Nguyễn Thị Diệu Huyền
Lớp: A8_TC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÍ LUẬN - CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN
Môn: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lenin
TÊN ĐỀ TÀI
Quan điểm của triết học Mac-Lenin về con người và vấn đề xây dụng nguồn lực con
người trong sự nghiệp CNH-HĐH ở nước ta
Họ tên SV: Nguyễn Thị Diệu Huyền
Lớp: Anh 8-TC
Khối: 2-TC
GVHD: T/s.Trần Huy Quang
Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2009
1
Nguyễn Thị Diệu Huyền
Lớp: A8_TC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÍ LUẬN - CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN
Môn: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lenin
TÊN ĐỀ TÀI
Quan điểm của triết học Mac-Lenin về con người và vấn đề xây dụng nguồn lực con
người trong sự nghiệp CNH-HĐH ở nước ta
Họ tên SV: Nguyễn Thị Diệu Huyền
Lớp: Anh 8-TC
Khối: 2-TC
HàNội,ngày 15 tháng 11 năm 2009
2
Nguyễn Thị Diệu Huyền
Lớp: A8_TC
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
II.Nội Dung
1.Chương 1
2.Chương 2
III.Kết Luận
IV.Tài Liệu Tham Khảo
4
5
9
14
15
3
Nguyễn Thị Diệu Huyền
Lớp: A8_TC
MỞ ĐẦU
Từ trước đến nay vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học
từ cổ đại đến hiện đại. Những vấn đề như là Con người là gì? Con người được sinh ra từ
đâu? Bản tính, bản chất, con người là gì? Mối quan hệ giữa con người và thế giới trong
mỗi thời đại lịch sử như thế nào? Hay vị trí vai trò của con người đối với thế giới? và
con người có thể làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân mình hay không? Con người phải
làm gì để có cuộc sống đáng với con người?...
Đó là những vấn đề chung nhất, cơ bản nhất mà lịch sử triết học nhân loại luôn đặt ra và
giải đáp bằng những cách khác nhau. Tuy nhiên, những vấn đề trên về thực chất là học
thuyết giải phóng con người, hướng tới mục đích vì con người, chủ thể của lịch sử, xã
hội thể hiện bản chất cách mạng và khoa học của triết học mac-lenin bởi vậy với sự ra
đời của quan điểm duy vật về lịch sử hay cụ thể là quan điểm của triết học mac-lenin,
lần đầu tiên vấn đề con người có được vị trí mà nó cần phải có, lần đầu tiên vấn đề con
người được nhận thức một cách thật sự khoa học.
Áp dụng vào giai đoạn lịch sử của nước ta lúc bấy giờ trong thời điểm CNHHĐH đất nước đang diễn ra thì những vấn đề về con người đặc biệt là vấn đề xây dựng
nguồn lực con người luôn là 1 trong những vấn đề được đặt lên hàng đầu của quốc gia.
Bời vì con người luôn là chủ thể sáng tạo nên lịch sử, làm nên mọi giá trị vật chất lẫn
tinh thần, là yếu tố quan trọng để xây dựng 1 tiềm lực vững chắc nền tảng cơ bản cho sự
nghiệp CNH-HĐH của nước ta.
4
Nguyễn Thị Diệu Huyền
Lớp: A8_TC
NỘI DUNG
Chương I
QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MAC-LENIN VỀ CON NGƯỜI
1. Một số quan điểm triết học về con người trong lịch sử
A) Quan điểm con người trong triết học phương Đông
Trong nền triết học Trung Hoa suốt chiều dài lịch sử trên 2000 cổ trung đại vấn
đề bản chất con người là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Giải quyết vấn đề này các nhà
tư tưởng của Nho gia và Pháp gia đã tiếp cận từ giác độ hoạt động thực tiễn chính trị,
đạo đức của xã hội và đi đến kết luận bản tính người là thiện (nho gia) và bản tính
người là bất thiện (pháp gia). Các nhà tư tưởng của Đạo gia ngay từ Lão tử thời xuân
thu lại tiếp cận giải quyết vấn đề bản tính người từ giác độ khác và đi tới kết luận bản
tính tự nhiên của con người. Sự khác nhau về giác độ tiếp cận và với những kết luận
khác nhau về bản tính con người đã là tiền đề xuất phát cho những quan điểm khác
nhau của các trường phái triết học này trong việc giải quyết các vấn đề về quan niệm
chính trị đạo đức nhân sinh của họ .
Khác với nền triết học Trung Hoa các nhà tư tưởng của các trường phái Ấn Độ mà tiêu
biểu là trường phái đạo phật lại tiếp cận từ giác độ khác, giác độ suy tư về con người và
đời người ở tầm chiều sâu triết lí siêu hình đối với những vấn đề nhân sinh quan. Kết
luận về những bản tính vô ngã vô thường và tính hướng thiện của con người trên con
đường truy tìm sự giác ngộ là một trong những kết luận độc đáo của triết học đạo phật
B) Quan niệm về con người trong triết học phương Tây
Trong suốt chiều dài lịch sử triết học phương Tây từ cổ đại Hy Lạp trải qua giai
đoạn trung cổ, phục hưng và cận đại đến nay những vấn đề triết học về con người vẫn là
một đề tài tranh luận chưa chấm dứt nhìn chung các nhà triết học theo lập trường triết
học duy vật đã lụa chọn giác độ tự nhiên để lí giải về bản chất con người và các vấn đề
khác có liên quan. Họ xem con người cũng như vạn vật trong giời tự nhiên không có gì
thần bí đều được cấu tạo nên từ vật chất tiêu biểu là quan điểm của Đemôcrit. Trong
một phạm vi nhất định đó cũng là một trong những tiền đề lí luận của quan niệm duy
vật về con người trong triết học Mac. Đối lập với các nhà triết học duy vật các nhà triết
học duy tâm trong lịch sử triết học phương Tây lại chú trọng giác độ hoạt lí tính của con
người. Tiêu biểu là quan niệm Đêcáctơ trong nền triết học Pháp thời cận đại và Heghen
trong nền triết học cổ điển Đức. Do không đứng trên lập trường duy vật các nhà triết
học đã lí giải bản chất lí tính của con người từ giác độ siêu tự nhiên. Nhìn chung các
quan điểm triết học trước Mac và ngoài macxit còn có hạn chế cơ bản là phiến diện
5
Nguyễn Thị Diệu Huyền
Lớp: A8_TC
trong phương pháp tiếp cận lí giải các vấn đề triết học về con người, cũng do vậy trong
thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm trìu tưởng về bản chất con người và những
quan niệm phi thực tiễn trong lí giải nhân sinh xã hội cũng như những phương pháp
hiện thực nhằm giải phóng con người. Những hạn chế đó đã được khắc phục và vượt
qua bởi quan niệm duy vật biện chứng của triết học Mác -Lenin về con người .
2.Quan điểm triết học mac-lenin về con người
2.1 Con người và bản chất của con người
a. Khái niệm con người
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội, có sự thống nhất biện
chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội
tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người
chính là giới tự nhiên. Vì vậy bản tính tự nhiên phải là một trong những phương diện cơ
bản của con người, loài người. Cũng do vậy, việc nghiên cứu khám phá khoa học về cấu
tạo tự nhiên và nguồn gốc tự nhiên của con người là cơ sở khoa học quan trọng để con
người hiểu biết về chính bản thân mình, tiến đến làm chủ bản thân mình trong mọi hành
vi và hoạt động sáng tạo và lịch sử của nó tức lịch sử nhân loại
-Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau đây:
Thứ nhất, con người là kết quả tiến hoá và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở
khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chũ
nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đacuyn về sự tiến hoá
của các loài.
Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng là
“thân thể vô cơ của con người” . Do đó những biến đổi của giới tự nhiên và tác động
của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con
người và xã hội loài người, nó là môi trường trao đổi vật chất giữa con người với giới tự
nhiên. Ngược lại sự biến đổi và hoạt của con người, loài người luôn luôn tác động trở
lại môi trường tự nhiên, làm biến đổi môi trường đó. Đây chính là mối quan hệ biện
chứng giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên.
Tuy nhiên, con người không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, nó mang
đặc tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là “người” chính là xét trong mối quan
hệ của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng đồng: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc,
nhân loại… Vì vậy bản tính xã hội nhất định phải là một phương diện khác của bản tính
con người, hơn nữa đây là bản tính đặc thù của con người.
-Bản tính xã hội của con người được phân tích từ các giác độ sau đây:
Một là, xét từ giác độ nguồn gốc hình thành con người, loài người thì không phải chỉ
có ngưồn gốc từ sự tiến hoá, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã
hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con
người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hoá và phát triển thành người. Đó là
6
Nguyễn Thị Diệu Huyền
Lớp: A8_TC
một trong những phát hiện mới của chũ nghĩa Mac-Lenin, nhờ đó mà có thể hoàn chỉnh
học thuyết về nguồn gốc loài người mà tất các học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời
giải đáp đầy đủ và đúng đắn
Hai là, xét từ giác độ tồn tại và phát triển của con người, loài người thì sự tồn tại của nó
luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì
mỗi con người cũng do đó mà có sự thay đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của
mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội. ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi
con người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh vật thuần tuý mà không thể là con
người với đầy đủ ý nghĩa của nó.
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất của nó,
quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng
hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó. Vì thế
nếu lí giải bản tính sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ giác độ bản tính tự nhiên
hoặc chỉ từ bản tính xã hội của nó thì đều là phiến diện, không triệt để và nhất định cuối
cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai lầm trong nhận thức và thực tiễn.
b. Bản chất của con người
Trong lịch sử tư tưởng ,nhân loại đã có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất ,
“bản tính người”của con người ,nhưng về cơ bản những quan niệm đó thường là những
quan niệm phiến diện ,trừu tượng và duy tâm thần bí .Trong tác phẩm “Luận cương về
Phoibac ,C.Mác đã phê phán văn tắt những quan niệm đó và xác lập quan niệm mới của
mình : “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng
biệt .Trong tính hiện thực của nó ,bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã
hội .”
Hạn chế căn bản của quan niệm duy vật siêu hình ,trực quan là đã trừu tượng
hoá ,tuyệt đối hoá phương diện tự nhiên của con người ,thường xem nhẹ việc lý giải con
người từ phương diện lịch sư xã hội của nó ,do đó về căn bản chỉ thấy bản tính tự nhiên
của con người .Khác với quan niệm đó ,quan niệm duy vật biện chứng về con người
trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên của con người còn lý giải con người từ giác độ
các quan hệ lịch sử xã hội ,từ đó phát hiện bản tính xã hội của nó .Hơn nữa ,chính bản
tính xã hội của con người là phương diện bản chất nhất của con người với tư cách
“người”phân biệt con người với các tồn tại khác của giới tự nhiên .Như vậy có thể định
nghĩa con người là một thực thể tự nhiên nhưng đó là một thực thể tự nhiên mang đặc
tính xã hội .VËy bản chất con người ,xét trên phương diện tính hiện thực của nó ,chính
là “tổng hoà của các quan hệ xã hội”,bởi xã hội chính là xã hội của con người , được tạo
nên từ toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các mặt kinh tế chính trị văn hoá
…
Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người thì sự phát
triển vµ hình thành của con người cùng những khả năng sáng tạo lịch sử của nó cần
phải được tiếp cận từ giác độ phân tích và lý giải sự hình thành và phát triển của những
7
Nguyễn Thị Diệu Huyền
Lớp: A8_TC
quan hệ xã hội của nó trong lịch sử .Xét từ giác độ nhân chủng học ,tức phương diện
bản tính tự nhiên, “người da đen”vẫn chỉ là người da đen,nhưng chỉ trong quan hệ kinh
tế -chính trị -xãhội xã hội chủ nghĩa,anh ta là “người tự do”,làm chủ và sáng tạo lịch
sử.Như thế,không có một bản chất nô lệ cố hữu và bất biến của người da đen hay da
trắng nó là sản phẩm tất yếu của những quan hệ kinh tế ,chính trị-xã hội trong những
điều kiện lịch sử xác định ,khi những quan hệ này thay đổi thì do đó cũng có sự thay đổi
bản chất của con người.Cũng do vậy ,sự giải phóng bản chất con người cần phải là
hướng vào sự giải phóng những quan hệ kinh tế ,chính trị ,văn hoá,xãhội của nó ,thông
qua đó có thể phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của con người .
Như vậy ,không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với những điều kiện
hoàn cảnh lịch sử nhất định .Cần phải từ quan niệm như vậy mới có thể lý giải đúng đắn
về khả năng sáng tạo lịch sử của con người .Sự hạn chế về năng lực sáng tạo lịch sử của
những con người tiểu nông không thể lý giải từ bản tính tự nhiên của họ mà trái lại càn
phải được lý giải từ giác độ tính hạn chế về trình độ phát triển của các quan hệ kinh tế
,chính trị ,văn hoá của xã hội tiểu nông.Như thế ,con người ,xét từ bản chất của nó ,là
sản phẩm của lịch sử,lịch sử sáng tạo ra con người trong một chừng mực nào thì con
người cũng sáng tạo ra lịch sử trong một chừng mực đó.Đây là biện chứng của mối
quan hệ giữa con người –chủ thể của lịch sử với chính lịch sử do nó tạo ra và đồng thời
lại bị quy định bởi chính lịch sử đó.Từ đó có thể thấy hạn chế cơ bản của quan niệm
duy vật siêu hình về bản chất con người chính là ở chỗ chỉ nhận thấy tính quyết định
của hoàn cảnh lịch sử đối với con người mà không nhận thấy mối quan hệ sáng tạo của
con người trong quá trình cải tạo hoàn cảnh và do đó cũng chính là cải tạo chính bản
thân nó .CMác đã khẳng định : “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là
sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục …cái học thuyết ấy quên rằng chính
những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được
giáo dục”.Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên,Ph.Ăngghen cũng cho rằng : “Thú
vật cũng có một lịch sử ,chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần
dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng.Nhưng lịch sử ấy không phải do
chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều
dó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng .Ngược lại con
người càng cách xa con vật ,hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại
càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội,con người trong hoạt động thực tiễn
,thông qua hoat động thực tiễn ,tác động vào giới tự nhiên ,làm cải biến giới tự nhiên
theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của nó thì đồng thời con người cũng sáng tạo ra lịch
sử của chính nó ,thực hiện sự phát triển của lịch sử đó .
Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mac-Lenin về con người có thể rút ra một
số ý nghĩa phương pháp luận quan trọng sau đây:
Một là,để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì không thể chỉ
đơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn,có tính quyết
8
Nguyễn Thị Diệu Huyền
Lớp: A8_TC
định phải là từ phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế xã hội của
nó.
Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển cuả xã hội chính là năng lực
sáng tạo lịch sử của con người .Vì vậy, phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người,
vì con người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát
triển của xã hội.
Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử
của nó phải là hướng vào s
ự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế-xã hội .Trên ý nghĩa phương pháp
luận đó có thể thấy một trong những giá trị căn bản nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa chính là ở mục tiêu xoá bỏ triệt để các quan hệ kinh tế -xã hội áp bức và bóc lột
,ràng buộc khả năng sáng tạo lịch sử của con người .Thông qua cuộc cách mạng nó
cũng thực hiện sự nghiệp giải phóng toàn nhân loại bằng phương thức xây dựng mối
quan hệ kinh tế -xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa nhằm xác lập và phát
triển một xã hội mà tự do ,sáng tạo của người này trở thành điều kiện cho tự do và sáng
tạo cho người khác .Đó cũng chính là thực hiện triết lý đạo đức nhân sinh cao đẹp nhất
của chủ nghĩa cộng sản : “mỗi người vì mọi người ;mọi người vì mỗi người”.
Chương II
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ
NGHỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA
1. Khái niệm nguồn lực con người
Những nhận thức chung về nguồn nhân lực. Một quốc gia muốn phát triển thì cần
phải có các nguồn lực của sự phát triển linh tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa
học - công nghệ, con người … Trong các nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan
trọng nhất, có tính chất quyết định trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi
quốc gia từ trước đến nay. Một nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy
móc kỹ thuật hiện đại nhưng không có những con người có trình độ, có đủ khả năng
khai thác các nguồn lực đó thì khó có khả năng có thể đạt được sự phát triển như mong
muốn.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và ngày nay trong công cuộc
hội nhập và phát triển nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”, Đảng ta luôn xác định: Nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam
có truyền thông yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng
nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất - nguồn năng lực
nội sinh. Vậy nguồn nhân lực là gì?
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực. Theo Liên Hợp
Quốc thì.“Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và
tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất
nước”.
Ngân hàng thế giới cho rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực,
9
Nguyễn Thị Diệu Huyền
Lớp: A8_TC
trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân. Như vậy, ở đây nguồn lực con người
được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền tệ, công
nghệ, tài nguyên thiên nhiên.
Theo tổ chức lao động quốc tế thì. Nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ
những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động . Nguồn nhân lực được hiểu
theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho
sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực
bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực
là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm
các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất
xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các
yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
Kinh tế phát triển cho rằng: nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong độ tuổi
quy định có khả năng tham gia lao động. nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt:
về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định
của Nhà nước và thời gian lao động có thể huy động được từ họ; về chất lượng, đó là
sức khoẻ và trình độ chuyên môn, kiến thức và trình độ lành nghề của người lao động.
Nguồn lao động là tổng số những người trong độ tuổi lao động quy định đang tham gia
lao động hoặc đang tích cực tìm kiếm việc làm. Nguồn lao động cũng được hiểu trên
hai mặt: số lượng và chất lượng. Như vậy theo khái niệm này, có một số được tính là
nguồn nhân lực nhưng lại không phải là nguồn lao động, đó là: Những người không có
việc làm nhưng không tích cực tìm kiếm việc làm, tức là những người không có nhu cầu
tìm việc làm, những người trong độ tuổi lao động quy định nhưng đang đi học…
Từ những quan niệm trên, tiếp cận dưới góc độ của Kinh tế Chính trị có thể hiểu:
nguồn nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã
hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo
của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần
phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một '' tài nguyên đặc biệt '', một
nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con người, phát triển
Nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các
nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự
phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư cho con người là đầu tư có tinh chiến
lược , là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững.
Cho đến nay, do xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn có nhiều cách
hiểu khác nhau khi bàn về phát triển nguồn nhân lực. Theo quan niệm của Liên hiệp
quốc, phát triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con
người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống.
nguồn nhân lực.
10
Nguyễn Thị Diệu Huyền
Lớp: A8_TC
2. Vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại
hoá.
Có quan điểm cho rằng: Phát triển nguồn nhân lực: là gia tăng giá trị cho con
người, cả giá trị vật chất và tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ năng nghề
nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những năng lực và phẩm chất
mới, cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu to lớn và ngày càng tăng của sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Một số tác giả khác lại quan niệm: Phát triển là quá trình nâng cao năng lực của
con người về mọi mặt: Thể lực, trí lực, tâm lực, đồng thời phân bổ, sử dụng, khai thác
và phát huy hiệu quả nhất nguồn nhân lực thông qua hệ thống phân công lao động và
giải quyết việc làm để phát triển kinh tế- xã hội.
Từ những luận điểm trình bày trên, phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia:
chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt thể lực, trí
lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về
cơ cấu nguồn nhân lực . Nói một cách khái quát nhất, phát triển nguồn nhân lực chính là
quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện con người vì sự tiến bộ kinh tế- xã hội
và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người.
Như vậy, phát triển nguồn nhân lực với nội hàm trên đây thực chất là đề cập đến
vấn đề chất lượng nguồn nhân lực và khía cạnh xã hội của nguồn nhân lực của một
quốc gia
Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một người lao
động cụ thể có trình độ lành nghề ( về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề
cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (Đại học,
trên đại học, cao đẳng, lao động kỹ thuật lành nghề.
Giữa chất lượng NNL và NNL CLC có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong mối
quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nói đến chất lượng NNL là muốn nói đến tổng thể
NNL của một quốc gia, trong đó NNL CLC là bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng, là
nhóm tinh tuý nhất, có chất lượng nhất. Bởi vậy, khi bàn về NNL CLC không thể không
đặt nó trong tổng thể vấn đề chất lượng nguồn nhân lực nói chung của một đất nước.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là NNL phải đáp ứng được yêu cầu của thị
trường ( yêu cầu của các doanh nghiệp trong và ngoài nước), đó là: có kiến thức:
chuyên môn, kinh tế, tin học; có kỹ năng: kỹ thuật, tìm và tự tạo việc làm, làm việc an
toàn, làm việc hợp tác; có thái độ, tác phong làm việc tốt, trách nhiệm với công việc.
Như vậy, NNL CLC cao phải là những con người phát triển cả về trí lực và thể lực, cả
về khả năng lao động, về tính tích cực chính trị- xã hội, về đạo đức, tình cảm trong
sáng. Nguồn nhân lực chất lượng cao có thể không cần đông về số lượng, nhưng phải đi
vào thực chất.
Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri thức
và trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, NNL đặc biệt là NNL CLC ngày
càng thể hiện vai trò quyết định của nó. Các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng,
11
Nguyễn Thị Diệu Huyền
Lớp: A8_TC
một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột
cơ bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao chất
lượng NNL. Trong đó động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững
chính là những con người, đặc biệt là NNL CLC, tức là những con người được đầu tư
phát triển, có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo nhằm trở
thành “nguồn vốn - vốn con người, vốn nhân lực”. Bởi trong bối cảnh thế giới có nhiều
biến động và cạnh tranh quyết liệt, phần thắng sẽ thuộc về những quốc gia có NNL
CLC, có môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư, có môi trường chính trị- xã hội ổn
định.
2. Vai trò nguồn nhân lực chất lượng cao đối với sự phát triển kinh tế- xã hội ta
hiện nay.
Mối quan hệ giữa nguồn lao động với phát triển kinh tế thì nguồn lao động luôn
luôn đóng vai trò quyết định đối với mọi hoạt động kinh tế trong các nguồn lực để phát
triển kinh tế.
Theo nhà kinh tế người Anh , William Petty cho rằng lao động là cha, đất đai
là mẹ của mọi của cải vật chất; C.Mác cho rằng con người là yếu tố số một của LSX.
Trong truyền thống VN xác định ''Hiền tài là nguyên khí của quốc gia ". Nhà tương lai
Mỹ Avill Toffer nhấn mạnh vai trò của lao động tri thức, theo ông ta "Tiền bạc tiêu mãi
cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất; Chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng không
những không mất đi mà còn lớn lên" ( Power Shift-Thăng trầm quyền lực- Avill Toffer)
Thứ nhất là, nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực chính quyết định quá trình
tăng trưởng và phát triển kinh tế- xã hội. Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố
quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác.
Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa
học công nghệ… có mối quan hệ nhân quả với nhau, nhưng trong đó NNL được xem là
năng lực nội sinh chi phối quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. So với
các nguồn lực khác, NNL với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật ở
chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý, còn các
nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác
dụng khi kết hợp với NNL một cách có hiệu quả. Vì vậy, con người với tư cách là
NNL, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội
lực, là nguồn lực chính quyết định quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Ngày nay một quốc gia có thể không giàu về tài nguyên, điều kiện thiên nhiên không
mấy thuận lợi nhưng nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững nếu
hội đủ bốn điều kiện :
+ Một là, quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn.
+ Hai là, quốc gia đó biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó.
+ Ba là, quốc gia đó có đội ngũ công nhân kỹ thuật tay nghề cao và đông đảo.
+ Bốn là, quốc gia đó có các nhà doanh nghiệp tài ba.
12
Nguyễn Thị Diệu Huyền
Lớp: A8_TC
Thứ hai là, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định
sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH; là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến sang
sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào tạo cùng với công nghệ tiên tiến,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội
cao. Đối với nước ta đó là một quá trình tất yếu để phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN.
Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri
thức trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, do đó yêu cầu nâng cao chất
lượng NNL, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước và phát triển bền vững. Đảng ta đã xác định phải lấy việc phát huy chất
lượng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Thứ ba là, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn khoảng cách
tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
nhằm phát triển bền vững.
Thứ tư là, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế, nguồn nhân lực đặc biệt là
nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức lớn.
KẾT LUẬN
13
Nguyễn Thị Diệu Huyền
Lớp: A8_TC
Nói tóm lại với sự ra đời của quan niệm triết học Mac – Lênin lần đầu tiên khái
niệm con người và bản chất của con người được hiểu theo một cách đúng đắn, đầy đủ
và khoa học. Nó đã khắc phục và vượt qua được những hạn chế mà trước đó các quan
niệm của triết học phương Đông và phương Tây đã đưa ra. Đó là “ Con người là một
thực thể thống nhất giữa mặt tư nhiên với mặt xã hội”. Và trong tính hiện thực của nó “
Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”.
Với những quan niệm trên chúng ta thấy rằng việc áp dụng vấn đề xây dựng
nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta thực sự
cần thiết và quan trọng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
14
Nguyễn Thị Diệu Huyền
Lớp: A8_TC
I.Sách sách giáo trình
1. Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac – Lênin ( Nhà xuất bản
Chính Trị Quốc Gia -2009)
2. Giáo trình triết học (Nhà xuất bản Hành Chính –Chính Trị Quốc Gia-2009)
3. Trần Đình Hượu ,Đến hiện đại từ truyền thống (Nhà xuât bản Văn Hoá –Hà Nội
-1996)
4. PGS.Viện sĩ Trần Ngọc Thêm.Cơ sở Văn hoá Việt Nam (Nhà xuất bản Giáo dục
-1999)
II Bài báo
1. Tạp chí khoa học và công nghệ ,DHDN-Số 29(31)-2009
III Trang web
1 www.cdtm.edu.vn
2 www.socbay.com
3 www.tin247.com
4 www .hcmush.edu.vn
5www_kinhtenongthon.com.vn
6 www .diendat.vn
7www.vietthuphap.com
15
Nguyễn Thị Diệu Huyền
Lớp: A8_TC
16
- Xem thêm -