Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quan điểm của gia long và minh mạng về xây dựng, quản lý đội ngũ quan lại (1802 ...

Tài liệu Quan điểm của gia long và minh mạng về xây dựng, quản lý đội ngũ quan lại (1802 – 1841)

.DOC
170
50
126

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HỒ NGỌC ĐĂNG QUAN ĐIỂM CỦA GIA LONG VÀ MINH MẠNG VỀ XÂY DỰNG, QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ QUAN LẠI (1802-1841) Ngành: Triết học Mã số: 9229001 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Tài Đông HÀ NỘI - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, luận án là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, rõ ràng và có nguồn gốc cụ thể. Kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả Hồ Ngọc Đăng MỤC LỤC MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................................1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI...................6 1.1. Các tài liệu nghiên cứu về những điều kiện, tiền đề khách quan và nhân tố chủ quan cho sự hình thành quan điểm của vua Gia Long và Minh Mạng (1802-1841) về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại................6 1.2. Các công trình liên quan đến việc nghiên cứu những nội dung cơ bản trong quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng, quản lý đội ngũ quan lại (1802-1841) và việc thực thi quan điểm đó đương thời..........15 1.3. Các công trình nghiên cứu đề cập đến giá trị, hạn chế và bài học lịch sử từ quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng, quản lý đội ngũ quan lại (1802-1841) đối với công tác cán bộ ở nước ta hiện nay.......22 1.4. Đánh giá khái quát về tình hình nghiên cứu đề tài và một số vấn đề đặt ra từ tổng quan các công trình khoa học liên quan đến đề tài cần được tiếp tục giải quyết trong luận án.............................................................................28 Chƣơng 2: CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN ĐIỂM CỦA VUA GIA LONG VÀ MINH MẠNG VỀ XÂY DỰNG, QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ QUAN LẠI..............................................................................................................................................32 2.1. Khái niệm quan lại và quan lại triều Nguyễn dưới thời Gia Long và Minh Mạng (1802 – 1841)..............................................................................................32 2.2. Những điều kiện, tiền đề khách quan cho sự hình thành quan điểm của Gia Long và Minh Mạng trong lĩnh vực xây dựng và quản lý quan lại.....36 2.3. Nhân tố chủ quan trong sự hình thành quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng, quản lý đội ngũ quan lại................................................68 Chƣơng 3: NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG QUAN ĐIỂM CỦA GIA LONG VÀ MINH MẠNG VỀ XÂY DỰNG, QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ QUAN LẠI (1802-1841) VÀ SỰ THỰC HIỆN QUAN ĐIỂM ĐÓ ĐƢƠNG THỜI........................................................................................................74 3.1. Những nội dung chủ yếu trong quan điểm của vua Gia Long về xây dựng, quản lý đội ngũ quan lại...................................................................................75 3.2. Những nội dung chủ yếu trong quan điểm của vua Minh Mạng về xây dựng, quản lý đội ngũ quan lại..................................................................................79 3.3. Việc thực hiện các quan điểm của vua Gia Long và vua Minh Mạng về xây dựng, quản lý đội ngũ quan lại..............................................................86 Chƣơng 4: GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ TRONG QUAN ĐIỂM CỦA GIA LONG VÀ MINH MẠNG VỀ XÂY DỰNG, QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ QUAN LẠI VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ CỦA NÓ........................................................114 4.1. Một số giá trị, hạn chế trong quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng, quản lý đội ngũ quan lại (1802 – 1841)..........................114 4.2. Bài học lịch sử từ quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng, quản lý đội ngũ quan lại (1802 – 1841) đối với công tác cán bộ nước ta hiện nay.........................................................................................................................132 KẾT LUẬN..........................................................................................................................................147 CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN...........................................................................151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................152 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thực tiễn lịch sử hàng ngàn năm đã chứng tỏ một điều hết sức rõ ràng rằng, việc xây dựng và quản lý quan lại dưới chế độ phong kiến trước đây hay đội ngũ cán bộ hiện nay là một trong những yêu cầu có tính quyết định đến tồn vong đối với bất cứ một triều đại, chế độ chính trị nào. Nếu xây dựng được một đội ngũ quan lại hay cán bộ đủ về số lượng, tinh anh về trí tuệ, mẫn cán trong công việc, trong sạch về đạo đức, liêm chính, sẽ góp phần quan trọng cho việc điều hành đất nước của giới cầm quyền,đồng thời đảm bảo được quyền và lợi ích cho nhân dân. Ngược lại, nếu giai cấp thống trị không chú trọng đến hoặc không xây dựng được đội ngũ quan lại đáp ứng yêu cầu trị nước thì đất nước sẽ ngày càng lụi tàn, dân chúng bất bình, xã hội loạn lạc. Do đó không phải ngẫu nhiên mà Thân Nhân Trung (1419-1499) trong văn bia dựng ở Quốc Tử Giám thành Thăng Long từng nói: “... Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống” [166]. Nhân tài thời nào cũng cần cho sự phát triển của quốc gia, cho nên Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Nhà nước cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài” [72, tr.452]. Đảng ta cũng xác định rằng: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị” [154, tr.5]. Năm 1802, Gia Long lập ra triều Nguyễn trong bối cảnh đất nước mới trải qua nội chiến kéo dài nhiều năm giữa hai thế lực Trịnh - Nguyễn, tiếp đến là cuộc chiến tranh giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn. Các cuộc nội chiến đó đã gây ra hậu quả nghiêm trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đến lượt mình, triều Nguyễn cần phải giải quyết. Đất nước Việt Nam từ đó được thống nhất trên lãnh thổ rộng lớn, điều đó lại đặt ra cho triều Nguyễn một thách thức không nhỏ, đó là phải làm thế nào để xây dựng và kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương; nguồn nhân lực đảm nhiệm việc vận hành bộ máy đó như thế nào để duy trì sự thống trị của triều đại và nhân dân được sống yên ổn. Bên cạnh đó, tình hình thế giới và khu vực đang có những biến động, gây ra các yếu tố bất lợi đe dọa đến sự tồn vong 1 của triều Nguyễn và chủ quyền của đất nước. Đây chính là những yêu cầu đặt ra cho Gia Long cần phải xây dựng bộ máy hành chính mạnh với đội ngũ quan lại tài đức, thân tín để cùng hoàng đế gánh vác trọng trách lịch sử giao phó. Là một vị vua đã kinh qua trận mạc, trong quá trình điều hành đất nước, vua Gia Long đã rất nhạy bén trong việc xây dựng bộ máy hành chính và đội ngũ quan lại đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Tiếp nối thành quả của vua cha để lại, Minh Mạng lên nắm quyền điều hành đất nước với những yêu cầu cấp bách cần phải củng cố mạnh hơn nữa nền quân chủ chuyên chế. Đặc biệt là mô hình chính quyền “quân quản” tạm thời và cơ chế “tản quyền” dưới triều Gia Long đã trở nên bất cập, tình hình kinh tế, chính trị - xã hội đang có những diễn biến phức tạp, do đó Minh Mạng nhận thức rất rõ việc cấp bách hơn bao giờ hết là cần phải cải cách bộ máy hành chính một cách mạnh mẽ hơn. Điều đó đương nhiên sẽ kéo theo việc xây dựng đội ngũ quan lại đủ tài đức, mẫn cán và trung quân phù hợp với nhu cầu của bộ máy hành chính đó. Như vậy, nguyên nhân dẫn đến cuộc cải cách hành chính trên cả nước vào những năm 1831-1832, là cần làm tinh gọn bộ máy nhà nước,tuyển dụng và bổ nhiệm quan lại đáp ứng yêu cầu của các định chế hành chính và quân sự đương thời. Trước yêu cầu của tồn tại xã hội mà cụ thể là tồn tại chính trị của đất nước đương thời, hai vị vua Gia Long và Minh Mạng (1802-1841) đã xây dựng được quan điểm về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại do sự đòi hỏi của thực tiễn đời sống chính trị - xã hội, vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt về củng cố nền quân chủ chuyên chế, xây dựng đế quyền và bảo vệ lãnh thổ và chăm lo cho dân chúng, vừa có tính vượt trước để ứng phó về lâu dài khi có những biến cố chính trị - xã hội có thể xẩy ra trong tương lai để duy trì sự thống trị bền vững của triều đại. Lịch sử cho thấy, chính sự nhạy bén đó của Gia Long và Minh Mạng đã giúp cho triều Nguyễn đạt được những thành tựu lớn trên nhiều lĩnh vực mà ngày nay sử sách vẫn còn ghi nhận. Đặc biệt, qua nghiên cứu kết quả của các cuộc hội thảo khoa học về triều Nguyễn trong vài thập niên trở lại đây cho thấy trong việc đánh giá triều đại này đã có nhiều quan điểm khách quan, khoa học hơn trước, tức là sự thẩm định về thành tựu 2 cũng như hạn chế của triều Nguyễn đúng với thực tế lịch sử trong gần thế kỷ rưỡi tồn tại của nó. Tuy nhiên, trong những năm qua, việc nghiên cứu cơ sở cho việc hình thành các quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại chủ yếu được thực hiện từ góc độ Sử học, nghĩa là trên thực tế việc nghiên cứu đó vẫn chưa đầy đủ và thiếu cách tiếp cận từ góc độ triết học. Bởi lẽ, chỉ với cách tiếp cận triết học đến tồn tại chính trị của triều Nguyễn đương thời mới làm rõ được những vấn đề cốt lõi của nó như: chế độ quân chủ trung ương tập quyền của triều Nguyễn được xây dựng trên cơ sở nào? Tại sao triều Nguyễn phải thực hiện bước quá độ từ chế độ quân quản sang quân chủ chuyên chế dựa trên nền tảng tư tưởng Nho giáo? Thực chất vấn đề con người trong lĩnh vực xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại là gì? Nội dung và cách thức thực thi quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại ra sao? Hiệu quả và những hạn chế trong việc thực thi quan điểm đó như thế nào? Có hay không trong quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại những ý nghĩa mà chúng ta có thể khái quát thành bài học cho công tác cán bộ ở nước ta hiện nay? V.v. Với mục đích “ôn cố tri tân”, chúng tôi khẳng định rằng, việc nghiên cứu quan điểm xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại dưới triều Gia Long và Minh Mạng sẽ đem lại cho chúng ta bài học kinh nghiệm quý báu trong công tác cán bộ nước ta hiện nay. Điều này càng trở nên cấp thiết hơn, khi hiện nay các vấn đề tiêu cực đang xẩy ra ngày một phức tạp, tinh vi trong đội ngũ cán bộ công chức nhà nước, thậm chí trong số đó có những cán bộ cao cấp của Đảng, chính họ đã và đang làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào Đảng cũng như sự tồn vong của chế độ. Chính vì vậy, ngoài việc quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, coi “cán bộ là gốc của mọi công việc” và “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém” [73,tr. 269, 273], thiết nghĩ cần tham khảo quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại với tư cách kinh nghiệm lịch sử để cán bộ công chức nước ta không chỉ là những “công bộc của dân”, 3 mà còn là những người có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức trong việc hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Với những vấn đề cấp thiết nêu trên, chúng tôi chọn đề tài “Quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng, quản lý đội ngũ quan lại (18021841)” cho luận án tiến sĩ triết học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án 2.1. Mục đích Luận án góp phần làm rõ quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại, từ đó chỉ ra những giá trị, hạn chế và rút ra bài học lịch sử từ quan điểm đó đối với công tác cán bộ ở nước ta hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ Để thực hiện mục đích nêu trên, luận án cần giải quyết các nhiệm vụ sau: Thứ nhất, luận án phân tích, làm rõ những điều kiện, tiền đề khách quan và nhân tố chủ quan cho sự hình thành quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại. Thứ hai, phân tích, trình bày nghiên cứu những nội dung cơ bản trong quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại. Thứ ba, rút ra ý nghĩa và bài học lịch sử từ quan điểm về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại của triều Nguyễn dưới thời trị vì của Gia Long và Minh Mạng đối với công tác cán bộ ở nước ta hiện nay 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng Đối tượng nghiên cứu của luận án là quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng, quản lý đội ngũ quan lại triều Nguyễn (1802 – 1841). 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài là toàn bộ những điều kiện, tiền đề khách quan và nhân tố chủ quan hình thành nên quan điểm của vua Gia Long và Minh Mạng về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại cũng như cách thức thực hiện quan điểm đó trong lịch sử triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1841. Trên cơ sở đó, luận án bước đầu đưa ra sự đánh giá khách quan ý nghĩa và bài học lịch sử của các quan điểm đó đối với công tác cán bộ ở nước ta hiện nay. 4 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Đề tài luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của triết học chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về lĩnh vực triết học chính trị (quản lý nhà nước, đạo đức và văn hóa công vụ, v.v.). 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án vận dụng phương pháp luận của triết học Mác – Lênin,sử dụng phương pháp phân tích – tổng hợp, so sánh – đối chiếu, hệ thống hóa, khái quát hóa, kết hợp logic với lịch sử, v.v., đồng thời chú trọng cách tiếp cận liên ngành, chủ yếu là các ngành khoa học xã hội và nhân văn như: Chính trị học, Sử học, Luật học, Xã hội học, v.v. 5. Cái mới của luận án Luận án làm rõ một số nội dung, đặc điểm, giá trị và hạn chế trong quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng, quản lý đội ngũ quan lại triều Nguyễn (1802 – 1841), đồng thời rút ra bài học lịch sử của quan điểm đó đối với công tác cán bộ ở nước ta hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Trên cơ sở phân tích, làm rõ khái niệm, nguồn gốc và một số nội dung cơ bản trong quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng, quản lý đội ngũ quan lại triều Nguyễn (1802 – 1841), luận án án chỉ ra một số đóng góp về mặt lý luận của quan điểm đó trong đường lối trị nước của hai vị vua đầu triều này. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận án làm rõ vai trò của quan điểm về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại của Gia Long và Minh Mạng, do đó những kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho những người quan tâm nghiên cứu về triều Nguyễn nói chung, vấn đề quan lại triều Nguyễn và công tác cán bộ nước ta hiện nay nói riêng. 7. Kết cấu của luận án Luận án có kết cấu gồm 4 chương 12 tiết. 5 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Cho đến nay, có thể nói đã có khá nhiều công trình khoa học ở mức độ khác nhau nghiên cứu về triều Nguyễn nói chung và bộ máy hành chính, quá trình xây dựng, quản lý đội ngũ quan lại của triều Nguyễn trong thời kỳ trị vì của hai vua đầu triều là Gia Long và Minh Mạng (1802-1841) nói riêng. Tuy nhiên, đề tài luận án chỉ tập trung tham khảo các công trình nghiên cứu đã được công bố về những điều kiện, tiền đề khách quan và nhân tố chủ quan cho sự hình thành và thực thi quan điểm của hai vị vua đầu triều này về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại; những nội dung cơ bản và cách thức triển khai quan điểm đó trong đời sống chính trị - xã hội Việt Nam đương thời; ý nghĩa và bài học lịch sử trong quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại đối với công tác cán bộ nước ta hiện nay. Từ nhu cầu tìm hiểu các quan điểm trong các công trình khoa học của các học giả đi trước, chúng tôi tạm phân định các hướng nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án để tiện cho việc đánh giá, tiếp thu cũng như chỉ ra những vấn đề cần được tiếp tục làm rõ trong luận án này. 1.1. Các tài liệu nghiên cứu về những điều kiện, tiền đề khách quan và nhân tố chủ quan cho sự hình thành quan điểm của vua Gia Long và Minh Mạng (1802-1841) về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại Nghiên cứu các tài liệu, các công trình khoa học đã được công bố liên quan đến đề tài là hết sức cần thiết để tìm ra căn cứ với tư cách những tiền đề khách quan và yếu tố chủ quan góp phần hình thành nên quan điểm của hai vị vua đầu triều Nguyễn về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại của triều đình. Tiền đề khách quan chính là bối cảnh lịch sử của đất nước và tình hình khu vực dẫn đến tính tất yếu của sự ra đời triều Nguyễn với hệ thống chính trị của nó, đặc biệt là bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế phương Đông được thiết lập từ trung ương đến địa phương mà ở đó, các hàm phẩm quan lại với nhiệm vụ đảm trách được phân định rõ ràng nhằm duy trì sự cai trị có hiệu quả của triều đình. Yếu tố chủ quan được các công trình đề cập tới chính là sự lựa chọn mô hình nhà nước quân chủ chuyên chế và năng lực của hai vị vua 6 đầu triều trong việc xác định quan điểm của mình về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại cũng như thực thi quan điểm đó. Trần Trong Kim từ năm 1919 – 1921 đã cho ra mắt cuốn Việt Nam sử lược; được Nxb Văn hóa Thông tin ấn hành năm 1999 [62]. Trong cuốn sách này, tác giả đã trình bày khái lược về các triều đại phong kiến Việt Nam, trong đó có triều Nguyễn. Kỳ vọng của tác giả là kê cứu các sự kiện lịch sử sao “cho tường tận” và chân thực, tránh sự nhận định chủ quan cũng như thiên sự thiên vị của người làm sử. Cuốn Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục Hà Nội ấn hành năm 1999 do Trương Hữu Quýnh (chủ biên) và các tác giả khác là Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh [110]. Trong công trình này, cụ thể là chương XIV cuốn sách đề cập đến tình hình Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX gồm các vấn đề về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Cho đến thời điểm cuốn sách này được ấn hành, ở nước ta đã có một số bộ sử, song có thể nói, đây là công trình khái quát một cách ngắn gọn nhất về tình hình nhà Nguyễn trong lĩnh vực tổ chức chính quyền từ trung ương tới địa phương, khi tình hình thế giới có nhiều biến động lớn do sự phát triển và bành trướng của chủ nghĩa tư bản phương Tây sang phương Đông, làm cho một số nước rơi vào ách đô hộ của thực dân, trong đó có Việt Nam. Cuốn sách đã cung cấp cho chúng ta bức tranh chung khá rõ nét về bối cảnh lịch sử cung như các tiền đề cơ bản cho sự hình thành quan điểm của vua Gia Long và Minh Mạng về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại của triều Nguyễn đương thời. Tuy nhiên, khi đề cập đến Nho giáo với tư cách là bệ đỡ hệ tư tưởng của triều Nguyễn, cuốn sách chưa làm rõ vai trò của Nho giáo đối với các lĩnh vực đời sống của xã hội tới mức nào, thậm chí còn ghép nó vào mục tôn giáo tín ngưỡng, do đó những hệ lụy mà nhà Nguyễn gặp phải trong nửa cuối thế kỷ XIX có phải là bởi Nho giáo hay không lại chưa có lời giải đáp. Cuốn Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn do Trương Hữu Quýnh – Đỗ Bang chủ biên, các tác giả Vũ Minh Giang, Vũ Văn Quân và Nguyễn Quang Trung Tiến, Nxb Thuận Hóa, Huế năm 1997 [111], đã đề cập đến vấn đề căn bản của kinh tế triều Nguyễn là sở 7 hữu ruộng đất. Cụ thể, công trình này đã nghiên cứu địa bạ, tình hình ruộng đất nông nghiệp cũng như đời sống nông dân Việt Nam dưới triều Nguyễn. Sở hữu ruộng đất dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX gồm có hai loại, đó là sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân. Vào đầu thế kỷ XIX, Gia Long và Minh Mạng đã coi đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu để phát triển nền kinh tế, do đó việc khai hoang, mở rộng diện tích canh tác, đặc biệt là ở các vùng Nam bộ được chú trọng và đẩy mạnh. Nhà Nguyễn đã coi việc mở rộng hai loại hình thức đồn điền (trại đồn điền do binh lính khai hoang và hậu đồn điền do dân khai hoang) để kết hợp giữa kinh tế với an ninh quốc phòng. Ở Bắc bộ thời Minh Mệnh có hình thức dinh điền, tức là đất khai hoang vùng duyên hải với hai huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình) do Nguyễn Công Trứ chỉ huy đã làm cho diện tích đất canh tác nông nghiệp tăng đáng kể. Có thể nói, công trình này là tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu tình hình kinh tế, chính trị, xã hội thời kỳ đầu thế kỷ XIX trong văn cảnh nhà Nguyễn đã chỉ đạo và quản lý quan lại thực hiện chủ trương của nhà nước như thế nào và hiệu quả ra sao. Cuốn Những vấn đề lịch sử và văn chương triều Nguyễn, do Trần Hữu Duy, Nguyễn Phong Nam làm chủ biên, Nxb Giáo dục ấn hành năm 1997 [25], là tập hợp gồm 26 bài nghiên cứu về triều Nguyễn với cách nhìn, những kiến giải khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về các vấn đề như: Triều Nguyễn và xã hội Việt Nam thế kỷ XIX của Nguyễn Phan Quang; Về tư tưởng “thực tiễn” và tư tưởng “giáo điều” của triều Nguyễn của Bửu Nam; Minh Mạng với hai tư tưởng chính trị lớn của ông: củng cố nền thống nhất quốc gia và yên dân của Nguyễn Minh Tường; Mấy vấn đề phương pháp luận nghiên cứu triều Nguyễn của Trương Hữu Quýnh, v.v., đều là những nội dung bổ ích cho việc tham khảo trong quá trình thực hiện luận án của chúng tôi. Cuốn Một số vấn đề về quan chế triều Nguyễn của các tác giả Phan Đại Doãn, Nguyễn Minh Tường, Hoàng Phương, Lê Thành Lân, Nguyễn Ngọc Quỳnh, Nxb Thuận Hóa, Huế 1998 [19] đã đề cập đến vấn đề quan chế với tư cách là một trong những nội dung quan trọng của các triều đại phong kiến trong việc xây dựng và củng cố vương triều, xây dựng đường lối trị nước trên 8 cơ sở thực thi các chủ trương chính sách của Hoàng đế, triều đình. Theo các tác giả, “quan chế phản ánh trình độ tổ chức, tầm nhìn, sự sáng tạo, canh tân hay bảo thủ, trì trệ của một chế độ với thời đại mà yêu câu lịch sử, đất nước đó đang đặt ra” [19, tr.5]. Cuốn sách đã đề cập đến mô hình tổ chức nhà nước quân chủ triều Nguyễn trên cơ sở tham khảo các mô hình nhà nước quân chủ Đại Việt và Minh Thanh (Trung Quốc), trong đó nhấn mạnh đến vai trò của Nho giáo với tư cách là trụ đỡ hệ tư tưởng cho triều đại từ việc thiết lập bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương cho tới việc điều hành sự hoạt động của bộ máy đó. Lê Sĩ Thắng với cuốn Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 2, Nxb Khoa học xã hội ấn hành năm 1997 [117] bước đầu phân tích những hệ lụy nêu trên và đi đến nhận định cho rằng, tư tưởng bảo thủ, phản động của triều Nguyễn về thực chất là do đề cao Nho giáo, cụ thể là đề cao tư tưởng “Nội Hạ ngoại Di” của truyền thống Trung Hoa, dẫn đến các chính sách “bế quan tỏa cảng”, “trọng nông ức thương”, v.v. Quan điểm của tác giả công trình này về thực chất, vẫn chưa có gì mới bởi khi đó, giới Sử học cũng như ở nhiều lĩnh vực khác của khoa học xã hội và nhân văn ít nhiều vẫn còn mang tính định kiến, chủ quan về triều Nguyễn, coi đó là một triều đại “cõng rắn cắn gà nhà”. Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Nxb Thế giới, Hà Nội, năm 2008 [18]. Hội thảo được tổ chức vào tháng 10 năm 2008 tại Thanh Hóa, tại đây nhiều vấn đề về chúa Nguyễn và triều Nguyễn được đặt ra, trước hết là xuất phát từ yêu cầu về tính khoa học, khách quan của sử học, như GS. Phan Huy Lê trong Báo cáo đề dẫn của mình đã nói: “Nhận thức lịch sử là một quá trình tiến tới tiếp cận lịch sử một cách càng ngày càng khách quan, trung thực, gần với sự thật lịch sử nhất trong khả năng của các nhà sử học… Khả năng này tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố, trước hết là năng lực của nhà sử học biểu thị ở trình độ lý thuyết và phương pháp luận cách tập hợp và xử lý các nguồn thông tin, mặt khác, là cách nhìn và động cơ của nhà sử học liên quan đến những tác động chi phối hay ảnh hưởng của bối cảnh chính trị của mỗi thời kỳ lịch sử” [18, tr.11]. Xuất phát từ yêu cầu đó, nhiều vấn đề về phương pháp luận 9 nghiên cứu các vấn đề chính trị - xã hội Việt Nam thời Nguyễn được đề xuất, đặc biệt là đường lối cai trị của triều Nguyễn với quan điểm và cách thức quản lý đội ngũ quan lại đương thời là những vấn đề được chúng tôi hết sức quan tâm trong quá trình thực hiện luận án của mình từ góc độ tiếp cận triết học. Nghiên cứu về triều Nguyễn, nhất là bộ máy hành chính và đội ngũ quan lại của triều Nguyễn có khá nhiều công trình, trong đó phải kể đến những công trình của các học giả như Nguyễn Minh Tường, Đỗ Bang. Trong những năm 1995-1997, Đỗ Bang đã chủ biên công trình “Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn (1802-1884)” (thuộc đề tài độc lập cấp Nhà nước về triều Nguyễn) và công trình này được Nhà xuất bản Thuận Hóa xuất bản năm 1997 [6]. Trong công trình này tác giả đã dành một phần khái quát về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy và hệ thống quan lại từ trung ương đến địa phương dưới triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1884,được chia thành 2 phần: tổ chức chính quyền trung ương và bộ máy hành chính địa phương. Trong đó, ở phần tổ chức bộ máy nhà nước trung ương, tác giả đã khát quát khá đầy đủ về hệ thống các cơ quan trực thuộc hoàng đế, hệ thống tổ chức bộ máy, nhân sự, nhiệm vụ của các bộ, các nha, v.v. Về bộ máy hành chính địa phương, tác giả chia làm 2 thời kỳ là trước (1802-1830) và sau cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng (1831-1884) [6]. Tiếp đến, năm 1998, tác giả Đỗ Bang cho ra mắt cuốn Khảo cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn: những vấn đề đặt ra hiện nay[7]. Tại chương II công trình này đã trình bày một cách khá hệ thống về nguyên lý cai trị của triều Nguyễn và tổ chức bộ máy từ trung ương đến địa phương,gồm các vấn đề về nguyên lý cai trị, quan chế và các khoa thi tiến sĩ. Công trình đã khái quát được những thành tựu cũng như hạn chế của triều Nguyễn trong việc tổ chức và điều hành bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương mà bộ máy đó về thực chất là sự tích hợp cách tổ chức cũng như phương pháp cai trị trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam trước đó cũng như của các triều đại phong kiến Minh, Thanh của Trung Quốc. Với quan điểm trị nước của chế độ phong kiến trung ương tập quyền dựa trên nền tảng Nho giáo, triều Nguyễn không thể tránh được những sai lầm lịch sử về tính bảo thủ, xa rời 10 thực tế dẫn đến sự yếu kém và liên tục trượt dốc trước các vấn đề chính trị xã hội trong nước cũng như tình hình thế giới và khu vực lúc bấy giờ. Cuốn Lịch sử nhà Nguyễn một cách tiếp cận mới, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 2011 [68], là tập hợp các bài nghiên cứu về triều Nguyễn, đặc biệt là phần đánh giá “công”, “tội” của triều Nguyễn trên cơ sở khoa học, khách quan và công bằng. Trong công trình này, nhiều vấn đề mới mang tính phương pháp luận Sử học nghiên cứu về triều Nguyễn, tuy nhiên mức độ khái quát lý luận từ góc độ triết học về vấn đề chủ quan và khách quan của đường lối trị nước mà trong đó, quan điểm xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại chưa được rõ. Nguyễn Minh Tường với cuốn Tổ chức bộ máy nhà nước quân chủ Việt Nam (Từ năm 939 đến năm 1884), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015 [141]. Cuốn sách được in khổ lớn với số lượng trên 900 tr., trong các chương III, IV, V, VI, VII,VIII, IX, X, tác giả đã chú trọng phân tích việc tổ chức chính quyền trung ương và địa phương, tổ chức quân đội, việc ban hành luật pháp và thực thi pháp luật, thiết lập các cơ quan kiểm ra, giám sát bộ máy nhà nước, cách tuyển bổ quan lại và lệ phong tước, về nhiệm vụ và quyền lợi của các quan lại, vấn đề khảo khóa, thưởng phạt và chế độ hưu trí của quan lại. Có thể nói, cuốn sách đã đề cập đến hầu hết các vấn đề liên quan đến xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại, do đó, nó trở thành căn cứ cần thiết cho việc nghiên cứu đề tài của chúng tôi. Trong số các công trình bàn về năng lực chủ quan của Gia Long và Minh Mệnh phải kể đến cuốn Ngoại giao giữa Việt Nam và các nước phương Tây dưới triều Nguyễn (1802-1858) của tác giả Trần Nam Tiến, Nxb Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh năm 2006 [132].Cuốn sách gồm 4 chương trình bày về đường lối đối ngoại của triều Nguyễn với các nước phương Tây, trong đó có chương 2 và chương 3 đề cập đến chính sách đối ngoại của Gia Long (18021820) và Minh Mạng (1820-1840). Chính sách đối ngoại của hai vị vua đầu triều Nguyễn đã thể hiện khá rõ nét năng lực chủ quan của họ, bởi lẽ từ trước tới nay, khi đánh giá về Gia Long, các nhà khoa học thường nhắc đến tội lớn của ông là “cõng rắn cắn gà nhà”, song trên thực tế, theo tác giả cuốn sách 11 này, “trong bối cảnh các nước phương Tây đang tăng cường tiếp xúc với Việt Nam, Gia Long đã tìm cách tránh né quan hệ chính thức với các nước này, và thực tế ông là người đã đặt nền móng cho một đường lối đối ngoại “tự thủ”, “khép kín”, mang tính chất không phương Tây” [132, tr.8]. Còn Minh Mạng trong chính sách ngoại giao của mình với các nước phương Tây lại tỏ ra cứng rắn hơn vua cha, cụ thể “các vấn đề “hạn thương” và “sát đạo” dưới triều Minh Mạng đã ảnh hưởng rất nhiều đến quan hệ quốc tế của Việt Nam… [đưa] chủ trương “bế quan tỏa cảng” của Gia Long trở thành quốc sách”. Hạn chế của các chính sách ngoại giao đương thời rõ ràng là khó tránh khỏi bởi đó là những chính sách “tình thế” trước sự bành trướng ngày càng mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản phương Tây sang phương Đông, song qua chính sách đối ngoại, chúng ta thấy rõ năng lực chủ quan của hai vị vua này thật đáng ghi nhận. Không chỉ trong lĩnh vực đối ngoại, trong chính sách đối nội, đặc biệt là trong việc thiết lập vương triều với bộ máy quan liêu ngày càng hoàn thiện từ trung ương đến địa phương cũng cho thấy tài năng của họ được thể hiện khá rõ nét. Điều này được phản ánh trong các công trình nghiên cứu mà chúng tôi đã nêu ở trên, đặc biệt là trong cuốn Định chế hành chính và quân sự triều Nguyễn (1802-1885) do Huỳnh Công Bá làm chủ biên [4]. Trong công trình này, tác giả đưa ra nhận định cho rằng, “Triều Nguyễn ra đời và tồn tại trong một bối cảnh chính trị - xã hội đặc biệt của đất nước và trong tình hình thế giới có nhiều biến chuyển phức tạp. Với nỗ lực to lớn của mình, vương triều Nguyễn đã đóng góp nhiều mặt cho lịch sử dân tộc, từ tổ chức về nhà nước, đến phát triển về kinh tế, xây dựng về văn hóa và bang giao với các quốc gia láng giềng” [4, tr.57] Cũng trong cuốn Việt Nam sử lược[62], Trần Trọng Kim đã đề cập đến năng lực chủ quan của hai vị vua đầu triều Nguyễn, cụ thể đối với “vua thế tổ” (Nguyễn Ánh) được tác giả ca ngợi là “ông vua có tài trí, rất khôn ngoan, trong 25 năm trời, chống nhau với Tây Sơn, trải bao nhiêu lần hoạn nạn, thế mà không bao giờ ngã lòng, cứ một niềm lo sự khôi phục. Ngài lại có cái đức tính rất tốt của những kẻ lập nghiệp lớn, là cái đức tính biết chọn người mà dùng, khiến cho những kẻ hào kiệt ai cũng nức lòng mà theo giúp” [62, 12 tr.451]. Tuy nhiên, tác giả cũng đề cập đến những mặt trái của Gia Long, chẳng hạn khi nói đến công lao của vị vua này, Trần Trọng Kim cho rằng: “Công nghiệp của ngài thì to thật, tài trí của ngài thì cao thật, những chỉ hiềm có một điều là khi công việc xong rồi, ngài không bảo toàn cho những công thần, mà lại lấy những chuyện nhỏ nhặt đem giết hại những người có công với ngài, khiến cho hậu thế ai xem đến những chuyện ấy, cũng nhớ đến vua Hán Cao, và lại thở dài mà thương tiếc cho những người ham mê hai chữ công danh về đời áp chế ngày xưa” [62, tr. 451] Với Minh Mạng, cũng trong tác phẩm này, Trần Trọng Kim đã ca ngợi ông “là một ông vua có tư chất minh mẫn, có tính hiếu học và lại hay làm; phàm có việc gì, ngài cũng xem xét đến, và có châu phê rồi mới được thi hành” [62, tr.452]. Công lao của Minh Mạng trong các lĩnh vực cải cách giáo dục, hành chính và điều hành đất nước rất to lớn, song bên cạnh những nhận định về tài trí và công lao của vị vua này, Trần Trọng Kim còn cho rằng, “cái nghĩa vụ của người làm sử, tưởng nên kê cứu cho tường tận, rồi cứ sự thực mà nói, chứ không nên lấy lòng yêu ghét của mình mà xét đoán. Dẫu người mình ghét mà có làm điều phải, mình cũng phải khen; người mình yêu mà có làm điều trái, mình cũng phải chê. Vua Thánh tổ là một ông vua chuyên chế, tất thế nào cũng có nhiều điều sai lầm và có nhiều điều tàn ác, nhưng xét cho kỹ, thì thật ngài cũng có lòng vì nước lắm” [62, tr.454]. Ngoài ra, trong số các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài đã được dịch ra tiếng Việt gần đây phải kể đến cuốn sách của Yoshiharu Tshuboi nhan đề: Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Hội Sử học Việt Nam, Hà Nội, 1993 [153]. Trong cuốn sách này tác giả đã tập trung phân tích những đặc điểm về chính trị - xã hội, kinh tế của Đại Nam và khó khăn mà nước Đại Nam phải đối mặt trước sự xâm lược của Pháp và Trung Hoa trong nửa cuối thế kỷ XIX. Đồng thời tác giả đưa ra sự so sánh nước Nhật thời Minh Trị với thời Tự Đức, một bên giữ vững được lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, còn Đại Nam thì thất bại. Cuốn sách của Emmanuel Poisson: Quan và lại ở miền Bắc Việt Nam – một bộ máy hành chính trước thử thách (1820-1918) do Đào Hùng và Nguyễn Văn Sự dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội, 13 2018, đã nêu những tiêu chí của quan và lại, khảo cứu khá đầy đủ cách thức đào tạo và thi tuyển, sử dụng quan và lại dưới triều Nguyễn từ năm 18201918, trong đó có 21 năm dưới sự trị vì của vua Minh Mạng (1820-1841)[35]. Tuy nghiên cứu với diện rộng về khu vực Đông Nam Á, tác giả Hall D.G.E. với cuốn Lịch sử Đông Nam Á, do Nxb Chính trị quốc gia ấn hành năm 1997 cho chúng ta nhận biết bức tranh toàn cảnh sinh động về lịch sử hình thành và phát triển của các quốc gia Đông Nam Á, về quá trình đấu tranh xây dựng các quốc gia thống nhất ổn định như ngày nay trong khu vực này. Mặc dù một số nội dung của cuốn sách khác với đánh giá của chúng ta, kể các các tư liệu và sự kiện mà tác giả sử dụng chưa khớp với những tư liệu hiện có của chúng ta, song có thể nói đây là cuốn sách tham khảo phong phú về lịch sử và quan hệ giữa các nước Đông Nam Á [39]. Đặc biệt, dịch giả Ngô Bắc là người rất quan tâm đến việc sưu tầm, dịch và diễn giải nhiều tác phẩm của các học giả nước ngoài, đăng trên tạp chí điện tử https://nghiencuulichsu.com như: Chủ nghĩa đế quốc Pháp thời ban sơ tại Cochinchina [188] của Georges Taboulet. Trong bài này người viết đề cập đến sự xâm chiếm của Pháp đối với Lục tỉnh miền Đông Nam bộ (1864) và quá trình thực dân hóa vùng đất này. Đáng quan tâm hơn là Ngô Bắc đã trích dịch cuốn Religion and Ritual in the Royal Courts Dai Vietcủa John K. Khi viết về tôn giáo và nghi lễ dưới triều Nguyễn đầu thế kỷ XIX, tức dưới thời trị vì của Gia Long và Minh Mạng, tác giả viết: “Các nhà cai trị họ Nguyễn đã hành động để thiết lập một vương quốc kiểu nhà Thanh đương đại… Trong khi ngày càng định hướng theo Khổng học nhiều hơn dưới thời cai trị của vị vua thứ nhì, Hoàng đế Minh Mạng (1820-1841), và nhấn mạnh đế nghi lễ tại đàn Nam Giao, Việt Nam đã chứng kiến Phật giáo vẫn tiếp tục là một thành tố mạnh mẽ trong các tín ngưỡng của giới quí tộc, đặc biệt các phụ nữ” [189]. Tóm lại, vì có năng lực cai trị cao cho nên hai vị vua đầu triều Nguyễn đã giành lại được quyền thống trị từ triều đại Tây Sơn vốn đang bị suy thoái, củng cố bộ máy nhà nước và không ngừng cải cách để hoàn thiện nó trên phạm vi cả nước phù hợp với mô hình quân chủ chuyên chế. Trong quá trình thiết lập vương triều và tái thiết đất nước sau nhiều năm nội chiến, triều 14 Nguyễn lại gặp phải những biến động bất lợi của tình hình khu vực và thế giới, do đó những sai lầm về chính sách đối ngoại là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, những thành tựu mà triều Nguyễn đạt được trong thời kỳ trị vị của hai Gia Long và Minh Mạng là không thể phủ nhận, đồng thời qua đó cho thấy năng lực chủ quan của họ được khẳng định. 1.2. Các công trình liên quan đến việc nghiên cứu những nội dung cơ bản trong quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng, quản lý đội ngũ quan lại (1802-1841) và việc thực thi quan điểm đó đƣơng thời Một trong những công trình nghiên cứu khá đầy đủ về bộ máy hành chính của các triều đại quân chủ Việt Nam là Luận án Tiến sỹ Luật khoa của Nguyễn Sĩ Hải (1962, Sài Gòn), với đề tài Tổ chức chính quyền trung ương thời Nguyễn sơ: 1802-1847[41]. Đây là công trình nghiên cứu khá công phu và có nhiều đóng góp trong việc khảo cứu về bộ máy hành chính triều Nguyễn nói chung, giai đoạn 1802-1841 nói riêng. Là một trong những công trình nghiên cứu về hệ thống quan lại, nhất là các cơ chế hoạt động của bộ máy nhà nước và cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát quan lại của triều Nguyễn, tác giả đã trình bày khá chi tiết về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan giám sát triều Nguyễn như: Đô sát viện, Lục khoa và Giám sát ngự sử các đạo. Năm 1983, Vũ Thị Phụng đã cho xuất bản cuốn giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam do Nxb Khoa học xã hội ấn hành [89]. Trong công trình này tác giả đã đề cập sơ lược về tổ chức bộ máy và đội ngũ quan lại của các triều đại quân chủ Việt Nam, trong đó có triều Nguyễn. Năm 1996, tác giả Nguyễn Minh Tường đã cho ra đời cuốn “Cải cách hành chính dưới triều Minh Mạng” [139], trong đó ông đề cập đến định chế đội ngũ quan lại từ trung ương đến địa phương của Minh Mạng. Tác giả cho rằng cuộc cải cách hành chính này mang lại hiệu quả là củng cố và tăng cường chế độ giám sát toàn bộ tổ chức bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương. Ở một mức độ sâu hơn, trong cuốn Tổ chức bộ máy nhà nước quân chủ Việt Nam (từ năm 939 đến năm 1884)[141], tại chương VII, tác giả Nguyễn Minh Tường trình bày cơ cấu tổ chức và hoạt động giám sát đội ngũ quan lại 15 của cơ quan kiểm tra, giám sát trong bộ máy nhà nước triều Nguyễn. Mặt khác, cuốn sách cũng đã khái quát về cách tuyển bổ quan lại và lệ phong tước của các triều đại quân chủ Việt Nam nói chung, triều Nguyễn nói riêng. Trong hai chương cuối của cuốn sách, tác giả đã phân tích làm rõ nhiệm vụ, quyền lợi của quan lại cũng như vấn đề khảo khóa, thưởng phạt đối với quan lại dưới thời kỳ quân chủ Việt Nam, đặc biệt tác giả nhấn mạnh đến quan điểm của triều đình nhà Nguyễn về Lệ Hồi tỵ như một biện pháp ngăn chặn việc lợi dụng chức quyền của các quan lại nơi họ làm việc. Ngoài ra, trên trang www.xaydungdang.org.vn, tác giả Nguyễn Minh Tường cũng đã công bố bài “Sử dụng quan lại dưới thời Minh Mệnh” [173]. Trong bài viết này, tác giả cho biết dưới thời Minh Mệnh, “việc quan trọng đầu tiên là cách thức tuyển lựa quan lại công khai, minh bạch và cẩn trọng”. Trong đó, vai trò bộ Lại rất quan trọng, đội ngũ quan lại của bộ này phải là những người “công tâm, trong sạch, có khả năng tổ chức và am hiểu về con người”. Dưới triều Minh Mệnh việc tuyển dụng quan lại chủ yếu qua 3 phương thức: nhiệm tử, tiến cử và khoa cử. Việc tuyển dụng khá công bằng, nghiêm túc và cẩn trọng. Đội ngũ quan sau khi được bổ dụng đều phải trải qua thời gian Thí sai – thử việc. Không dừng ở đó, vua Minh Mệnh cũng định ra nhiệm biện pháp nhằm ngăn chặn tệ quan tham, lại nhũng như đặt cơ quan chuyên trách giám sát, kiểm tra, thực hiện chế độ “hồi tỵ”. Vua Minh Mệnh còn định ra chế độ thưởng phạt khá chặt chẽ và nghiêm minh, nhất là chế độ Khảo khóa... Cũng trong cuốn Khảo cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn: những vấn đề đặt ra hiện nay[7],tác giả Đỗ Bang đã nghiên cứu về hệ thống quan chế của triều Nguyễn; các thể thức tuyển dụng, phong tước và tổ chức các khoa thi tiến sĩ nhằm chọn người tài ra giúp nước. Tác giả đã trình bày khá rõ nhiệm vụ, quyền lợi, chế độ lương bổng của đội ngũ quan lại và định chế của triều Nguyễn về thưởng phạt, khảo khóa đối với quan lại. Năm 2015, tác giả Huỳnh Văn Nhật Tiến công bố bài viết “Các nguyên tắc vận hành của bộ máy Nhà nước triều Nguyễn giai đoạn 1802-1840” [133] trên tạp chí Khoa học (ĐH Sư phạm TP. HCM) số 4,cho rằng, triều Nguyễn 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan