Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ vật chất với ý thức và vận dụng vào ...

Tài liệu Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ vật chất với ý thức và vận dụng vào công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay

.DOC
10
503
116

Mô tả:

Phạm Thị Thuỳ Linh – Anh 8 - Khối 2 TC - K48 Tiểu luận môn Triết học Đề tài 1: Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ vật chất với ý thức và vận dụng vào công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay. LỜI MỞ ĐẦU Thế giới quan xung quanh ta dù phong phú, đa dạng đến đâu, dù trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử xã hội như thế nào cũng đều quy về hai dạng tồn tại là: vật chất và ý thức. Theo quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức, nhưng đồng thời ý thức cũng tác động trở lại vật chất. Trên thực tế có rất nhiếu quốc gia trong đó có Việt Nam đã tìm ra con đường đi cho mình từ lý luận trên. Chính sự nhận thức đúng đắn về mối liên hệ giữa vật chất và ý thức mà Đảng và nhà nước ta đã có hướng đi đúng đắn cho đất nước, cho dân tộc. Bài tiểu luận với đề tài “Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ vật chất với ý thức và vận dụng vào công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay” sẽ phân tích và làm rõ những lý luận chung nhất về vật chất - ý thức, mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức và sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo những lý luận trên vào thực tiễn công cuộc đổi mới ở Việt Nam. I- Lý luận chung về vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức : 1. Vật chất 1.1 Định nghĩa vật chất :  Định nghĩa : Trong tác phẩm “ Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán’’, V.I.Lênin đã định nghĩa: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.  Trong định nghĩa trên, ta cần lưu ý : Lênin chỉ rõ :vật chất là một phạm trù triết học. Như vậy phạm trù vật chất của Triết học là một phạm trù có tính khái quát nhất, không giống với khái niệm vật chất trong một số ngành khoa học cụ thể, hay trong đời sống thường ngày. Vì vậy, không được đồng nhất vật chất với tư cách là một phạm trù triết học với các dạng tồn tại cụ thể của nó mà các khoa học chuyên ngành nghiên cứu. -1- Phạm Thị Thuỳ Linh – Anh 8 - Khối 2 TC - K48 Vật chất có thuộc tính cơ bản nhất, quan trọng nhất là thực tại khách quan và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác . Thuộc tính tồn tại khách quan không lệ thuộc vào ý thức của con người là điều kiện cần và đủ để phân biệt cái gì thuộc về vật chất và cái gí không thuộc về vật chất. Thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh . Điều này nói lên rằng, thực tại khách quan (vật chất) là có trước, cảm giác của con người là có sau. Cảm giác của con người có thể chép lại, chụp lại, phản ánh được thực tại khách quan (vật chất). Như vậy thực tại khách quan (vật chất) không tồn tại trừu tượng mà tồn tại thông qua các dạng tồn tại cụ thể của mình và bằng cảm giác ( ý thức ) con người có thể nhận thức được. Như vậy, rõ ràng là định nghĩa của V.I.Lênin đã giải quyết được cả hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường suy vật biện chứng. 1.2 Các hình thức tồn tại của vật chất : 1.2.1 Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật chất :  Định nghĩa về vận động : Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật, vận động là một phạm trù triết học chỉ mọi sự biến đổi nói chung, từ sự thay đổi vị trí đơn giản đến tư duy. Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất và là phương thức tồn tại của vật chất.  Vận động là phương thức tồn tại của vật chất : Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, nghĩa là không có vật chất nào không vận động , cũng như không có vận động ngoài vật chất. Vật chất tồn tại bằng cách vận động, nghĩa là thông qua vận động, vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình. Vận động của vật chất là sự tự vận động . Bởi lẽ nguồn gốc của sự vận động này nằm ngay trong chính bản chất cấu trúc nội tại của vật chất. Vận động của vật chất không bao giờ mất đi, chỉ chuyển hóa từ hình thức vận động này sang hình thức vận động khác.  Các hình thức vận động cơ bản của vật chất : Ph.Ăngghen dựa vào thành tựu khoa học đương thời đã chia vận động thành 5 hình thức vận động cơ bản sau : Vận động cơ học Vận động vật lý Vận động hóa học Vận động sinh học Vận động xã hội. -2- Phạm Thị Thuỳ Linh – Anh 8 - Khối 2 TC - K48 Các hình thức vận động tương ứng với trình độ nhất định của tổ chức vật chất. Giữa các hình thức vận động có mối liên hệ phát sinh, nghĩa là hình thức vận động cao nảy sinh trên cơ sở hình thức vận động thấp. Tuy nhiên, hình thức vận động cao có sự khác biệt về chất và không thể quy đổi về hình thức vận động thấp.  Vận động và đứng im : Theo Triết học Mác – Lênin, đứng im là biểu hiện của một trạng thái vận động , đó là sự vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Đứng im là tương đối, vận động là tuyệt đối vì : vật chất chỉ đứng im trong một quan hệ nhất định, một hệ quy chiều nhất định ; đứng im chỉ xảy ra trong một hình thức vận động và chỉ xảy ra trong một khoảng thời gian xác định, ngay trong thời gian đó cũng nảy sinh những nhân tố dẫn đến phá vỡ sự đứng im đó. 1.3 Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất :  Định nghĩa về không gian và thời gian : Nếu như chủ nghĩa duy tâm phủ định tính khách quan của không gian và thời gian, các nhà siêu hình coi không gian và thời gian tồn tại độc lập không phụ thuộc vật chất thì theo Triết học duy vật biện chứng : Không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính, biểu hiện sự cùng tồn tại và tách biệt của các sự vật, biểu hiện trật tự phân bố của các sự vật. Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các quá trình. Nó biểu hiện trình tự xuất hiện, phát triển và mất đi của sự vật.  Những tính chất của không gian và thời gian : Tính khách quan, nghĩa là không gian và thời gian tồn tại độc lập không phục thuộc vào ý thức con người. Không gian và thời gian bao giờ cũng là không gian và thời gian của vật chất. Không có không gian và thời gian ngoài vật chất. Tính vĩnh cửu và vô tận : vì vật chất luôn tồn tại, vận động, vĩnh viễn nên không gian và thời gian cũng vĩnh cửu và vô tận. Nghĩa là tính vô tận của vật chất quy định tính vô cùng, vô tận của không gian và thời gian. Tính ba chiều của không gian và một chiều của thời gian : không gian có 3 chiều : rộng – dài – cao . Thời gian chỉ có một chiều : Quá khứ - hiện tại – tương lai. Lưu ý rằng, sự vật bao giờ cũng có sự thống nhất giữa không gian và thời gian. Bởi vậy nên, khi xem xét sự vật hiện tượng, phải xem xét chung trong không gian và thời gian xác định. Xem xét sự vật hiện tượng phải tính đến quá khứ - hiện tại – tương lai phát triển của chúng. 2. Ý thức : 2.1 Nguồn gốc của ý thức : Theo triết học duy vật biện chứng, ý thức của con người có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội : -3- Phạm Thị Thuỳ Linh – Anh 8 - Khối 2 TC - K48  Nguồn gốc tự nhiên : Triết học duy vật biện chứng chỉ ra rằng, phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Đó là năng lực giữ lại, tái hiện lại của một hệ thống vật chất này những đặc điểm của một hệ thống vật chất khác khi hai hệ thống vật chất đó tác động lẫn nhau. Cùng với sự phát triển của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của nó cũng phát triển từ thấp lên cao (phản ánh vật lý, phản ánh sinh vật với các hình thức kích thích, cảm ứng, phản ánh tâm lý động vật, phản ánh ý thức của con người). Như vậy, ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người. Nói tóm lại, não người và sự phản ánh thế giới khách quan vào não người chính là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.  Nguồn gốc xã hội : Triết học duy vật biện chứng chỉ ra rằng chính lao động và ngôn ngữ là hai nguồn gốc xã hội quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của ý thức. Chính lao động đã đóng vai trò quyết định trong việc chuyển biến từ vượn thành người, làm cho con người khác với tất cả các động vật khác. Lao động giúp con người cải tạo thế giới và hoàn thiện chính mình. Thông qua lao động, não người ngày càng hoàn thiện, phát triển giúp tư duy trừu tượng phát triển. Hơn nữa, chính lao động là cơ sở hình thành, phát triển của ngôn ngữ. Sự ra đời của ngôn ngữ lại giúp con người phản ánh sự vật khái quát hơn. Điều này càng thúc đấy tư duy trừu tượng phát triển. Đây là hai yếu tố quan trọng để phát triển ý thức. Như vậy, lao động và ngôn ngữ là hai sự kích thích chủ yếu để biến bộ não vượn thành não người, phản ánh tâm lý động vật thành phản ánh ý thức. 2.2 Bản chất của ý thức : Triết học duy vật biện chứng cho bản chất của ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vaò bộ não người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Cho nên, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, ý thức là hình ảnh chứ không phải là bản thân sự vật ; ý thức là hình ảnh của bản thân sự vật được thực hiện trong bộ não con người. Ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào bộ não người, nghĩa là phản ánh ý thức, không phải bản copy. Phản ánh ý thức là tích cực, chủ động. Nghĩa là con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn, chủ động tác động vào sự vật, hiện tượng làm cho chúng bộc lộ thuộc tính, tính chất của mình, qua đó con người có hiểu biết về sự vật, hiện tượng. Hơn nữa con người còn biết vận dụng tri thức để nhận thức và cái tạo thế giới khách quan. Phản ánh ý thức luôn mang bản chất xã hội. Bởi lẽ, ý thức luôn là sản phẩm của sự phát triển của xã hội, dựa trên hoạt động thực tiễn xã hội, các quan hệ xã hội. Con người tách rời khỏi xã hội sẽ không thể có ý thức. 2.3 Kết cấu của ý thức : -4- Phạm Thị Thuỳ Linh – Anh 8 - Khối 2 TC - K48 Ý thức có kết cấu phức tạp bao gồm nhiều thành tố có quan hệ tác động, gắn bó chặt chẽ với nhau. Đó là : tri thức, tình cảm, ý chí...Trong đó tri thức là quan trọng nhất. Tri thức cũng có nhiều cấp độ khác nhau như tri thức kinh nghiệm, tri thức lý luận...Tình cảm là hình thái đặc biệt của phản ánh ý thức. Nó phản ánh trạng thái quan hệ giữa con người với con người ; giữa con người với thế giới khách quan.Tình cảm và tri thức có tác động quan hệ qua lại lẫn nhau. Tiềm thức là tri thức có được do phản ánh, thu nhận, tích luỹ và trở thành bản năng, kĩ năng hết sức tiềm tàng. Tự ý thức là sự nhận thức của con người về bản thân mình. (Con người ở đây có thể là một cá nhân ; một tập đoàn người ; một dân tộc...). 3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức :  Vật chất có vai trò quyết định đối với ý thức : Theo triết học duy vật biện chứng, vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Não người là dạng vật chất cao có tổ chức của thế giới vật chất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách quan. Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào não người, là hình ảnh của thể giới khách quan. Thế giới khách quan là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung của ý thức.  Ý thức có tính độc lập tương đối so với vật chất, tác động trở lại vật chất : Ý thức có tính năng động, sáng tạo nên thông qua hoạt động thực tiễn của con người có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm ở một mức độ nhất định những điều kiện vật chất, góp phần cái biến thể giới khách quan. Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan thì có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con người trong cải tạo thế giới. Ngược lại, ý thức sẽ kìm hãm hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người nếu không phản ánh đúng thế giới khách quan. Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất, thông qua hoạt động thực tiễn của con người dù đến mức độ nào chăng nữa vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh thế giới vật chất và các điều kiện vật chất liên quan.  Việc nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức có ý nghĩa to lớn và thiếu thực khi áp dụng vào nhận thức và hoạt động thực tiễn. Trong hoạt động nhân thức và hoạt động thực tiễn cần phải luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật khách quan. Nghĩa là phải có quan điểm khách quan trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Ý thức có tính độc lập tương đối, có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy, phải thấy được vai trò tích cực của nhân tố ý thức trong việc sử dụng có hiệu quả nhất các điều kiện vật chất hiện có. Cần tránh việc tuyệt đối hoá vai trò duy nhất của vật chất trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nghĩa là cần chống lại chủ nghĩa khách quan, thái độ thụ động, trông chờ, ỷ lại vào điều kiện vật chất. Mặt khác, cần chống -5- Phạm Thị Thuỳ Linh – Anh 8 - Khối 2 TC - K48 lại bệnh chủ quan, duy ý chí, tuyệt đối hoá vai trò của ý thức, tinh thần, hạ thấp đánh giá không đúng vai trò của các điều kiện vật chất trong hoạt động thực tiễn. Trước năm 1986, đất nước ta đã gặp rất nhiều khó khăn trì trệ, một hệ thống quản lí yếu kém cũng là do một phần không nhận thức đúng là đầy đủ về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vấn đề này đã được nhận thức đúng sau đổi mới ở đại hội VI, và quả nhiên đã giành rất nhiều thắng lợi sau khi đã chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong phần tiếp theo của bài tiểu luận này, chúng ta sẽ cùng vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo quan điểm của phép duy vật biện chứng vào công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện tại. II. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay : 1. Công cuộc đổi mới của đất nước phải nhận thấy nguyên lý vật chất quyết định ý thức là phải xuất phát từ những điều kiện khách quan và giải quyết những nhiệm vụ thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng sự thật : Như chúng ta đã biết, sau ngày 30/4/1975, nhà nước ta phát triển XHCN và xem Liên Xô như là một "hình mẫu" và rập khuôn 1 cách giáo đều theo mô hình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô trong những hoàn cảnh và điều kiện đất nước khác biệt so với Liên xô như : Tập thể hóa công – nông nghiệp nhà nước nắm độc quyền về kinh tế dẫn đến việc hình thành cơ chế quan liêu bao cấp về kinh tế, ( việc bao cấp nền kinh tế cũng là từ Liên Xô). Thế nhưng, đến năm 1986, ta nhận thấy rằng đối với Việt Nam, ta không có được bước đà vững chắc và cao lớn như của Liên Xô nên đến năm 1986, Liên Xô không còn là hình mẫu của việc xây dựng XHCN ở Việt Nam nữa. Việc đổi mới cải cách năm 1986 là một bước đi tất yếu của lịch sử, trên cơ sở những điều kiện khách quan phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá, x ã hội của đất nước, từ Đại hội VI đến nay, chúng ta đã đạt được một số thành tựu nhất định trong đổi mới tư duy lý luận. Cụ thể là: trong nhận thức về CNXH có nhiều điểm sáng tỏ hơn, thấy được nhiều cái sai trong nhận thức cũ về CNXH. Bước đầu hình thành các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Tư duy kinh tế có sự đổi mới quan trọng. Triết học đã đóng góp nhất định vào kết quả chung trên đây của đổi mới tư duy lý luận. Có thể nói, triết học đã tạo cơ sở lý luận và phương pháp luận cho quá trình đổi mới tư duy lý luận, tư duy triết học, là hạt nhân lý luận cho sự hình thành tư duy mới về Chủ nghĩa xã hội, nhất là tư duy kinh tế và tư duy chính trị. Trong thời gian qua, các nhà triết học đã đi sâu phân tích bản chất và nguyên nhân của bệnh chủ quan duy ý chí ở nước ta và ở nhiều nước XHCN trước đây, làm sáng tỏ cơ sở triết học của bài học mà Đại hội VI đã rút ra là "Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan". Vấn đề biện chứng của thời kỳ quá độ cũng đã được quan tâm nghiên cứu, nhất là mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu của xã hội ta, qua đó góp phần làm sáng tỏ lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH của nước ta, đóng góp vào xây dựng cương lĩnh mới của Đảng. -6- Phạm Thị Thuỳ Linh – Anh 8 - Khối 2 TC - K48 Trước sự phát triển mới của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới và những thay đổi hiện nay của thời đại, giới triết học đã chú ý nghiên cứu bản chất và hiệu quả xã hội có tính toàn cầu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, biện chứng của thời đại, từ đó rút ra những vấn đề có ý nghĩa thực tiễn cho quá trình đổi mới xã hội ta. Đồng thời khi phê phán những sai lầm của bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm trong cán bộ ta thì những nguyên tắc phương pháp luận của tư duy mới - tư duy biện chứng duy vật, vai trò của lý luận nhất là lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và đổi mới công tác lý luận cũng được chú ý trong nghiên cứu và giảng dạy triết học. Để phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp đổi mới xã hội ta như giải quyết vấn đề sở hữu, quan hệ giữa các thành phần kinh tế, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị… giới triết học vừa qua cũng đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề như phép biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa kinh tế và chính trị, giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, vấn đề dân chủ hóa. Vấn đề con người cũng đã thu hút sự nghiên cứu của các nhà triết học và gắn liền với nó là những động lực hoạt động của con người như nhu cầu, lợi ích… Để thực hiện những nghiên cứu trên đây, việc nghiên cứu và giảng dạy triết học từ Đại hội VI đến nay đã có những đổi mới nhất định. Hoạt động nghiên cứu ít khuôn sáo hơn, cởi mở hơn, mạnh dạn hơn, tính chất minh họa, xuôi chiều tô hồng đã giảm bớt, có thay đổi đáng kể trong việc đánh giá các trào lưu triết học ngoài mácxít, đã chú ý hơn đến quan điểm cá nhân và gắn hơn với thực tiễn của CNXH trong nghiên cứu.Những thay đổi trên đây đã được phản ánh trên các Tạp chí, sách báo. Công tác giảng dạy triết học có chuyển biến theo hướng đổi mới nội dung và phương pháp dạy và học, khắc phục một bước – sự lạc hậu trên lĩnh vực này. Trước hết, đã đổi mới bước đầu chương trình và sách giáo khoa triết học theo hướng tăng thêm nhiều kiến thức lịch sử triết học, thống nhất chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, giảm bớt việc trích kinh điển, trích nghị quyết giảm bớt việc minh họa các quan điểm chính trị của Đảng chú ý gắn chặt hơn với thực tiễn của CNXH, với thời đại, chú ý khai thác nhiều hơn ý nghĩa phương pháp luận của các quy luật, phạm trù của triết học Mác-Lênin… Đã tổ chức nhiều cuộc tập huấn về chương trình triết học mới cho giảng viên triết học trong hệ thống các trường đại học và các trường Đảng. Về phương pháp giảng dạy, đã giảm bớt tính chất áp đặt, một chiều trong trình bày, tăng thêm tính gợi mở, khả năng suy nghĩ độc lập sáng tạo cho người học. Có thể nói rằng trong hơn 5 năm đổi mới, triết học đã phát huy vai trò của nó bằng hàng chục năm trước đây. 2. Để thực hiện công cuộc đổi mới cần phải hiểu sâu sắc vai trò của ý thức tác động trở lại vật chất, nghĩa là khắc phục thái độ tiêu cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hoàn cảnh hoặc chủ quan, duy ý chí do tách rời từng vai trò của từng yếu tố vật chất hoặc ý thức. Nhìn lại nền kinh tế và xã hội Việt Nam trong nền kinh tế quan liêu bao cấp những năm trước Đổi mới, ta có thể dễ dàng bắt gặp những ví dụ thể hiện rõ thái độ tiêu cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hoàn cảnh, gây nên những hậu quả hết sức to lớn ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế và xã hội như: Ngày đó vác cuốc ra đồng, giơ cuốc lên mà nghe tiếng kẻng thì cầm về luôn, ko thèm cuốc xuống đất nữa vì cuốc hay ko cuốc thì vẫn đc hưởng phần lương giống nhau, làm hay không làm cũng đc hưởng như nhau, dẫn đến vận động bị trì trệ, vật chất không được sản xuất và ý thức -7- Phạm Thị Thuỳ Linh – Anh 8 - Khối 2 TC - K48 không được nâng cao hay như hợp tác xã giao cho 2 nhà mỗi nhà một con trâu chẳng hạn, nhưng có nhà có hôm lại không đi chăn trâu mặc kệ trâu gầy trâu béo mặc kệ , vì những con trâu này không phải của nhà mình.Vì chăn hay không chăn vẫn được hưởng phần lương giống nhau , làm hay không lam vẫn được hưởng phần như nhau, dẫn đến vận động bị trì trệ, vật chất không được sản xuất và ý thức không được nâng cao. Những ví dụ thực tế trên cho thấy, việc nâng cao nhận thức mà ý thức của con người là hết sức quan trọng, ảnh hưởng sống còn đối với sự phát triển của nền kinh tế nói riêng và xã hội nói chung. Và đây cũng chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng cần đạt được của Việt Nam trong quá trình đổi mới đất nước. Đổi mới tư duy, phát triển nhận thức được sự thay đổi của tình hình và yêu cầu gay gắt phải tạo một bước ngoặt trong tiến trình phát triển đất nước, Đại hội Đảng lần thứ VI tuyên bố tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện và triệt để. Chương trình phát triển đất nước được thông qua tại Đại hội này có nội dung đặc biệt quan trọng là chuyển nền kinh tê quan liêu bao cấp sang nền kinh tế cơ chế thị trường - mở cửa theo định hướng XHCN. Để thực hiện được bước chuyển ấy, khâu đầu tiên có ý nghĩa quyết định là phải đổi mới tư duy phát triển. Quá trình đổi mới tư duy phát triển trên thực tế là quá trình đấu tranh về mặt lý luận và tư tưởng nhằm đạt đến nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Trước hết, với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật ", Đại hội VI đã kiểm điểm và đánh giá theo tinh thần phê phán những sai lầm chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động nóng vội, chủ quan, không tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Đại hội đã rút ra 4 bài học lớn, trong đó 2 bài học đầu tiên là "Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc ", xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động " và "Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan ". Những bài học trên đây là cơ sở quyết định để từ bỏ lối tư duy sáo mòn, kinh viện; tập trung trí tuệ của toàn Đảng vào việc tìm kiếm và lựa chọn một tư duy mới, một chiến lược phát triển mới, có khả năng đáp ứng tốt nhất đòi hỏi của nhân dân. Đại hội Đảng VI trở thành sự kiện đánh dấu bước ngoặt phát triển là nhờ nó quán triệt sâu sắc nguyên tắc: nếu không có sự phê phán và tự phê phán nghiêm túc, sẽ không thể có bất kỳ một sự đổi mới nào, kể cả đổi mới tư duy. Nội dung cốt lõi của tư duy đổi mới là bước chuyển từ quan niệm kinh tế xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp, phải được xây dựng ngay trong thời kỳ quá độ sang khẳng định phải phát triển trong thời kỳ quá độ một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chê thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là nền kinh tê thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về thực chất, đây là sự đổi mới tư duy phát triển. Sự đổi mới tư duy phát triển ấy hướng tới sự đổi mới triệt để và toàn diện phương thức phát triển nhưng không đổi hướng phát triển: mục tiêu của phát triển vẫn là đạt tới chủ nghĩa xã hội. Nhưng phương thức phát triển thì có những đổi mới căn bản. Đó là: Bước chuyển từ quan niệm cũ về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ, theo đó, trong nền kinh tế ấy thành phần kinh tê xã hội chủ nghĩa (gồm kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể) với sở hữu công cộng (gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể) giữ vị trí thống trị sang quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần (gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà -8- Phạm Thị Thuỳ Linh – Anh 8 - Khối 2 TC - K48 nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) với nhiều hình thức sở hữu đa dạng, hỗn hợp, đan xen lẫn nhau. Bước chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩ, trong đó từ chỗ tuyệt đối hoá vai trò của kế hoạch, kỳ thị trường sang chỗ thừa nhận thị trường, khẳng định phải kết hợp kế hoạch với thị trường, trong đó kế hoạch định hướng thị trường, còn thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch, có vai trò điều tiết cung cầu, giá cả, điều tiết sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Sự đổi mới tư duy phát triển còn thể hiện: "phải biên kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới". Thực chất của sự đổi mới này là thay thế quan niệm phát triển "khép kín" trong thế đối đầu bằng quan niệm phát triển dựa vào mở cửa, mở rộng hợp tác quốc tế theo phương châm kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, đẩy mạnh hợp tác quốc tế và cạnh tranh phát triển dựa trên cơ sở phát huy nội lực. Đảng cộng sản Việt Nam coi đây là cách lựa chọn tốt nhất để Việt Nam chủ động hội nhập vào quá trình hợp tác kinh tế quốc tế, tận dụng các cơ hội phát triển to lớn mà thời đại đang dành cho các nước đi sau. Việc kịp thời chuyển hướng nhận thức trong đường lối đối ngoại như vậy thể hiện rõ quan niệm mới về độc lập dân tộc, phù hợp với các điều kiện quốc tế đã thay đổi sâu sắc. Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ thành cơ chế chung trong quản lý toàn xã hội. Sự đổi mới tư duy phát triển còn thể hiện ở khẳng định phải "phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động, coi nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đối với sự phát triển của đất nước là yếu tố cơ bản (của sự phát triển nhanh và bền vững), từ đó yêu cầu phải "khắc phục thái độ coi nhẹ chính sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội" như đã từng xảy ra trong thời kỳ trước đổi mới. Sự đổi mới tư duy lý luận trên đây của Việt Nam, một mặt, đặt nền tảng lý luận cần thiết cho quá trình đổi mới thực tiễn; mặt khác, là sản phẩm của chính quá trình này. Bên cạnh đó, trong thời đại hiện nay, khi Việt Nam đang mở cửa hội nhập cùng thế giới trong tất cả các lĩnh vực: kinh tế, văn hoá, giáo dục…việc chú trọng đào tạo và rèn luyện thế hệ trẻ của Việt Nam về “ý thức”, lập trường, tư tưởng là hết sức quan trọng. Điều này đòi hỏi một sự đầu tư thích đáng cho giáo dục và đào tạo. Bên cạnh việc đào tạo về tri thức, lối sống, khả năng hội nhập cùng nhịp phát triển của thế giới còn cần phải có sự giáo dục về văn hoá, tư tưởng giữ gìn bản sắc dân tộc. Đào tạo nhân tố “con người” có thể được xem như chìa khoá nòng cốt cho bước nhảy vọt của cả một nền kinh tế, một xã hội, một đất nước trong tương lai. Đó cũng chính là minh chứng cho sự tác động tích cực của ý thức đối với vật chất. -9- Phạm Thị Thuỳ Linh – Anh 8 - Khối 2 TC - K48 KẾT LUẬN Công cuộc đổi mới là một sự nghiệp rất khó khăn ,phức tạp, nó như cuộc kháng chiến trường kì của Đảng và nhà nước.Với những biến động trước tình hình kinh tế của nhiều nước trên thế giới đòi hỏi Đảng và nhà nước phải kiên trì ,giữ vững lòng tin, quyết tâm khắc phục khó khăn ,đồng thời phải tỉnh táo, nhạy bén thích ứng kịp thời với thực tế biến đổi từng ngày từng giờ. Ta hoàn toàn có thể khẳng định, công cuộc đổi mới ở Việt Nam ngày càng đúng đắn ,chính vì Đảng ngày càng nắm vững và vận dụng đúng đắn phương pháp luận triết học của chủ nghiã Mác-Lênin như mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị…Hơn thế nữa, lòng tin của nhân dân vào bộ máy lãnh đạo của Đảng và nhà nước ngày càng tăng cao. Ngoài ra còn tăng truởng về tổng sản phẩm quốc dân ,về tốc độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài, về xuất khẩu … Bên cạnh những thành công đáng kể đã đạt được, trong giai đoạn sắp tới, Đảng và nhà nước cần vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo những lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn để hoàn thành xuất sắc công cuộc đổi mới, đưa đất nước Việt Nam hội nhập cùng Thế giới. - 10 -
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan