Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan điểm đạo đức của khổng tử và bài học lịch sử của nó đối với việc rèn luyện ...

Tài liệu Quan điểm đạo đức của khổng tử và bài học lịch sử của nó đối với việc rèn luyện đạo đức sinh viên đại học quốc gia tp. hồ chí minh hiện nay

.PDF
42
5
117

Mô tả:

ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH BAN CHẤP HÀNH TP. HỒ CHÍ MINH ---------------------------- CÔNG TRÌNH DỰ THI GIẢI THƯỞNG “KHOA HỌC SINH VIÊN - EURÉKA” LẦN 9 NĂM 2007 TÊN CÔNG TRÌNH: QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC XÃ HỘI Mã số công trình: ............................................... ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN CÔNG TRÌNH DỰ THI GIẢI THƯỞNG “KHOA HỌC SINH VIÊN - EURÉKA” LẦN 9 NĂM 2007 TÊN CÔNG TRÌNH: QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC XÃ HỘI Người hướng dẫn : PGS.TS. Trịnh Doãn Chính Nhóm Thực hiện : Pham Thị Dinh (CN) Đinh Thị Thúy Hạnh Đinh Thị Thu Hường Trịnh Thị Nhung Đỗ Thị Thanh Hương Thành phố Hồ Chí Minh năm 2007 MỤC LỤC Trang TÓM TẮT CÔNG TRÌNH ....................................................................................4 PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................... 5 ....................................................................................................................... Chương 1. QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ .................................9 1.1. Cơ sở xã hội và tiền đề hình thành quan điểm đạo đức của Khổng Tử .9 1.1.1. Thân thế, sự nghiệp của Khổng Tử...................................................9 1.1.2. Tiền đề hình thành quan điểm đạo đức của Khổng Tử....................12 1.2. Nội dung quan điểm đạo đức của Khổng Tử.........................................14 1.2.1. Đạo đức xã hội..............................................................................15 1.2.2. Đạo đức cá nhân ...........................................................................18 Chương 2. GIÁ TRỊ VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ TỪ QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ ĐỐI VỚI VIỆC RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY ......................29 2.1. Đánh giá quan điểm đạo đức của Khổng Tử .........................................29 2.1.1. Về đạo đức xã hội .........................................................................29 2.1.2. Về đạo đức cá nhân.......................................................................30 2.2. Bài học lịch sử từ quan điểm đạo đức của Khổng Tử đối với việc rèn luyện đạo đức sinh viên Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay ...........................................................................................................33 2.2.1. Khái niệm sinh viên và vị trí của sinh viên trong đời sống xã hội ...33 2.2.2. Ý nghĩa của quan điểm đạo đức của Khổng Tử đối với việc rèn luyện đạo đức sinh viên Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay ........................................................................ 35 KẾT LUẬN................................................................................................ 41 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 42 4 TÓM TẮT CÔNG TRÌNH Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo công trình gồm có những nội dung chính sau: - Công trình trình bày khái quát cơ sở xã hội và tiền đề hình thành quan điểm đạo đức của Khổng Tử. - Công trình phân tích quan điểm đạo đức của Khổng Tử qua: đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân với các khái niệm và phạm trù đạo đức Nho học như: chính danh, nhân, trí, dũng… - Công trình đánh giá quan điểm đạo đức của Khổng Tử. Từ đó nêu lên ý nghĩa của những tư tưởng tiến bộ trong quan điểm đạo đức của Khổng Tử đối với việc rèn luyện đạo đức sinh viên Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. 5 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Người xưa có nói: Có học mà không có đức là người ác Có đức mà thiếu học là người quê. Lời nói trên cho chúng ta thấy tác dụng của đạo đức trong sự học và đời sống của con người thật không nhỏ. Giữa cuộc sống của xã hội đầy phức tạp, việc trau dồi đạo đức là một công việc khó khăn và tế nhị vô cùng. Chúng ta không thể trau dồi đức tính toàn vẹn mà không có đạo đức. Chính đạo đức làm thành mối quan yếu cho đời sống tinh thần của chúng ta. Phải thẳng thắn nhìn nhận rằng trong hoàn cảnh xã hội đời sống con người có nhiều phức tạp. Những giá trị, những yếu tố đạo đức tích cực ngàn xưa phần nào đã bị xói mòn vì thế việc huấn luyện và rèn người trở nên vô cùng cấp thiết cho đời sống hiện nay. Chúng ta có thể thiếu thốn tiền của nhưng là con người chúng ta không thể thiếu thốn đạo đức. Sống trong trường đời chúng ta phải chấp nhận hai mặt của đời sống vật chất và tinh thần. Về tư tưởng chúng ta phải có những đức tính cần thiết của đạo đức để làm sức mạnh vạn năng tạo cho mình một thế đứng, một vai trò cấp thiết trong lịch sử. Để vũ trang tư tưởng và luân lý, thiết tưởng không có gì hữu ích hơn là tự trau dồi lấy đạo đức cho bản thân. Muốn chiến thắng trên đường đời điều kiện tiên quyết và cũng là điều kiện cuối cùng là chúng ta phải có tư tưởng đạo đức trọn vẹn, ý nghĩa của cuộc đời có toàn vẹn hay không chính là ở đó. Tư tưởng “toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ” cũng phát sinh từ đó mà ra. Chúng ta đã từng thấy biết bao người công danh lừng lẫy, sự nghiệp oai hùng nhưng vẫn không tạo được sự kính phục chân thành của mọi người trong xã hội. Tại sao? - Chỉ vì những người ấy thiếu đạo đức Ngược lại, cũng có những người khởi đầu sự nghiệp bằng con số không nhưng chẳng bao lâu họ được mọi người khâm phục và kết quả sự nghiệp tinh thần cũng như vật chất đã lưu lại cho người sau lòng kính nể nhiệt thành. Vì sao? -Vì họ có thừa đạo đức. Sinh viên là một lực lượng trí thức của xã hội. Chính vì vậy, bên cạnh việc nâng cao kiến thức, trình độ khoa học thì việc hoàn thiện đạo đức cho đối tượng này là vô cùng quan trọng đối với vận mệnh của đất nước. Sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đã được tiếp cận rất nhiều quan điểm đạo đức của các nhà tư tưởng 6 lớn ví dụ như: Quan điểm đạo đức của Phật giáo, quan điểm đạo đức của Khổng Tử, quan điểm đạo đức của Lão Tử… Trong đó quan điểm đạo đức của Khổng Tử đã được các bạn tiếp thu và học tập rất nhiều. Chính vì vậy, chúng tôi muốn nghiên cứu đề tài này để được biết cụ thể những bài học lịch sử từ quan điểm đạo đức của Khổng Tử đối với việc rèn luyện đạo đức sinh viên Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Về tư tưởng và sự nghiệp của Khổng Tử, đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, trên tất cả các mặt như triết lý, chính trị xã hội, giáo dục, … Tư tưởng đạo đức của Khổng Tử cũng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu vì đây là vấn đề xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống triết học của ông. Trong đó phải kể đến những tác phẩm: Đạo đức cổ nhân của Nguyễn Hữu Trọng, Nxb. Tổng hợp An Giang, 1990; Đại cương triết học Trung Quốc của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê, Nxb. Tp.HCM, 1992; Đại cương triết học phương Đông của Nguyễn Đăng Thục, trung tâm học liệu Bộ giáo dục, Sài Gòn, 1972; Đạo đức học phương Đông cổ đại, của tác giả Vũ Tình, Nxb. Chính trị Quốc gia, 1998; Đại cương triết học Trung Quốc của các tác giả Doãn Chính, Trương Văn Chung, Nguyễn Thế Nghĩa, Vũ Tình, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2004. Đề tài này cũng được nhiều tác giả nghiên cứu riêng qua các bài báo, đăng trên các tạp chí khoa học như: “Nho giáo xưa và nay” của Vũ Khiêu, “Đôi điều về vai trò của Nho giáo” và “Truyền thống Nho học và xây dựng con người trong giai đoạn mới” của Nguyễn Tài Thư, “Nho giáo của chúng ta hôm nay” của Phan Văn Các. Về sinh viên thì kể từ năm 1980 trở lại đây có rất nhiều đề tài nghiên cứu với quy mô và góc độ khác nhau. Năm 1984, Nguyễn Quốc Bảo và nhóm tác giả đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Thái độ và tâm trạng của sinh viên Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh về các vấn đề chính trị - xã hội và giáo dục”. Đề tài nghiên cứu giới hạn trong phạm vi sinh viên trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh và dừng lại ở việc tìm hiểu thái độ và tâm trạng của sinh viên về các vấn đề: chính trị, xã hội, giáo dục. Đề tài không giải quyết phần lí luận và cũng chưa nghiên cứu vấn đề định hướng giá trị đạo đức trong sinh viên. Năm 1994, Thành Đoàn Thanh niên Cộng sản Thành phố Hồ Chí Minh nghiên cứu chuyên đề “Công tác sinh viên trong thời kỳ mới: giải pháp của Đoàn nhìn từ góc độ của Đoàn Thanh niên Thành phố”. Trên cơ sở khảo sát 1.200 sinh viên của 12 trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đề tài đã nêu một số nét cơ bản của sinh viên thành phố về nguồn gốc, thành phần xuất thân, thái độ, tâm trạng ... và đã đề xuất nhiều giải pháp cho công tác giáo dục lý tưởng đạo đức, lối sống cho sinh viên. Năm 1995, Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức Hội nghị khoa học về đề tài “Tìm hiểu định hướng giá trị của sinh viên đại học Tổng hợp hiện 7 nay” công bố 14 báo cáo khoa học của các cán bộ giảng dạy, sinh viên khoa Triết học về định hướng giá trị của sinh viên Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh trên một số lĩnh vực: cuộc sống, nghề nghiệp, giá trị đồng tiền... không giải quyết phần lý luận và cũng không đi vào vấn đề đạo đức. “Tổng thuật một số nghiên cứu tri thức và sinh viên Việt Nam” thuộc kết quả nghiên cứu đề tài cấp nhà nước KX04 - 06 do GS. Phạm Tất Dong làm chủ biên, trong phần “Phân tích đội ngũ trí thức theo giới tính, dân tộc, nơi cư trú” có mục về tình hình sinh viên và có đề cập đến việc giáo dục đạo đức sinh viên. Năm 1995, Viện nghiên cứu và phát triển giáo dục công bố kết quả của đề tài cấp bộ “Nghiên cứu đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên”. Đề tài đã nghiên cứu cơ bản những điều kiện kinh tế - xã hội, đặc điểm tâm sinh lý liên quan tới quá trình hình thành lối sống trong sinh viên và trình bày những biểu hiện của lối sống sinh viên trong một số lĩnh vực như học tập, sinh hoạt văn hóa, hoạt động xã hội... Luận án PTS “Những yếu tố khách quan và chủ quan tác động đến tư tưởng chính trị của sinh viên, thực trạng và giải pháp” của Nguyễn Đình Đức -1995 đã đề xuất những giải pháp để góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên. Các bài báo “Quan điểm của V.I. Lênin về giáo dục thanh niên sinh viên” (Nguyễn thị Mỹ Trang - Nghiên cứu lý luận 9/1998), “Công tác giáo dục đạo đức chính trị cho sinh viên” (Nguyễn Quốc Anh - Tạp chí Cộng sản 2/1997)... cũng đã đề cập đến đời sống tinh thần của sinh viên ở nhiều góc độ khác nhau. Nhìn chung, các sách, các công trình nghiên cứu, các bài báo cáo khoa học nói trên đã đề cập những vấn đề liên quan đến quan điểm đạo đức của Khổng Tử, đạo đức của sinh viên nhưng đề tài nghiên cứu về quan điểm đạo đức của Khổng Tử và bài học lịch sử của nó đối với việc rèn luyện đạo đức sinh viên Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay thì hầu như chưa có. Chính vì vậy nhóm chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài này. Tuy nhiên, những công trình, bài viết trên thực sự là những nguồn tài liệu bổ ích để chúng tôi tiếp thu, kế thừa. 3. Mục đích và nhiệm vụ - Mục đích của công trình là làm rõ quan điểm đạo đức của Khổng Tử. Trên cơ sở đó đánh giá những hạn chế và giá trị tích cực trong quan điểm đạo đức của Khổng Tử và tìm ra những bài học lịch sử của nó đối với việc rèn luyện đạo đức sinh viên Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. - Để đạt được mục đích trên công trình có nhiệm vụ là: Làm rõ quan điểm đạo đức của Khổng Tử. Đánh giá những hạn chế và giá trị tích cực trong quan điểm đạo đức của Khổng Tử Tìm ra những bài học lịch sử từ quan điểm đạo đức của Khổng Tử đối với việc rèn luyện đạo đức sinh viên Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. 8 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này chúng tôi đứng trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng đồng thời kết hợp hài hòa giữa các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê và phương pháp điều tra xã hội học. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Đề tài làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của quan điểm đạo đức của Khổng Tử. - Đề tài tìm ra một số yếu tố đạo đức còn có những ý nghĩa tiến bộ trong quan điểm đạo đức của Khổng Tử để sinh viên Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tiếp thu và học tập để hoàn thiện nhân cách đúng với bản chất của một sinh viên. - Đề tài là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến các vấn đề về quan điểm đạo đức của Khổng Tử và bài học lịch sử của nó đối với việc rèn luyện đạo đức sinh viên. 6. Kết cấu Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm hai chương và bốn tiết. Chương 1: Công trình làm rõ nội dung quan điểm đạo đức của Khổng Tử. Chương 2: Công trình tìm ra những giá trị và bài học lịch sử từ quan điểm đạo đức của Khổng Tử đối với việc rèn luyện đạo đức sinh viên Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. 9 NỘI DUNG Chương 1 QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ 1.1. CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ 1.1.1. Sơ lược về thân thế, sự nghiệp của Khổng Tử Trong lịch sử nhân loại, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục xưa nay, có lẽ chưa có một người nào lại có vị trí độc tôn phi phàm như Đức Khổng Tử (551 479 TCN). Mặc dù ông sống cách chúng ta tới 25 thế kỷ, song lớp hậu thế ngàn năm sau ông, nhất là khoảng thời gian từ thế kỷ thứ VII (mở đầu bằng việc ra đời của triều đại nhà Đường ở Trung Quốc (618 - 907) trở về sau, Khổng Tử đã được các tầng lớp đế vương và Nho gia phương Đông (như Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên…) tôn là “vạn thế sư biểu” (tấm gương sáng về người thầy của muôn đời), địa vị của ông sánh ngang với Đức Thích Ca Mâu Ni của Đạo Phật và Đức Giáo tổ Lý Đam (của Đạo Lão). Ngay cả khi thế chân kiềng của tam giáo Nho - Phật - Lão đã bị lung lay thì Nho giáo vẫn còn khá ổn định và vững chắc cho tới tận cuối thế kỷ XIX. Tương truyền Khổng Tử người làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc ngày nay. Tổ tiên trước kia là người nước Tống, tên là Khổng Phòng Thúc. Phòng Thúc sinh Bá Hạ, Bá Hạ sinh Thúc Lương Ngột. Lương Ngột khi đã quá tuổi1 lấy Nhan Thị, hai người cầu tự ở núi Ni Khâu sinh Khổng Tử. Khổng Tử sinh ở nước Lỗ2 năm thứ 22 đời Lỗ Tương Công. Khi sinh ra trên đầu gồ giữa lõm cho nên đặt tên là Khâu (tức là cái gò), tên tự Trọng Ni, họ Khổng. Khổng Khâu sinh được ba năm thì Thúc Lương Ngột chết, chôn ở núi Phòng Sơn. Núi Phòng Sơn ở phía đông nước Lỗ. Khổng Tử do đó không biết mộ cha ở đâu, vì mẹ của ông kiêng không nói điều đó. Từ khi Thúc Lương Ngột mất, gia đình Khổng Tử sống trong bần hàn, nhưng Nhan Thị vẫn quyết chí nuôi con ăn học. Ngay từ nhỏ, Khổng Tử đã nổi tiếng là người siêng năng học giỏi và thích chơi trò cúng tế. Đến khi mẹ chết, Khổng Tử chôn tạm mẹ ở con đường Ngũ Phụ, vì ông cẩn thận3. Mẹ của Vãn Phụ, người đất Trâu, nói cho Khổng Tử biết nơi mộ của cha, cho nên về sau Khổng Tử hợp táng cả cha và mẹ ở núi Phòng Sơn. Năm 19 tuổi, Khổng Tử lấy vợ sinh một con trai đặt tên là Lý, tự là Bá Ngư. Khổng Tử làm Ủy Lại coi việc cân đong thóc ở kho và làm Tư Chức lại coi việc nuôi bò, để dùng vào việc cúng tế. Năm 22 tuổi, Khổng Tử bắt đầu dạy học, trở 1. Thúc Lương Ngột khi đã quá sáu mươi tư tuổi mới lấy Nhan Thị. Đàn ông quá sáu mươi tư tuổi lấy vợ, đàn bà quá bốn mươi chín tuổi lấy chồng là quá tuổi. 2. Do những biến cố chính trị, gia đình ông bị mất địa vị quí tộc, phải rời sang nước Lỗ trước khi ông ra đời. Chính vì vậy mà ông mới sinh ở nước Lỗ. 3. Phải chôn tạm sau này biết mộ cha sẽ hợp táng, chôn tạm thì dễ dời. 10 thành thầy giáo dậy từ đầu tiên của Trung Quốc, sau đó học nhạc và đạo. Năm 33 tuổi, Khổng Tử đến nước Chu để khảo sát tế lễ ở miếu Đường. Ít lâu sau trở về nước Lỗ dạy học và nghiên cứu sách. Năm 53 tuổi, Khổng Tử được vua Lỗ mời ra làm Trung Đô Tể (quan coi ấp Trung Đô), thời gian này chính sự của Khổng Tử được rất nhiều nơi sử dụng làm pháp độ. Chẳng bao lâu Khổng Tử được phong làm Tư Không, rồi được làm Đại Tư Khấu4, rồi Nhiếp Tướng bộ coi việc hình in, ấn định luật lệ, phép tắc trong nước. Trong bốn năm nhậm chức, Khổng Tử đã thẳng tay trừng trị loạn quan, nịnh quan trong triều đình, đem lại trong nước Lỗ cảnh ban đêm ngủ không phải đóng cửa, ban ngày ra đường không ai nhặt của rơi, luân thường đạo lý được coi trọng, song vua nước Lỗ đam mê tửu sắc, đàn hát ca múa xa hoa, bỏ bê công việc triều đình nên Khổng Tử chán ngán bỏ qua nước Vệ. Không được vua trọng dụng ở Vệ, qua Tần, về Vệ, sang Tống, lại qua Tần, về Vệ. Mười bốn năm ông cùng học trò bôn ba mong gặp người sử dụng học thuyết của mình, song ý nguyện của ông đã không thành, trở về Vệ lần cuối cùng, ở năm sáu năm ông mới thấy thật sự bất lực việc làm chính trị nên trở về nước Lỗ dạy học, san định các sách vở đời trước5. Tiếng tăm của Khổng Tử lan truyền khắp nơi, nên học trò xin theo học rất đông. Sử ký ghi chép ông có đến 3.000 học trò. Trong đó, có nhiều người là nhà tư tưởng, là học giả nổi tiếng. Trương Ấm Lâm cho rằng hoài bão lớn nhất của Khổng Tử là chính trị nhưng thành tựu lớn nhất của ông lại là giáo dục6. Học trò của Khổng Tử thường được gọi là nho sĩ. Nho là những người đương thời chuyên về tế lễ. Người ta cho đất nước có hai việc trọng đại: đó là việc kinh và việc cúng tế. Sĩ trước thời Xuân thu dùng để chỉ quân đội. Quân lính ra trận mỗi xe có 1.000 sĩ. Nhưng về sau sĩ dùng để chỉ về văn chứ không chỉ về võ như trước nữa. Vậy Nho sĩ là tầng lớp trí thức lúc bấy giờ. Học thuyết của Khổng Tử được tầng lớp nho sĩ này truyền bá nên cũng gọi là Nho gia, hay Nho giáo. Bóng cây cổ thụ Nho giáo đã bao trùm đời sống văn hóa Trung Quốc suốt hơn 2.000 năm lịch sử. Con cháu của Khổng Tử đến ngày nay vẫn còn tiếp tục sự nghiệp của ông, khi ông mất trong số những môn đồ của ông có người đã để tang ông đến năm, sáu năm, hàng trăm người làm nhà, lập cứ bên phần mộ ông, tạo thành làng Khổng7 . Khổng Tử san định sách Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc của đời trước để lại, viết sách Xuân Thu để bộc lộ quan điểm của mình. Nhiều quan điểm khác của ông thể hiện qua các cuộc đàm đạo mà nội dung của nó sau này được trình bày trong Luận ngữ, do học trò của ông chép lại. Sau khi Khổng Tử mất và nhất là qua chính sách tàn khốc “phần thư khanh nho” của Tần Thủy Hoàng thì sách của Khổng Tử không còn giữ được bao nhiêu. Khi đạo Nho được phục hưng (đời Hán Vũ Đế, năm 130 trước Công nguyên). Sách Nhạc chỉ còn một thiên, được đem nhập vào bộ Lễ Ký gọi là 4. Tư Không coi việc xây dựng, tư khấu coi việc pháp luật. Nguyễn Văn Thọ: Chân dung Khổng Tử, Nhà sách Khái Trí xuất bản Sài Gòn. 6. Nguyễn Văn Thọ: Chân dung Khổng Tử, Nhà sách Khái Trí xuất bản Sài Gòn. 7. Nguyễn Văn Thọ: Chân dung Khổng Tử, Nhà sách Khái Trí xuất bản Sài Gòn. 5. 11 Thiên Nhạc ký. Những sách khác được người đương thời sưu tầm, bổ sung tạo thành năm kinh là Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu. Kinh Dịch, nguyên là sách giải thích sự vận hành của vũ trụ dùng để bói những điểm lành, dữ trong đời sống của con người. Theo người Trung Hoa thượng cổ, trời đất có âm, dương tương tác với nhau tạo sự sinh hóa. Song, do quỷ thần can thiệp vào nên âm, dương lúc ẩn lúc hiện. Con người phải dùng mai rùa hoặc cỏ thi để xem ý của quỷ thần thế nào mà hành động cho thuận lợi. Khổng Tử đã dành rất nhiều thời gian để nghiên cứu dịch. Truyền rằng, ông đọc sách dịch làm cho dây da buộc các thẻ tre đứt đến ba lần. Khổng Tử đã giải thích các ý nghĩa của sách dịch và viết thêm một số thiên, tạo nên cơ sở nhân sinh quan của Kinh Dịch. Kinh Thư, là bộ sách về sử các vua chúa từ đời Nghiêu đến đời Tần Mục Công (khoảng từ năm 2350 trước Công nguyên đến năm 620 trước Công nguyên). Bộ sách này trình bày tỉ mỉ hành động đường lối và tư tưởng của người cổ về tiếp nhận xử thế, đề cao phương pháp trị vì thiên hạ bằng đạo lý, thuận thiên thời, thuận thủy thổ, thuận nhân tâm, thuận lòng dân mà các vương Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang ngày xưa đã sử dụng. Kinh Thi, là bộ sách chép lại những bài ca dao (những bài hát có vần điệu dùng vào việc tế lễ, hiếu hỉ và những bài hát truyền miệng ở các vùng thôn dã) của người Trung Hoa cổ đại. Những bài ca dao vừa bộc lộ niềm tin vào thượng đế, ước nguyện sâu xa của thánh hiền thời cổ được phối kết với siêu nhiên, vừa phác họa mọi khía cạnh của cuộc sống và các hạng người trong xã hội. Đây là những cảnh trai thanh gái lịch mượn hoa lá, trăng sao để nói nên tình yêu thương thiết tha hay sầu bi khắc khoải, những cảnh thanh bình gia đình đoàn tụ hay chinh chiến phân ly, những cảnh minh quân một lòng vì nước hay bạo chúa loạn dâm, những tấm gương về dâu hiền, con thảo, anh em cốt nhục vẹn tình, vợ chồng keo sơn gắn bó, v.v… Khổng Tử san định Kinh Thi để mong người đời hiểu điều hiếu trung, biết thương biết ghét và mở mang tri thức. Ông thường nói với học trò rằng: Kinh Thi làm cho mình hứng tâm khởi trí, nhờ nó mà mình biết hợp quần xã hội, kẻ đọc Kinh Thi, gần thì biết thờ cha, kính mẹ, xa thì biết phụng sự quốc vương cho hết nghĩa tôi thần, lại biết thêm được nhiều giống như cầm, thảo, mộc (Luận ngữ , Dương hóa, 9). Kinh Lễ, gồm ba bộ: Chu Lễ, Nghi Lễ và Lễ Ký. Trong đó, Chu Lễ nói về cách tổ chức hành chính, chính trị xã hội thời Chu; Nghi Lễ quy định thể thức lễ nghi trong cuộc sống; còn Lễ Ký là phần do các môn đệ của Khổng Tử bình về các phong tục; Kinh Lễ là sự vận dụng các quan điểm về vũ trụ vào cuộc sống để quy mọi cử chỉ hành vi, bổn phận của chủ nhiệm người từ tấm bé cho đến khi nhắm mắt, tắt hơi. Có thể nói Kinh Lễ là bộ sách lý luận và biện pháp tổ chức xã hội mà Khổng Tử rất tâm đắc, theo ông con người nhất nhất phải hành động theo lễ, không nghe, không nhìn, không nói, không làm những gì trái lễ thì mới mong thiên hạ được thái bình (Luận Ngữ, Nhan Uyên, 1). Kinh Xuân Thu, là bộ kinh mà qua đó, như Khổng Tử tự thấy, người đời có thể ghi danh ông hoặc buộc tội ông (Mạnh Tử, Đằng Văn Công hạ, 9). Xuân Thu là bộ 12 sách Khổng Tử viết về chuyện nước Lỗ, từ đời Lỗ Ẩn Công (khoảng năm 722 trước Công nguyên) đến đời Lỗ Ai Công (khoảng năm 480 trước Công nguyên), là chuyện về nhà Chu cùng các nước chư hầu khác. Có thể coi đây là bộ biên niên sử mà Khổng Tử trong khi tránh đụng chạm đến các thế lực đang cầm quyền đã dùng nó để vạch ra nguyên nhân loạn lạc của xã hội đương thời. Mạnh Tử nhận xét rất đúng rằng khi đó đời càng ngày càng suy, đạo càng ngày càng yếu, tà thuyết, bạo hành khắp nơi nổi dậy. Những chuyện tôi giết vua, con giết cha xảy ra hằng ngày. Trước sự suy bại và loạn nghịch ấy Khổng Tử lấy làm lo sợ nên mới viết Xuân thu để khen thiện, chê ác và dạy phép trị vì thiên hạ cho các Thiên Tử, ( Mạnh Tư, Đằng Văn Công hạ, 9). Phép trị vì nước này là thuyết “chính danh” - thuyết xuyên suốt sách Xuân thu mà trọn đời Khổng Tử tuân theo. Triết học của Khổng Tử được lý giải khác nhau qua nhiều triều đại. Đến thế kỷ thứ II trước Công nguyên, những quan điểm của Khổng Tử được danh Nho nhà Hán là Đổng Trọng Thư thần bí hóa và biến nó thành một hệ thống đạo đức, tôn giáo, chính trị thống trị trong đời sống tinh thần ở Trung Quốc. Trong triết học của mình, Khổng Tử chủ yếu đi sâu vào các vấn đề xã hội, nhưng ở các tác phẩm của ông và sách vở do học trò ghi lại, ông cũng đã đề cập đến mọi lĩnh vực của triết học, thể hiện quan điểm của ông về thế giới, về chính trị xã hội, về luôn lý đạo đức và cuộc sống con người. 1.1.2. Tiền đề hình thành quan điểm đạo đức của Khổng Tử Trong tư tưởng triết lý đạo đức nhân sinh của Nho giáo nói chung và của triết học Khổng Tử nói riêng, quan điểm về đạo đức là một trong những vấn đề nổi bật. Tại sao vấn đề đạo đức trở thành vấn đề được các nhà triết học cổ đại quan tâm? Để trả lời câu hỏi đó, chúng ta không thể không nghiên cứu những đặc điểm của lịch sử xã hội Trung Quốc thời kỳ cổ đại - tiền đề làm nảy sinh những tư tưởng triết học hết sức đa dạng phong phú ở Trung Quốc. Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, quá trình phát sinh và phát triển của tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại tất yếu phải phản ánh và bị chi phối bởi những điều kiện lịch sử xã hội của Trung Quốc cổ đại. Triết học Trung Quốc hình thành và phát triển trong thời kỳ xã hội phong kiến đang có sự chuyển biến hết sức căn bản và lớn lao. Đó là thời kỳ chiếm hữu nô lệ theo kiểu phương Đông mà đỉnh cao là chế độ “tông pháp” nhà Chu đã suy tàn, chế độ phong kiến sơ kỳ đang hình thành - thời Xuân thu - Chiến quốc. Đây là thời kỳ giao thời giữa hai chế độ từ chế độ tông tộc chuyển sang chế độ gia trưởng, những giá trị tư tưởng đạo đức được xác lập trên nền tảng chiếm hữu nô lệ đã bị băng hoại, nhưng những giá trị tư tưởng mới còn đang manh nha, đang trong quá trình hình thành. Thời kỳ này diễn ra một sự biến đổi hết sức sâu sắc trên tất cả các mặt kinh tế, văn hóa, chính trị tạo điều kiện cho sự giải phóng tư tưởng của con người thoát khỏi thế giới quan mang tính chất thần bí, ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển tư tưởng của triết học. Thời kỳ Xuân thu được đánh dấu bằng sự kiện Chu Bình Vương (năm 771 trước Công nguyên) dời đô về phía đông đến Lạc Ấp (Lạc Dương tỉnh Hà Nam bây giờ). 13 Thời kỳ này nhờ vào sự phát triển của công cụ đồ sắt và kỹ thuật khai thác than đã làm cho đất đai được mở rộng và hệ thống thủy lợi được cải thiện, người ta cảm thấy rằng, giờ đây công xã giao hẳn ruộng đất cho từng hộ gia đình nông nô cày cấy trong một thời gian lâu dài đã làm cho năng suất lao động tăng lên, cho nên chế độ tỉnh điền không còn phù hợp nữa. Chính điều này đã làm cho chế độ tư hữu về ruộng đất phát triển mạnh mẽ, làm cho một số người giàu có vốn xuất thân từ nông dân muốn được tham gia vào chính sự, đòi quyền lợi về chính trị - xuất hiện một giai cấp mới đó là giai cấp địa chủ. Hơn nữa đồ sắt ngày càng nhiều, càng làm tăng năng suất lao động, thủ công nghiệp đạt tới mức độ cao hơn, các nghề mộc, nghề đúc, nghề rèn ... phát triển mạnh, tạo ra một tầng lớp thợ thuyền tuy nhiều nhưng do trình độ thấp nên chưa có ảnh hưởng lớn trong xã hội. Trên cơ sở tiểu thủ công nghiệp phát triển, thương nghiệp càng phát triển mạnh hơn, hoạt động giao lưu buôn bán diễn ra sôi động. Do nhờ buôn bán mà thành giàu có, trong xã hội hình thành một lớp thương nhân ngày càng có thế lực. Với tình trạng cát cứ như đầu thời Xuân thu, các thương nhân muốn buôn bán được thì trước hết phải quen biết, giao kết với các quan đại phu công thần, đồng thời bản thân họ phải là người tháo vát nhanh nhẹn và có lòng quả cảm, chính điều này mà giới thương nhân cũng gây ra những ảnh hưởng đối với chính trị đương thời. Nhờ vào sự xuất hiện của thương nghiệp đã tạo ra trong cơ cấu giai cấp xã hội thêm một tầng lớp mới. Tầng lớp này dần dần hình thành một loại quý tộc mới với thế lực ngày càng mạnh, tìm cách leo lên dành quyền lực với tầng lớp quý tộc cũ. Về chính trị xã hội, thời Tây Chu chế độ tông pháp “phong hầu kiến địa” vừa có ý nghĩa ràng buộc về kinh tế vừa có ý nghĩa ràng buộc về chính trị. Chính điều này đã làm cho nhà Chu hưng thịnh trong một thời gian dài. Nhưng đến thời Xuân thu chế độ tông pháp nhà Chu không còn được tôn trọng, sự ràng buộc giữa “Thiên tử” và các nước chư hầu bị lỏng lẻo, huyết thống ngày càng xa, trật tự lễ nghĩa nhà Chu không còn được xem là chuẩn mực. “Thiên tử” nhà Chu bây giờ chỉ còn là hư danh, các nước chư hầu mượn danh “Thiên tử” để thôn tính lẫn nhau mưu cầu lợi ích cá nhân, mong làm chủ thiên hạ. Để tập trung tất cả tài lực và sức lực cho các cuộc chiến tranh, các quốc gia này đều thi hành chính sách “bá đạo” dựa trên sức mạnh và ra sức bóc lột nhân dân và các nước khác, hoàn toàn khác với chính sách nhân nghĩa “vương đạo” của thánh nhân xưa. Người dân nghèo phải đi chiến trận, thực hiện các cuộc chinh phạt, còn chịu sưu thuế, phu phen, lao dịch nặng nề. Thiên tai thường xuyên xảy ra, nạn cướp bóc nổi lên, cuộc sống nhân dân trăm bề khổ sở. Với chính sách dựa vào sức mạnh, gây chiến tranh và thôn tính lẫn nhau không chỉ dẫn đến hậu quả là hàng loạt nước nhỏ bị tiêu diệt mà còn làm cho trật tự lễ nghĩa nhà Chu bị băng hoại, mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt. Đặc biệt là những nghi lễ chặt chẽ tôn nghiêm trước đây đã từng góp phần bảo vệ và làm hưng thịnh chế độ tông pháp nhà Chu đến nay bị xem thường. Tình trạng lễ nghĩa, cương thường đảo lộn, đạo đức suy đồi, nước lớn bắt nước nhỏ phải cống nạp cho mình. Trong xã hội loạn lạc, cảnh tôi giết vua, con hại cha, anh em, vợ chồng chia lìa 14 thường xuyên xảy ra. Tình trạng đó theo Khổng Tử không phải xảy ra một sớm một chiều mà nó âm ỉ mục ruỗng từ lâu. Việc “tang viếng, tế lễ, chúc mừng” trở thành một thủ đoạn ngoại giao chứ không còn là lễ nghĩa của quan hệ gia tộc và trật tự xã hội nữa. Thời Chiến quốc đã có bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế, các ngành nghề cũng có bước phát triển nhất là kỹ thuật canh tác trong nông nghiệp và thủy lợi. Các đô thị sầm uất xuất hiện, thương nghiệp và giao thông phát triển điều này càng làm cho sự phân hóa giữa địa chủ và quý tộc mới với quý tộc cũ nhà Chu ngày càng gay gắt hơn. Cho nên các cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau với quy mô ngày càng lớn và càng thảm khốc hơn, đời sống nhân dân ngày càng cơ cực, lầm than hơn, Mạnh Tử đã viết: “Đánh nhau tranh thành, giết người thây chết đầy thành; đánh nhau giành đất, giết người thây chết đầy đồng” (Mạnh Tử, Luy Lâu thượng). Sự phát triển của kinh tế hàng hóa và chiến tranh loạn lạc triền miên làm cho chế độ công xã nông thôn càng mau tan rã. Chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất dần dần trở thành quan hệ sở hữu thống trị. Việc mua bán ruộng đất được tự do và sự phổ biến của chế độ tư hữu đã mở đường cho sự tập trung ruộng đất vào tay một số ít lãnh chúa. Đa số nông dân nghèo mất hết ruộng đất phải đi làm tá điền. Chế độ bóc lột bằng phát canh thu tô xuất hiện. Trong lòng xã hội đã xuất hiện những yếu tố của quan hệ sản xuất mới đó là chế độ phong kiến quận huyện. Tất cả những yếu tố này góp phần đưa chế độ chiếm hữu nô lệ và tông pháp nhà Chu lao nhanh đến giờ phút cáo chung. Và sự thật nhà Tần đã thống nhất được Trung Quốc để bắt đầu xây dựng một kiểu nhà nước mới đó là nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền. Chính thời đại lịch sử đầy biến động đó đã dẫn tới những thay đổi sâu sắc ở nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, pháp luật .... đã kích thích lòng người, khiến cho những người tài giỏi đương thời tìm cách lý giải và tìm ra phương pháp để cứu đời, cứu người. Thời kỳ này đã làm nảy sinh hàng loạt những nhà tư tưởng lớn với các học thuyết khác nhau. Là một người luôn quan tâm tới giá trị con người và chế độ chính trị, nên Khổng Tử chủ trương dùng đạo đức để giáo hóa con người đi tới ổn định trật tự xã hội, Khổng Tử đã đề ra học thuyết triết học lấy tư tưởng “chính danh” làm nòng cốt và một lý thuyết về đạo đức có tính nhân văn cao tạo thành một nét riêng trong hệ thống tư tưởng của ông. 1.2. NỘI DUNG QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ Tư tưởng đạo đức của Khổng Tử chịu sự chi phối của thế giới quan mà ông đã hấp thụ của người Trung Quốc cổ đại. Đó là: Vũ trụ lúc đầu chỉ là cõi hỗn mang mênh mông, mờ mịt. Trong cái hỗn mang ấy có cái Lý gọi là Thái Cực. Thái cực vô hình, huyền diệu chứa đựng hai mặt tiềm ẩn đối lập nhau là Âm và Dương. Âm Dương tương tác, chuyển hóa, dẫn đến mọi sự biến đổi vô cùng, vô tận gọi là Đạo. Theo Đạo, Âm - Dương tạo ra thanh khí và trọng khí. Thanh khí làm Trời, trọng khí làm Đất, còn sự điều hòa Âm - Dương sẽ sinh ra con người và vạn vật. Như vậy, tính đa dạng của vũ trụ đều có chung nguồn, chung gốc mà Khổng Tử gọi là “nhất dĩ 15 quán chi” (một đầu mối). Cái đầu mối giải quyết mọi vấn đề của xã hội loạn lạc đương thời, theo Khổng Tử chính là đạo đức. Ông nói: “Nếu nhà cầm quyền chuyên dùng pháp luật mà dẫn dắt, chuyên dùng hình phạt mà trị vì thì dân sợ mà không phạm pháp, còn nếu nhà cầm quyền dùng đức hạnh mà dẫn dắt, dùng lễ tiết mà trị, thì chẳng những dân tự biết xấu hổ với mình mà trước hay sau họ cũng được cảm hóa (Luận ngữ, Vi Chính, 3). Đức hạnh và lễ tiết, theo Khổng Tử là những tiêu chuẩn về đức tính, là những quy định về giao tiếp, lễ nghi mà con người phải có, phải tuân theo. Vì vậy, “người dùng đạo đức để làm chính trị chẳng khác gì ngôi sao Bắc Đẩu chỉ đứng một chỗ mà các ngôi sao khác đều phải hướng về” (Luận ngữ, Vi chính,1). Vấn đề ở đây là Khổng Tử quan niệm như thế nào là đạo đức? Tuy thể hiện quan điểm của mình ở nhiều chỗ khác nhau, nhưng nhìn chung tư tưởng về đạo đức của Khổng Tử được phân thành hai mảng tương đối rõ nét: đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân. 1.2.1. Đạo đức xã hội Từ quan điểm vạn vật đều có chung nguồn gốc, cái phức tạp biến sinh từ cái giản dị, Khổng Tử cho rằng sự thay đổi của xã hội làm cho thiên hạ rối ren không phải là nguyên nhân một sớm một chiều mà là một quá trình bắt nguồn từ sự sa đọa của các thế lực cầm quyền, làm cho “danh” không được “chính”, tức là “danh” không phù hợp với “thực”. Khi Quý Khương Tử (người đã chiếm ngôi vua nước Lỗ) hỏi Khổng Tử về cách cai trị, Khổng Tử giảng giải: “chính sự là làm cho mọi việc ngay thẳng, công minh. Nếu ngài đi đầu trong dân chúng về việc này thì ai còn dám ăn ở hai lòng, hai dạ?” (Luận ngữ, Nhan Uyên, 16), hoặc “Ngài là người cầm quyền, nếu ngài không tham dục thì sao trong dân có tà đạo nảy sinh?” (Luận ngữ, Nhan Uyên, 17). Vì quan niệm “danh” không được “chính” làm cho xã hội loạn lạc, phép tắc kỷ cương xáo trộn, danh phận không rõ ràng, nên để khôi phục trật tự xã hội, Khổng Tử đã chủ trương thực hành thuyết “chính danh”. Khổng Tử cho rằng mỗi người và mỗi vật trong xã hội đều có một công dụng nhất định. Nằm trong mối quan hệ nhất định mỗi vật, mỗi người đều có một địa vị, bổn phận nhất định và tương ứng với nó là một “danh” nhất định. Mỗi “danh” đều có tiêu chuẩn riêng. Vật nào, người nào mang “danh” nào phải được thực hiện và phải thực hiện bằng được những tiêu chuẩn của danh đó, nếu không phải gọi bằng “danh” khác. Đó là “chính danh”. Khổng Tử giải thích học thuyết “chính danh” của mình rằng: “Chính là làm cho mọi việc ngay thẳng” (Luận ngữ, Nhan Uyên, 16). Chính danh là: “vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha phải ra cha, con phải ra con”. (Luận ngữ, Nhan Uyên, 11). “Nếu danh bất chính thì lời nói sẽ không đúng đắn, lời nói không đúng đắn thì dẫn tới việc làm sai. Khi đó người với người trong xã hội sẽ không còn kính trọng nhau, không còn hòa khí, pháp luật lỏng lẻo và người dân sẽ mất nơi trông cậy nhờ vả” (Luận ngữ, Tử Lộ, 3). Khi “dân không có chỗ trông cậy, 16 nhờ vả thì dân sẽ không còn tin ở bậc cầm quyền, lúc đó dù muốn hay không xã tắc cũng khó tránh bề suy sụp”. (Luận ngữ, Nhan Uyên, 7). Vì cho “chính danh” là quan trọng nhất nên khi Tử Lộ hỏi nếu được vua Vệ mời tham gia chính sự thì Khổng Tử sẽ làm gì, ông đáp: “ắt phải chính danh trước đã” (Luận Ngữ, Nhan Uyên, 6). Khổng Tử viết sách Xuân thu thực chất là tuyên truyền học thuyết chính danh của ông, bằng sự khen chê người đời trước để làm gương cho người đời sau với quan điểm nhắc chuyện xưa để răn dạy người đời nay phải sống trung chính và đúng đạo của mình. Trong “Tư tự” (tự mình viết) của cuốn Sử ký, Tư Mã Thiên đã dẫn lời Đổng Trọng Thư nói về mục đích của Khổng Tử khi soạn kinh Xuân Thu rằng: Kinh Xuân Thu trên làm sáng tỏ đạo của Tam Vương8, dưới phân biệt phép tắc của người, biện bạch điều hiềm nghi, soi sáng điều phải trái, quyết định điều còn do dự, chê điều dở, nối lại cái đã đứt, vá lại cái đã rách, dựng lại cái đã bỏ. Đó là điều lớn của một đạo vương. Theo tư tưởng “chính danh” khi viết sách Xuân Thu, Khổng Tử rất thận trọng dùng từ ngữ, chữ nghĩa để phân biệt đúng đắn các hiện tượng xã hội. Chẳng hạn cái chết của Thiên tử được ông gọi là “băng”, cái chết của vua chư hầu ghi là “hoăng”, của vua cướp ngôi ghi là “tồ”, của quan liêm chính là “tốt”, của kẻ nịnh thần là “tử”, v,v... Như vậy, khi đề cập ra học thuyết “chính danh”, Khổng Tử đã cố gắng thể hiện nó qua hành động của mình. Nó cũng phản ánh thái độ tôn trọng tôn ti trật tự, phép tắc của Khổng Tử. Tôn ti này trong quan hệ giữa người với người, Khổng Tử gọi là “luân”. “Luân” được sách Thuyết văn cho là “con đường”, sách Khúc lễ giảng giải là “loại”, còn Mạnh Tử ghi là “trật tự”9 (Một số nhà nghiên cứu sau này giải thích là “thứ bậc”, là “đạo cư xử”). Có thể hiểu trong xã hội “mỗi một thứ quan hệ là một luân”. Trong các mối quan hệ xã hội, Khổng Tử xác định năm mối quan hệ cơ bản và thông thường của mỗi đời người trong thiên hạ, gọi là “ngũ luân”, gồm quan hệ vua - tôi , cha - con, chồng - vợ, anh - em, bè bạn (quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu) (Trung dung, 20). Mỗi quan hệ lại có tiêu chuẩn riêng cho từng đối tượng, như cha hiền con thảo, anh tốt em ngoan, chồng biết tình nghĩa vợ nghe lẽ phải, bề trên từ hiếu, bề dưới kính thuận, vua nhân từ tôi trung thành (Lễ vận, chương VIII, 11, 9). Đây là xương sống về tư tưởng đạo đức xã hội của người sáng lập ra Nho gia. Trong “Ngũ luân” lại có ba mối quan hệ cơ bản nhất, Khổng Tử gọi đó là “tam cương” (quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương), song Khổng Tử nhấn mạnh nhiều hơn đến quan hệ vua tôi và cha con. 1. Tam vương là ba đời của nhà Hạ, nhà Thương và nhà Chu. Hồ Thích: Trung Quốc Triết học sử, Nhà sách Khai Trí xuất bản, Sài Gòn, 1970, tr. 242, Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1987, tr. 320. 