ấn Độ - Đông Nam Á
32
1.2.2. Quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc
34
1.2.3. Quan hệ Ấn Độ - Nhật Bản
37
1.3. Bối cảnh quốc tế và khu vực sau Chiến tranh lạnh
40
1.3.1. Trật tự hai cực tan rã và xu thế phát triển của thế giới
40
1.3.2. Sự nổi lên của khu vực Đông Á và điều chỉnh chính sách của
các nước lớn
43
1.3.3. Tình hình không ổn định ở Nam Á và sự phát triển ít hiệu quả
của SAARC
48
1.4. Nhu cầu phát triển và đảm bảo an ninh của Ấn Độ trong bối
cảnh mới
53
1.4.1. Nhu cầu phát triển kinh tế và hội nhập Đông Á
ii
53
1.4.2. Tăng cường vai trò tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương
59
1.4.3. Thúc đẩy sự phát triển của vùng Đông Bắc Ấn Độ
61
Tiểu kết
65
Chƣơng 2. QUAN HỆ CỦA ẤN ĐỘ VỚI ĐÔNG Á SAU CHIẾN
TRANH LẠNH
2.1. Sự điều chỉnh chính sách của Ấn Độ với Đông Á
66
66
2.1.1. Chính sách đối ngoại của Ấn Độ trong Chiến tranh lạnh
66
2.1.2. Những điều chỉnh chủ yếu trong Chính sách đối ngoại của Ấn
Độ sau Chiến tranh lạnh
68
2.1.3. Đông Á trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ
71
2.1.4. Chính sách hướng Đông của Ấn Độ
74
2.2. Quan hệ của Ấn Độ với Đông Á giai đoạn 1991-2012
2.2.1. Quan hệ Ấn Độ - Đông Nam Á
79
79
2.2.1.1. Lĩnh vực chính trị - an ninh
79
2.2.1.2. Lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư
86
2.2.1.3. Các lĩnh vực khác
91
2.2.2. Quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc
94
2.2.2.1. Lĩnh vực chính trị - an ninh
94
2.2.2.2. Lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư
98
2.2.2.3. Các lĩnh vực khác
101
2.2.3. Quan hệ Ấn Độ - Nhật Bản
103
2.2.3.1. Lĩnh vực chính trị - an ninh
103
2.2.3.2. Lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư
108
2.2.3.3. Các lĩnh vực khác
115
2.3. Quan hệ Ấn Độ - Việt Nam trong Chính sách hƣớng Đông
của Ấn Độ
Tiểu kết
117
127
Chƣơng 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ QUAN HỆ CỦA ẤN ĐỘ VỚI
ĐÔNG Á SAU CHIẾN TRANH LẠNH
3.1. Thành tựu và hạn chế trong quan hệ của Ấn Độ với Đông Á
128
128
3.1.1. Các thành tựu chính
128
3.1.2. Các mặt hạn chế
134
iii
3.2. Một số đặc điểm trong quan hệ của Ấn Độ với Đông Á
136
3.2.1. Quan hệ với Đông Á đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong tổng
thể chính sách đối ngoại của Ấn Độ sau Chiến tranh lạnh
136
3.2.2. ASEAN là điểm khởi đầu và đóng vai trò trung tâm trong Chính
sách hướng Đông của Ấn Độ
138
3.2.3. Sự đan xen giữa hợp tác và cạnh tranh trong quan hệ của Ấn Độ
với Trung Quốc, Nhật Bản
141
3.2.4. Ấn Độ ngày càng đóng vai trò tích cực trong định hình cấu trúc
an ninh ở châu Á – Thái Bình Dương
144
3.3. Thuận lợi và thách thức trong việc thúc đẩy quan hệ Ấn Độ Đông Á
147
3.3.1. Các yếu tố lợi ích căn bản thúc đẩy quan hệ Ấn Độ - Đông Á
147
3.3.2. Các thách thức
152
3.3.2.1. Vấn đề biên giới Ấn Độ – Trung Quốc
152
3.3.2.2. Cạnh tranh trên Ấn Độ Dương giữa Ấn Độ và Trung Quốc
154
3.3.2.3. Quan hệ Trung Quốc – Pakistan
157
3.4. Triển vọng của quan hệ Ấn Độ - Đông Á
Tiểu kết
159
165
KẾT LUẬN
167
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
170
TÀI LIỆU THAM KHẢO
171
PHỤ LỤC
192
iv
CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
ADMM+
ASEAN Defence Ministers‟
Meeting-Plus
Hội nghị Bộ trưởng Quốc
phòng ASEAN mở rộng
AFTA
ASEAN Free Trade
Agreement/Area
Hiệp định/Khu vực thương mại
tự do ASEAN
AMM
ASEAN Ministerial Meeting
Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao
ASEAN
APEC
Asia Pacific Economic
Cooperation
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á
– Thái Bình Dương
ARF
ASEAN Regional Forum
Diễn đàn khu vực ASEAN
ASEAN
Association of Southeast Asian
Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á
ASEAN+1
ASEAN Plus One
Cơ chế hợp tác giữa ASEAN
với từng nước đối thoại đầy đủ
ASEAN+3
ASEAN Plus Three
Cơ chế hợp tác giữa ASEAN
với Trung Quốc, Nhật Bản và
Hàn Quốc
ASEM
Asia–Europe Meeting
Hội nghị cấp cao Á-Âu
BIMSTEC
Bay of Bengal Initiative for Multi- Sáng kiến vịnh Bengal về hợp
Sectoral Technical and Economic tác kinh tế và kỹ thuật đa ngành
Cooperation
BJP
Bharatiya Janata Party
Đảng Nhân dân Ấn Độ
CECA
Comprehensive Economic
Cooperation Agreement
Hiệp định hợp tác kinh tế toàn
diện
COC
Code of Conduct
Bộ quy tắc ứng xử
EAS
East Asia Summit
Hội nghị cấp cao Đông Á
EPA
Economic Partnership Agreement
Hiệp định đối tác kinh tế
EU
European Union
Liên minh châu Âu
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FTA
Free Trade Agreement/Area
Hiệp định/Khu vực thương mại
tự do
GDP
Gross Domestic Products
Tổng sản phẩm quốc nội
IMF
International Monetary Fund
Quỹ tiền tệ quốc tế
v
IOR-ARC
Indian Ocean Rim Association for
Regional Cooperation
Hợp tác khu vực các nước ven
Ấn Độ Dương
IT
Information Technology
Công nghệ thông tin
LAC
Line of Actual Control
Đường kiểm soát thực tế
MGC
Mekong-Ganga Cooperation
Hợp tác sông Hằng – sông
Mekong
NAFTA
North American Free Trade
Agreement/Area
Hiệp định/Khu vực thương mại
tự do Bắc Mỹ
NIC
Newly Industrialized Country
Nước công nghiệp mới
NPT
Nuclear Non-proliferation Treaty
Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí
hạt nhân
ODA
Official Development Assistance
Hỗ trợ phát triển chính thức
PLA
People‟s Liberation Army
Quân đội giải phóng nhân dân
Trung Quốc
PMC
ASEAN Post–Ministerial
Conference
Hội nghị sau cuộc họp bộ
trưởng ngoại giao ASEAN
SAARC
South Asian Association for
Regional Cooperation
Hiệp hội hợp tác khu vực Nam
Á
SCN
Sau công nguyên
SCO
Shanghai Cooperation
Organisation
Tổ chức hợp tác Thượng Hải
SLOCs
Sea Lines of Communication
Các tuyến đường biển
TAC
Treaty of Amity and Cooperation
in Southeast Asia
Hiệp ước thân thiện và hợp tác
ở Đông Nam Á
Trước công nguyên
TCN
TNC
Transnational Company
Công ty xuyên quốc gia
USD
United States Dollar
Đô la Mỹ
WB
World Bank
Ngân hàng thế giới
WTO
World Trade Organisation
Tổ chức thương mại thế giới
vi
DANH MỤC CÁC BẢN ĐỒ
Trang
Bản đồ 1.1: Thương mại trên biển giữa Ấn Độ và Đông Á
26
(thời Đế chế Chola – 1.051 TCN)
Bản đồ 1.2: Con đường tơ lụa vào thế k thứ I SCN
28
Bản đồ 1.3: Vùng Kashmir
49
Bản đồ 1.4: Vùng Đông Bắc Ấn Độ
61
Bản đồ 3.1: “Chuỗi ngọc trai” bao vây Ấn Độ
vii
155
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 1.1:
T trọng thương mại nội khối của 4 nền kinh tế chính
trong SAARC (giai đoạn 2000-04 và 2005)
Bảng 2.1:
FDI của Nhật Bản dành cho Ấn Độ và Trung Quốc
trong thập k 1990
110
Bảng 2.2:
Sáu nước có FDI lớn nhất tại Ấn Độ (4/2006-3/2010)
111
Bảng 2.3:
ODA của Nhật Bản dành cho Ấn Độ (1997-2008)
113
viii
52
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ấn Độ là một trong những nền văn minh lâu đời nhất trên thế giới, có
nhiều đóng góp quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Ấn Độ là một quốc gia
đa dạng về sắc tộc, chủng tộc, tôn giáo; ngày nay là một trong những nước
đang phát triển nhanh và vươn lên thành một cường quốc trên thế giới. Là một
nước lớn châu Á, Ấn Độ từ sớm trong lịch sử đã có mối bang giao trên nhiều
lĩnh vực với các nước khu vực Đông Á1, nhất là Đông Nam Á. Chiến tranh
lạnh kết thúc cũng là thời điểm Ấn Độ phải đối mặt trước những khó khăn lớn
về kinh tế - xã hội và nhu cầu điều chỉnh lại những định hướng cơ bản trong
chính sách đối ngoại để hội nhập quốc tế, tạo lập môi trường quốc tế thuận lợi
phục vụ công cuộc cải cách trong nước. Trong bối cảnh đó, Ấn Độ một mặt
chủ động cải thiện quan hệ với phương Tây, mặt khác đưa ra và tích cực thực
hiện Chính sách hướng Đông, phát triển quan hệ với khu vực phía Đông,
trong đó chú trọng Đông Á, coi đây là địa bàn có tính chiến lược để thâm
nhập ngày càng sâu rộng vào châu Á – Thái Bình Dương. Tuy rằng thuật ngữ
“Chính sách hướng Đông” được nhắc đến nhiều, nhưng sau hơn hai thập k ra
đời vẫn chưa có một văn bản chính thức nào của chính phủ Ấn Độ về chính
sách này được công bố. Tại sao Ấn Độ lại hướng về phía Đông, gia tăng sự
gắn kết và can dự với khu vực này? Chính sách hướng Đông là gì? Đây là
những luận đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn cần được nghiên cứu trong
bối cảnh hiện nay.
Sau Chiến tranh lạnh, Đông Á nói riêng và châu Á – Thái Bình Dương
nói chung, cùng với sự phát triển kinh tế năng động, đã và đang hình thành
nhiều cơ chế hợp tác, liên kết khu vực quan trọng. Hiệp hội các quốc gia
1
Khu vực Đông Á trong luận án bao gồm các nước Đông Nam Á và Đông Bắc Á.
1
Đông Nam Á (ASEAN) đang phát triển mạnh mẽ, là trụ cột trong nhiều cơ
chế hợp tác an ninh – chính trị và đóng vai trò trung tâm trong hội nhập kinh
tế của khu vực; do đó, Đông Nam Á có vị thế quan trọng trong cạnh tranh ảnh
hưởng giữa các nước lớn ở khu vực. Sự trỗi dậy của Trung Quốc, những điều
chỉnh về đối ngoại của Nhật Bản, hợp tác Đông Á,… được cộng đồng quốc tế
rất quan tâm. Đối với Ấn Độ, việc tranh thủ và lôi kéo được ASEAN cũng
như việc xử lý thỏa đáng mối quan hệ với Trung Quốc, Nhật Bản sẽ tạo thế
đứng trên địa bàn chiến lược Đông Á, bảo vệ được các lợi ích chiến lược và
hội nhập ngày càng sâu rộng vào châu Á – Thái Bình Dương. Đây là lý do
khiến Ấn Độ đặt cao vị trí của Đông Nam Á và Đông Bắc Á trong Chính sách
hướng Đông của mình.
Bước sang thế k XXI, với các thành quả đạt được từ Chính sách
hướng Đông, Ấn Độ đã xác lập được quan hệ mang tính chiến lược với
ASEAN, đối tác chiến lược với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia
và Mỹ. Sự bứt phá về thực lực kinh tế, quân sự cùng với mạng lưới quan hệ
quốc tế được mở rộng và ngày càng có chiều sâu đã đưa Ấn Độ tiệm cận tâm
điểm của cuộc cạnh tranh ảnh hưởng tại châu Á – Thái Bình Dương hiện nay.
Ấn Độ đã trở thành một chủ thể quyền lực có vai trò quan trọng hơn rất nhiều,
nếu so với vị thế còn khá mờ nhạt của họ ở khu vực trong nửa đầu thập k 90
của thế k XX. Có thể thấy, việc nghiên cứu quan hệ của Ấn Độ với Đông Á
không chỉ góp phần làm rõ sự điều chỉnh chính sách đối ngoại và ý đồ chiến
lược của Ấn Độ đối với khu vực Đông Á nói riêng, châu Á – Thái Bình
Dương nói chung, mà còn cho thấy những tác động của chính sách đó đến
quan hệ quốc tế ở khu vực thời kỳ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc. Điều này
rất hữu ích với Việt Nam trong việc nhận thức và thúc đẩy quan hệ với Ấn
Độ, một đối tác truyền thống, cũng như hoạch định và triển khai chính sách
của Việt Nam với khu vực và với các nước lớn khác.
2
Với công cuộc đổi mới từ năm 1986, Việt Nam đạt được tốc độ phát
triển kinh tế khá cao, có sự ổn định về chính trị và thi hành chính sách đối
ngoại làm bạn với tất cả các nước, hội nhập ngày càng mạnh mẽ vào cộng
đồng khu vực và thế giới như gia nhập: ASEAN, ARF, APEC, WTO,…
Trong khi đó, Ấn Độ lại hướng Đông, coi Việt Nam là một thành tố quan
trọng trong triển khai chính sách đối ngoại của Ấn Độ với Đông Á. Mối quan
hệ hai nước đã có một lịch sử lâu đời và tốt đẹp. Vậy thời kỳ hậu Chiến tranh
lạnh, mối quan hệ này như thế nào? Việt Nam được hưởng lợi gì từ việc thắt
chặt quan hệ với Ấn Độ? Việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần làm rõ mối
quan hệ hai nước trong bối cảnh Ấn Độ ngày càng gia tăng ảnh hưởng và sự
hiện diện ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, châu Á – Thái Bình Dương nói
chung; từ đó, rút ra các bài học bổ ích cho việc xây dựng và phát triển mối
quan hệ Việt Nam - Ấn Độ mạnh mẽ hơn vì lợi ích hai nước và sự hòa bình,
ổn định trong khu vực.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về Ấn Độ tuy đã có từ lâu, nhưng tập
trung trong một vài chuyên ngành như tôn giáo, khảo cổ học, lịch sử, văn hoá,
v.v... Số lượng các nhà nghiên cứu chuyên về chính sách đối ngoại của Ấn Độ
chưa nhiều; và thời gian gần đây, cùng với sự phát triển trong quan hệ của Ấn
Độ với các quốc gia phía Đông, lĩnh vực này ngày càng thu hút sự quan tâm
của Đảng, Nhà nước ta và một số chuyên gia, nhà hoạch định chính sách đối
ngoại. Trong bối cảnh đó, một công trình có nội dung đề cập đến Chính sách
hướng Đông và quan hệ của Ấn Độ với các đối tác chính ở Đông Á có thể coi
là một sự đóng góp thêm vào hướng nghiên cứu này, cũng như góp phần vào
công tác nghiên cứu, giảng dạy về chính sách đối ngoại và quan hệ của Ấn Độ
với khu vực phía Đông, trong đó có Việt Nam.
Hướng nghiên cứu này có sự kế thừa và phát triển từ những nghiên cứu
trong Luận văn thạc sĩ của tác giả với đề tài “Chính sách hướng Đông của Ấn
3
Độ và tác động của nó tới quan hệ Ấn Độ - ASEAN” từ năm 2003. Với sự nổi
lên mạnh mẽ của Ấn Độ, sự liên kết ngày càng rõ nét và tầm quan trọng ngày
càng tăng của Ấn Độ đối với hoà bình, an ninh và phát triển của khu vực
Đông Á nói chung, Việt Nam nói riêng trong những năm gần đây, hai nước đã
ký “Tuyên bố chung về Quan hệ đối tác chiến lược” vào ngày 6/7/2007.
Tuyên bố chung nhấn mạnh rằng Việt Nam luôn ủng hộ Ấn Độ trở thành
thành viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc mở rộng, ủng hộ việc
Ấn Độ triển khai Chính sách hướng Đông và tăng cường quan hệ Ấn Độ –
ASEAN, Ấn Độ - Đông Á. Điều đó đã cho thấy tính thực tiễn, khả thi của
công trình này.
Với những lý do trên, nghiên cứu sinh đã chọn “Quan hệ của Ấn Độ
với Đông Á sau Chiến tranh lạnh” làm đề tài luận án tiến sĩ lịch sử thế giới
cận đại và hiện đại của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trên thế giới, ngành Ấn Độ học đã hình thành từ khá lâu. Liên Xô –
Nga, Mỹ, Anh, Pháp là những nước có các cơ quan nghiên cứu chuyên sâu
nhất về Ấn Độ. Sau Chiến tranh lạnh, bối cảnh trong nước, khu vực và quốc
tế thay đổi, Ấn Độ đã có sự điều chỉnh chính sách đối ngoại đối với Đông Á,
cụ thể là Chính sách hướng Đông. Quan hệ Ấn Độ - Đông Á phát triển liên
tục và ngày càng sâu rộng hơn. Bước vào thế k XXI, Ấn Độ đang vươn lên
mạnh mẽ để trở thành một cường quốc có vai trò quan trọng ở châu Á và đặc
biệt ở Đông Á, Đông Nam Á. Do đó, việc nghiên cứu về Ấn Độ ngày càng
được các nhà nghiên cứu coi trọng. Tác giả của nhiều công trình nghiên cứu
dưới dạng sách, bài viết đăng tải trên các tạp chí nghiên cứu, website của các
trung tâm nghiên cứu, tham luận trong các hội nghị, hội thảo chuyên sâu là
các học giả, nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách đối ngoại của Ấn Độ,
các nước Nam Á, châu Á – Thái Bình Dương, châu Âu và Mỹ.
4
Chính sách hướng Đông và quan hệ của Ấn Độ với các nước Đông Bắc
Á, Đông Nam Á là mảng đề tài đang được các nhà nghiên cứu trên thế giới
quan tâm. Trong phạm vi những tài liệu có thể tiếp cận được, luận án xin nêu
một số nét chính về tình hình nghiên cứu vấn đề ở hai nội dung chính là: (1)
các nghiên cứu về Chính sách hướng Đông; và (2) các nghiên cứu về quan hệ
của Ấn Độ với Đông Á sau Chiến tranh lạnh.
(1) Các nghiên cứu chủ yếu về Chính sách hướng Đông
Ra đời năm 1991, nhưng phải một thời gian sau Chính sách hướng
Đông mới trở thành đối tượng nghiên cứu, trước hết của giới học giả Ấn Độ.
Trước đó, Học giả Tatyana L. Shaumian (Nghiên cứu viên cao cấp của Viện
nghiên cứu phương Đông, Moscow, kiêm Giám đốc Trung tâm nghiên cứu về
Ấn Độ trực thuộc Viện) là người đầu tiên sử dụng cụm từ “hướng Đông” (đầy
đủ là „Look East Destiny‟ Policy), thuật ngữ dùng để ám chỉ chính sách đối
ngoại của Ấn Độ đối với khu vực Đông Nam Á trong thập k 1980, ngay
trước khi kết thúc Chiến tranh lạnh. Trong bài viết “Chính sách đối ngoại của
Ấn Độ: mối tương tác giữa các khía cạnh khu vực và toàn cầu” được đăng
trên tạp chí Asian Survey, số 28 (11) năm 1988, Tatyana L. Shaumian đã viết
“Ấn Độ đã bắt đầu thúc đẩy quan hệ với các quốc gia Đông Nam Á thông qua
Chính sách vận mệnh hướng Đông của mình” [196, tr. 1167].
Trong văn bản chính thức của chính phủ Ấn Độ, cụm từ “Chính sách
hướng Đông” xuất hiện lần đầu tiên trong Báo cáo thường niên 1995-1996
của Bộ Ngoại giao Ấn Độ. Trong các nghiên cứu của giới học giả Ấn Độ về
chính sách của Ấn Độ với khu vực châu Á – Thái Bình Dương sau Chiến
tranh lạnh, thuật ngữ “hướng Đông” được K.K. Katyal sử dụng trong bài báo
“Look Eastward for Capital” trên tạp chí The Hindu ngày 24/01/1994 [108],
trước cả chuyến thăm của Thủ tướng Ấn Độ P.V. Narasimha Rao tới
Singapore và ông đã có bài phát biểu “Ấn Độ và châu Á – Thái Bình Dương:
5
hướng tới một mối quan hệ mới” tại Viện nghiên cứu Đông Nam Á,
Singapore tháng 9/1994 – sau này nhiều nhà nghiên cứu coi bài phát biểu này
đánh dấu sự ra đời của Chính sách hướng Đông của Ấn Độ [183].
Thuật ngữ “Chính sách hướng Đông” lần đầu tiên được G. Mukul
Asher sử dụng trong bài tham luận với tiêu đề “Ngân sách 1994-95: quan hệ
mật thiết với Chính sách hướng Đông của Ấn Độ” (The 1994-95 budget:
Implications for India‟s Look East Policy) tại Hội thảo về các cơ hội kinh
doanh ở Ấn Độ do Ủy ban phát triển thương mại Singapore tổ chức ngày
31/03/1994 [46]. Từ thời điểm đó, các công trình nghiên cứu về Chính sách
hướng Đông và quan hệ của Ấn Độ với ASEAN nói riêng, quan hệ của Ấn
Độ với Đông Á và châu Á – Thái Bình Dương nói chung bắt đầu xuất hiện
nhiều hơn.
Vào những năm cuối thập k 1990, trường Đại học Jawaharlal Nehru
cùng với Viện nghiên cứu Đông Nam Á của Singapore và Trung tâm khoa
học Nhân Văn của Pháp tại New Delhi đã thực hiện một chương trình nghiên
cứu mang tên “Chính sách đối ngoại của Ấn Độ ở ngưỡng cửa chuyển giao
thiên niên kỷ: thúc đẩy quan hệ đối tác mới ở Đông Nam Á”. Kết quả của
Chương trình là hai cuốn sách được xuất bản vào các năm 2001 và 2003 dưới
các tiêu đề: “Ấn Độ và ASEAN: khía cạnh chính trị của Chính sách hướng
Đông” (India and ASEAN: The Politics of India‟s Look East Policy) và “Hơn
cả sự tượng trưng: khía cạnh kinh tế của Chính sách hướng Đông” (Beyond
the Rhetoric: The Economics of India‟s Look East Policy) đều do Frédéric
Grare và Amitabh Mattoo chủ biên [86, 87]. Tuy cụm từ “Chính sách hướng
Đông” xuất hiện ở tên của hai cuốn sách nhưng không có một phần viết cụ thể
nào về chính sách này.
Bài phát biểu “The problem” của Giáo sư Sanjaya Baru tại Hội thảo
chuyên đề về nhu cầu tái định hướng chính sách đối ngoại của Ấn Độ với chủ
6
đề “Hướng Đông” từ ngày 12-17/03/2000 đã bàn về chiến lược hướng Đông
của Ấn Độ sau Chiến tranh lạnh. Bài viết không phân tích sâu vào nội dung
của Chính sách hướng Đông mà chỉ tập trung vào một số khía cạnh: (1) các
nguyên nhân ra đời của chính sách (các mối liên hệ về văn minh và lâu đời
của Ấn Độ với phía Đông; chiến lược hướng nền kinh tế ra bên ngoài sau
Chiến tranh lạnh; sự nổi lên của trật tự thế giới đa cực với các cường quốc
châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia Đông Nam Á;
sự tiến triển chậm chạp của hợp tác khu vực Nam Á - SAARC); (2) các mục
tiêu của Chính sách hướng Đông (học hỏi các mô hình phát triển kinh tế
hướng ra bên ngoài của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á; cải thiện mối
quan hệ kinh tế với các nước châu Á ở phía Đông; kiềm chế sức mạnh quân
sự và kinh tế ngày càng gia tăng của Trung Quốc ở khu vực; thúc đẩy về lâu
dài sự phát triển của vùng Đông Bắc Ấn Độ lạc hậu thông qua việc tăng
cường hợp tác trong các cơ chế IOR-ARC và BIMST-EC; gia tăng thương
mại với các nền kinh tế APEC và trở thành thành viên của tổ chức này).
Ngoài ra, các lĩnh vực triển khai của Chính sách hướng Đông cũng được đề
cập đến, tác giả viết:
Khi Thủ tướng Rao đưa Ấn Độ hướng Đông, ông ấy không chỉ chú
tâm đến xuất khẩu của Ấn Độ tới khu vực (phía Đông). Mối quan
tâm của ông ấy, thực tế được tiếp nối bởi các chính phủ kế nhiệm,
là hướng đến mối quan hệ gần gũi với cả khu vực thông qua tất cả
các mối liên kết về thương mại, đầu tư, văn hóa, chính trị, ngoại
giao và chiến lược. Do đó, ngoài việc gia tăng thương mại và đầu
tư, các lĩnh vực hợp tác khác cũng được xúc tiến như: khoa học –
kỹ thuật, viễn thông - không gian, an ninh và kinh tế biển [47, tr.
14].
“Khám phá lại châu Á: sự tiến triển của Chính sách hướng Đông của
7
Ấn Độ” (Rediscovering Asia: Evolution of India‟s Look East Policy) là tên
cuốn sách của Prakash Nanda ấn hành năm 2003. Liên quan đến nội dung của
Chính sách hướng Đông, cuốn sách đề cập đến các vấn đề bao gồm: thuật ngữ
“phía Đông”, phạm vi hướng Đông, các nguyên nhân hình thành Chính sách
hướng Đông. Tác giả cho rằng phía Đông là khu vực nằm về phía Đông vịnh
Bengal hoặc khu vực ở phía Đông dãy Himalaya [160, tr. 15]. Phạm vi của
Chính sách hướng Đông được Prakash Nanda xác định là châu Á – Thái Bình
Dương, khu vực từ Ấn Độ xuống New Zealand, Australia, hướng lên Trung
Quốc và Nhật Bản [160, tr. 17]. Tác giả đã chỉ ra 5 nguyên nhân hình thành
của Chính sách hướng Đông, bao gồm: (1) sự kết thúc của Chiến tranh lạnh;
(2) tác động của Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991; (3) sự tan rã của Liên
bang Xô viết; (4) sự hình thành trật tự thế giới mới; và (5) bối cảnh khu vực
và môi trường trong nước của Ấn Độ giai đoạn 1990-1991 [160, tr. 249-278].
Năm 2006, Shubhashree Sen đã bảo vệ luận văn thạc sĩ với đề tài
“Quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ trong Chính sách hướng Đông của Ấn Độ”
(Sino-Indian Relations in the Context of India‟s Look East Policy) tại Đại học
quốc gia Singapore. Công trình đi sâu vào phân tích các khía cạnh trong quan
hệ Trung Quốc - Ấn Độ dưới tác động của Chính sách hướng Đông. Các vấn
đề liên quan đến nội dung của Chính sách hướng Đông được đề cập đến trong
luận văn bao gồm: (1) các nguyên nhân đưa đến sự ra đời của Chính sách
hướng Đông (nhu cầu đánh giá và định hướng lại việc hoạch định chính sách
đối ngoại của Ấn Độ trong bối cảnh quốc tế mới sau khi Chiến tranh lạnh kết
thúc; tư duy không liên kết không còn phù hợp; sự điều chỉnh chính sách của
tất cả các nước đối với Mỹ - siêu cường duy nhất còn lại; sự khủng hoảng
kinh tế trong nước; sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế Trung Quốc và các
nước ASEAN khiến cho Ấn Độ phải thúc đẩy quan hệ với Đông Á; sự nhìn
nhận của chính Ấn Độ như một phần thuộc về châu Á; cạnh tranh về vị thế
8
quốc gia với Trung Quốc; nhu cầu tham gia vào cấu trúc kinh tế và an ninh
đang nổi lên của khu vực chẳng hạn APEC thông qua việc gắn kết với
ASEAN [193, tr. 44-45]; (2) các nội dung cơ bản của Chính sách hướng
Đông như phạm vi, mục tiêu và các giai đoạn phát triển của chính sách. Về
phạm vi, tác giả cho rằng chính sách chỉ hướng đến Đông Nam Á. Mục tiêu
của Chính sách hướng Đông được Shubhashree Sen gắn liền với nhân tố
Trung Quốc. Luận văn đã chỉ ra 3 mục tiêu cơ bản ngầm hiểu đằng sau Chính
sách hướng Đông là: thứ nhất, ngăn chặn Trung Quốc sử dụng Đông Nam Á
thông qua mối liên kết với các quốc gia như Myanmar, sự gia tăng hoạt động
ở biển Đông và Ấn Độ Dương nhằm thách thức vai trò của Ấn Độ ở sân sau
Nam Á; thứ hai, hạn chế ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực nhằm
tránh việc Ấn Độ mất vai trò đối với các nước ở khu vực; thứ ba, duy trì sự
hiện diện về kinh tế và chính trị trong khu vực nhằm bảo vệ các lợi ích nhiều
mặt của Ấn Độ trong việc cạnh tranh trực tiếp với Trung Quốc. Theo tác giả,
Chính sách hướng Đông có hai giai đoạn phát triển riêng biệt: “Trong khi giai
đoạn 1 vạch ra sự hợp tác lớn hơn với các nền kinh tế năng động của ASEAN,
thì giai đoạn 2 có sự đẩy mạnh đáng kể thương mại và quan hệ kinh tế với các
nước Đông Nam Á” [193, tr. 47].
Tiêu biểu cho những công trình nghiên cứu của các học giả người Pháp
là ấn phẩm “Eastward Bound: India‘s New Positioning in Asia” (2006)
(Phương Đông: Sự xác lập vị thế mới của Ấn Độ ở châu Á) của học giả
Isabelle Saint-Mezard. Trong quyển sách này, Isabelle Saint-Mezard phân
tích một cách toàn diện, xâu chuỗi các đặc trưng và tiến triển của Chính sách
hướng Đông của Ấn Độ trong hơn một thập k rưỡi trước đó. Phân tích của
bà tập trung vào khía cạnh kinh tế – chính trị của chính sách, đồng thời cũng
thừa nhận tính chất nhiều mặt của chính sách này như các khía cạnh liên quan
đến an ninh, văn hoá hay tư tưởng. Quyển sách cũng đề cập đến phản ứng của
9
các quốc gia và tổ chức khu vực ở Đông Á đối với sự triển khai chính sách
của Ấn Độ ở khu vực này. Tác giả nhận định rằng Chính sách hướng Đông
đem lại sự gắn kết về chiến lược, thể chế, kinh tế và chính trị của Ấn Độ với
Đông Á cũng như ảnh hưởng ở châu Á nói chung. Cuối quyển sách, tác giả
khẳng định rằng Chính sách hướng Đông là một trong những chính sách đối
ngoại mới của Ấn Độ sau Chiến tranh lạnh [189].
―ASEAN trong Chính sách hướng Đông của Ấn Độ‖ là tên luận án tiến
sĩ của Võ Xuân Vinh bảo vệ vào năm 2011 tại Học viện Khoa học xã hội –
Viện Khoa học xã hội Việt Nam [34]. Đây có thể coi là công trình nghiên cứu
về Chính sách hướng Đông với tư cách là một chính sách đối ngoại tương đối
hoàn chỉnh nhất ở Việt Nam cho đến nay. Về mục tiêu của chính sách, Luận
án đã chỉ ra hai nhóm mục tiêu chính: (1) Nhóm các mục tiêu chính trị - chiến
lược (Ấn Độ hướng tới xây dựng, mở rộng và cạnh tranh ảnh hưởng ở khu
vực châu Á – Thái Bình Dương, phần nào giúp kiềm chế ảnh hưởng của
Trung Quốc ở Nam Á và Ấn Độ Dương); (2) Nhóm các mục tiêu kinh tế - xã
hội (Thứ nhất, Chính sách hướng Đông hướng tới việc duy trì mức tăng
trưởng cao và ổn định của nền kinh tế Ấn Độ thông qua các mối quan hệ kinh
tế chặt chẽ với Đông Á, đặc biệt là trao đổi thương mại. Thứ hai, hội nhập
kinh tế với khu vực Đông Nam Á nói riêng và châu Á – Thái Bình Dương nói
chung là một mục tiêu quan trọng của Chính sách hướng Đông. Thứ ba, thúc
đẩy sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội ở tám bang vùng Đông Bắc của Ấn
Độ). Tác giả nhấn mạnh rằng mục tiêu chung nhất của chính sách này là biến
Ấn Độ trở thành một cường quốc kinh tế và quân sự không chỉ ở khu vực
châu Á mà còn trên phạm vi toàn thế giới. Về thời điểm ra đời của Chính
sách hướng Đông, tác giả ủng hộ quan điểm là năm 1992. Về phân chia giai
đoạn phát triển và phạm vi của Chính sách hướng Đông, tác giả cho rằng:
giai đoạn 1 (1992-2002), chính sách tập trung vào việc tăng cường quan hệ
10
- Xem thêm -