9. 17 Đối với quan hệ vua tôi, trước hết Khổng Tử chống ngôi vua duy trì theo kiểu cha truyền con nối. Ông lên án việc chức tước truyền theo huyết thống, dòng dõi, mặc dù trong xã hội đương thời vẫn có ba kiểu lên ngôi được thừa nhận, như: lên ngôi do cha truyền lại, lên ngôi do vua trước truyền lại và lên ngôi do đổi mệnh vua10. Khổng Tử cho rằng người cầm quyền phải có đức, có tài mà không cần tính đến đẳng cấp xuất thân của họ. Ông nhận xét Trọng Cung, người mà ông tin cậy 11, truyền cả thiên đạo cho, không được đắc dụng chỉ vì Cung thuộc lớp thường dân. Ông ví Trọng Cung như con bò tơ sắc đỏ, sừng tốt (con bò có đủ những điều kiện tốt nhất để dùng vào việc thiêng liêng nhất là tế thần), nhưng vì mẹ nó lang, nên người ta không dùng vào việc cúng bái, trong khi thần không hề xem xét kẻ như thế nào đã đẻ ra nó (Lụân ngữ, Ung Giã, 4). Theo ông, Trọng Cung không những đáng cử làm quan mà thậm chí có thể làm vua, vì một ông vua đồng thời cũng phải là một người thầy của dân (Luận ngữ, Tử Lộ, 1, 2), phải là người nhân đức nhất trong những người nhân đức. Khổng Tử cho rằng Trọng Cung là người có đủ những tiêu chuẩn này. Khổng Tử đã nêu ra những đòi hỏi với người đứng đầu của một quốc gia mà bao hàm nhất là người đó phải đạt được nhân đạo và thiên đạo - những yêu cầu để trở thành một minh quân, một bề trên chính trực. Về những yêu cầu cụ thể đối với vua, Khổng Tử chủ trương: Vua phải đảm bảo cho dân được no ấm, phải xây dựng được lực lượng quân sự hùng hậu và đặc biệt là phải chiếm được lòng tin của dân. Vì vậy, khi Tử Cống hỏi đến cách cai trị xã hội, Khổng Tử đáp: “Nhà cầm quyền cần ba điều: lương thực dồi dào, binh lực mạnh mẽ và được lòng tin của dân”. Tử Cống hỏi tiếp: “ Trong ba điều ấy, nếu bất đắc dĩ phải bỏ đi một điều thì bỏ điều nào?” - “ Bỏ binh lực”. “Nếu bất đắc dĩ phải bỏ đi một điều nữa?” - “Bỏ lương thực vì từ trước tới nay nếu thiếu cái ăn chỉ đói chứ không mất nước, còn nếu thiếu lòng tin của dân thì sớm muộn chính quyền sẽ sụp đổ” (Luận ngữ, Nhan Uyên, 7). Không những thế, vua phải biết làm sao cho dân giàu và biết giáo hóa dân. Truyền rằng Khổng Tử đến nước Vệ, Nhiễm Hữu12 đánh xe ra hầu, Khổng Tử khen: “Dân nước Vệ đông thay”. Nhiễm Hữu hỏi: “Dân đã đông, nhà cầm quyền phải làm gì cho họ nhờ?” - “Phải giúp họ giàu có”. “Họ đã giàu rồi, nhà cầm quyền phải làm gì nữa?” - “Phải giáo hóa họ” (Luận ngữ, Tử Lộ, 9). Ngoài ra vua còn phải biết trọng dụng người đức độ và có năng lực làm việc, phải biết rộng lượng đối với những người cộng sự của mình. Ông dạy rằng: “Nhà cầm quyền nên thi hành ba việc này: 1) Trước hết nên phân phát công việc cho 10. Lên ngôi do đổi mệnh vua bằng cách giết vua đang cầm quyền. Việc này theo xã hội đương thời là hợp đạo lý khi người giết vua là thuận ý trời và thuận ý dân. 11. Trọng Cung, Nhiễm Ung, học trò của Khổng Tử người nước Lỗ, được hậu thế phong là Bất Kỳ Công, xếp hàng thứ ba trong “Thập triết” của Nho gia. 12. Nhiễm Hữu, tức Hữu Cầu, người nước Lỗ, học trò của Khổng Tử có tài chính trị đoan chính nhưng thiếu tự tin, được hậu thế phong hàng thứ sáu trong “ Thập triết” của nho gia. 18 những quan chức dưới quyền của mình, họ làm xong thì xem xét lại; 2) Những ai phạm lỗi nhỏ thì dung thứ cho họ; 3) Cử dùng những người hiền đức và tài cán” (Luận ngữ, Tử Lộ, 2). Dân đối với vua, theo Khổng Tử phải coi như cha mẹ của mình (Đại học, 10). Trong quan hệ giữa dân và vua, dân vì vua là “trung”, vua vì dân để được lòng dân tin cũng là “trung” vậy. “Trung” của Khổng Tử chỉ đòi hỏi sự hết lòng và thành tâm thật ý trong quan hệ với nhau. Nhìn chung, dù ở góc độ luân lý hay luận lý, chính danh của Khổng Tử là chính danh hai chiều trong quan hệ mà trước hết nó đặt trách nhiệm vào bề trên. Đây là chính danh với “Quân minh - thần trung” nó khác hẳn với quan điểm “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” để dẫn đến ngu trung mà hậu thế đã khai thác lệch lạc nó. Chính danh là nền tảng mà trên đó tư tưởng đức trị và những tư tưởng khác về xã hội của Khổng Tử được hình thành và phát triển. Chính danh cũng là cơ sở để định hình những nội dung cơ bản của đạo đức đối với mỗi cá nhân. 1.2.2. Đạo đức cá nhân 1.2.2.1. Quan điểm của Khổng Tử về chữ nhân Kinh thi, trong phần Nhã và Tụng13, ngay những bài hát ca tụng đức của các tiên vương đời Chu, cũng tuyệt nhiên không thấy dùng chữ nhân (nhân ái). Sách thượng thư, trong các thiên “Kim văn” không nói đến đức nhân; trong các thiên cổ văn14 chữ nhân chỉ xuất hiện có bốn, năm lần. Còn trong những sách tài liệu chép về chính trị mà viết trước đời Khổng Tử, ta chỉ thấy dùng chữ khoan, chẳng hạn Thiên Thuấn Điển khen tổ nhà Ân lấy lòng khoan mà dậy dân, vỗ về dân. Đọc tới bộ Luận ngữ, ta mới thường gặp chữ nhân (có 58 chỗ đề cập đến quan niệm về Nhân với cả thảy là 109 chữ Nhân), mới thấy đức nhân được đưa nên hàng quý nhất, được coi là cái “đạo lớn của nhân sinh” (Nhân sinh chi đạo). Vậy chúng ta có thể tin rằng nếu Khổng Tử không phát minh ra quan niệm về nhân, thì ít nhất ông cũng đã có công bổ túc, hoàn thiện nó, làm cho nó thành cái cơ sở của giáo dục chính trị và một phần lớn nhờ ông mà triết học Trung Hoa có một sắc thái riêng, không giống Âu Tây, cũng không giống Ấn Độ. Xét quan niệm nhân của Khổng Tử, chúng ta thấy rằng “nhân” không chỉ riêng một đức tính nào mà chỉ chung mọi đức tính. Người có nhân đồng nghĩa với người hoàn thiện nhất, nên nhân làm nghĩa rộng nhất của đạo làm người. Đạo làm người có hàng ngàn, hàng vạn điều nhưng chung quy lại chỉ là những điều đối với mình và đối với người, nên nhân có thể hiểu là cách cư xử với mình và cách cư xử với người. 13. Kinh thi gồm ba phần: Phong (các ca dao của bình dân), Nhã (các bài hát dùng trong yến tiệc, tế lễ), Tụng (các bài ca tụng đức các vua đời trước) 14. Sau vụ đốt sách ở đời Tần, tới đời Hán, các học giả theo những kinh của bọn bác sĩ nhà Tần truyền lại gọi là kim văn. Rồi Lỗ Cung Vương, con Cảnh Đế, tìm thấy một bộ kinh thư viết bằng cổ văn ở trong vách nhà cũ của Khổng Tử, Khổng An Quốc, cháu 12 đời của Khổng Tử đem so với bộ Kinh Thư kim văn mà soạn lại, thành ra thêm một phái nữa: phái cổ văn. Đến cuối đời Tây Hán, bọn Lưu Hâm đặt ra Thi cổ văn, Lễ Cổ văn, Xuân thu cổ văn nhưng người ta cho rằng giả dối không đáng tin. 19 Đối với mình, người có nhân “trước hết phải làm những việc khó, sau mới hưởng thành quả, mới có thể gọi là nhân” (Luận ngữ, Ung giã, 20). Khác với những người “bất nhân” - những người không cam chịu cảnh khốn quẫn và cũng không thể hưởng lâu dài khoái lạc, người nhân sẵn sàng vui vẻ sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù đấy là vinh hoa hay đói nghèo, túng thiếu. Người có nhân cái cao cả nhất là đức nhân của mình (Luận ngữ, Lý ngân, 2), có thể vì nhân mà sát thân chứ không phải vì thân mà hại nhân, vì có đức nhân con người sẽ tự kìm chế được mình để tuân theo lễ tiết của xã hội (Luận ngữ, Nhan Uyên, 1), để vững vàng trầm tư như núi trước mọi thử thách của cuộc đời (Luận ngữ, Ung giã, 21), v.v.. Với mỗi người khác nhau, Khổng Tử đã nói về những mặt khác nhau của đức nhân. Nhan Uyên hỏi về nhân, Khổng Tử đáp: “Khắc kỷ phục lễ vi nhân”. Ông giảng giải tiếp “Điều gì không hợp với lễ thì đừng nhìn, điều gì không hợp với lễ thì đừng nghe, điều gì không hợp với lễ thì đừng nói, điều gì không hợp với lễ thì đừng làm”. Nhân chung quy lại, như Khổng Tử đã nói với Tử Trương là: “Người có đức nhân là người phải biết nghiêm trang tề chỉnh, rộng lượng, khoan dung, đức tín, lòng thành, siêng năng, cần mẫn và biết thi ân bố đức” (Luận ngữ, Dương hóa, 6). Về những điều này, ông lý giải “Nghiêm trang tề chỉnh sẽ làm người khác không giám khinh nhờn, rộng lượng khoan dung sẽ làm người khác bị thu phục, đức tín lòng thành sẽ làm người khác tin cậy, thi ân bố đức sẽ làm người khác bị sai khiến và cần mẫn siêng năng sẽ đem lại nhiều điều bổ ích” (Luận ngữ, Dương hóa, 6). Đối với người, nguyên tắc suốt đời của người có nhân phải theo là “thương yêu người khác” (Luận ngữ, Nhan Uyên, 21). Giải thích điều này Khổng Tử dạy: Người nhân muốn tự lập lấy mình, thì phải lo lập cho người, muốn thành đạt cho mình thì cũng lo cho người thành đạt. Người nhân ứng xử với mình như thế nào thì cũng ứng xử với người như thế” (Luận ngữ, Ung giã, 28). Cho nên khi Tử Cống hỏi: “Có chữ nào mà trọn đời người nhân phải theo chăng?” - Khổng Tử đã đáp: “Có, chữ thứ, nghĩa là việc gì mình không muốn đừng có làm cho người khác” (Luận ngữ, Vệ Linh Công, 23). Tất nhiên đối với Khổng Tử không phải bất cứ người nào người có đức nhân cũng thương yêu đùm bọc. Đạo lý của xã hội luôn là tiêu chuẩn để phân định, đánh giá và tỏ thái độ của mình đối với người khác, nên người có đức nhân phải dựa vào tiêu chuẩn này để biết yêu thương hay ghét bỏ. Ông nói: “Duy có bậc nhân mới biết thương người và ghét người một cách chính đáng mà thôi” (Luận ngữ, Lý nhân, 3). Đánh giá về vai trò của đức nhân, Khổng Tử cho rằng: nếu tâm của con người luôn hướng về nhân thì không bao giờ con người nghĩ đến chuyện phản loạn, do đó miệng không nói bậy và thân không dấn vào việc ác tà (Luận ngữ, Lý Nhân, 4). Chính vì vậy, đối với dân, đức nhân cần thiết hơn tất cả những gì cần thiết khác (Luận ngữ, Vệ Linh Công, 34). Đối với những người cầm quyền đức nhân như một thành trì để giữ gìn và bảo vệ những gì họ đã đạt được (Luận ngữ, Vệ Linh Công, 32). 20 Khao khát cho con người đạt tới đức nhân và còn vươn lên thành thánh nhân. Khổng Tử chia những người có đức nhân thành bậc thánh và bậc nhân. Bậc thánh là “những người thi ân bố đức cho khắp dân gian và thường trợ giúp cho đại chúng” (Luận ngữ, Ung Giã, 28). Với quan điểm nhắc đến chuyện xưa để răn dạy đời nay, nhìn lại lịch sử Khổng Tử đã xếp những người như Nghiêu, Thuấn, Vũ, v.v…, vào bậc thánh (Luận ngữ, Thá Bá, 18, 19), những người như Bá Di, Thúc Tề, Vi Tử, Cơ Tử, Tỉ Can, Quản Trọng vào bậc nhân, để người đương thời học tập (Luận ngữ, Hiến vấn, 18)15. Phạm trù nhân có nội dung khá phong phú và thâm nhập tất cả các lĩnh vực của cuộc sống. Có lẽ nó là sự kết tinh rực rỡ nhất và cũng phản ánh rõ nét nhất quan điểm đạo đức của Khổng Tử, xong nhân chỉ dừng lại ở nguyên tắc mang tính phổ quát. Cái cụ thể của nguyên tắc này là hiếu. Chữ hiếu được người Trung Quốc nói đến rất sớm. Những bản kim văn như: Đại Khắc Đỉnh, Trung Đôn, Quốc Khương Ân, Đỗ Bá Sở đã đề cập đến chữ hiếu. Kinh thi cũng nói về trung hiếu, khắc hiếu, v.v… Ở đây chữ hiếu đã đề cập đến quan hệ giữa người với người, song nó thuộc đời sống chính hệ, nó như sợi dây nối liền bề dưới với bề trên, nối liền con người với tổ tiên thần thánh; còn hiếu với tính cách là chuẩn mực đạo đức thì như các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã khẳng định, đến đời Khổng Tử mới hoàn toàn rõ nét16. Theo Khổng Tử, hiếu có lúc là cội nguồn của nhân và cũng có lúc hiếu với nhân là một. Sách Luận ngữ có ghi lại lời của Hữu Tử17 phản ánh tư tưởng hiếu là cội nguồn của nhân như sau: “Bậc quân tử luôn chú vào việc gốc. Cái gốc vững vàng thì đạo lý từ đó mà sinh ra. Hiếu, đễ chính là cái gốc của đức nhân đó chăng” Hiếu theo Khổng Tử là vô vi, vô cải. - Vô vi là phụng sự cha mẹ không trái với lễ. Cụ thể là “phận làm con khi cha mẹ còn sống phải phụng sự theo lễ, khi cha mẹ qua đời phải chôn cất theo lễ, khi thờ cúng phải làm theo lễ”. - Theo lễ trước hết phải có tâm, có lòng thành. Không có tâm, có lòng thành không thể gọi là theo lễ, không thể gọi là hiếu. Khổng Tử đã từng nói: “đời nay, hễ 1. Bá Di và Thúc Tề là con vua nước Cô Trúc, Bá Di là con cả, Thúc Tề là con út. Vua Cô Trúc rất yêu Thúc Tề nên khi chết đã di chúc nhường ngôi cho ông. Quốc dân tuân theo di chúc, nhưng Thúc Tề không chịu, vì theo ông ngôi vua phải truyền cho con cả. Bá Di cũng không chịu vì tuân theo lời cha. Hai anh em nhường nhau mãi, cuối cùng đều lên núi để sống. Dân phải lập người con giữa lên. Vi Tử, Cơ Tử, Tỉ Can đều là người nhà Ân. Khi nhà Ân sắp mất Vi Tử là con cả nên sợ mất dòng, không có người nối dõi tông tộc, đã bỏ nước ra đi. Cơ Tử giả điên để giữ khí tiết chờ ngày nhà Ân được khôi phục, Tỉ Can bị Trụ Vương kết án tử hình. Quản Trọng và Thiệu Hốt là gia thần của công tử Củ (em vua Tề Hoàn Công). Khi Tề Hoàn Công giết công tử Củ để cướp ngôi thì Thiệu Hốt thắt cổ tự tử chết theo, còn Quản Trọng giúp Hoàn Công bình định được thiên hạ, khôi phục lại trật tự xã hội, nên Khổng Tử đã xếp ông vào bậc nhân, làm gương cho người đời soi rọi. 16. Xem Vi Chính Thông: Nho gia với Trung Quốc ngày nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.249251. 17. Hữu Tử: Họ Hữu, tên Nhược, tự Tử Nhược, học trò của Khổng Tử.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan