Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan điểm của chủ nghĩa mác lênin về dân chủ với việc thực hiện quy chế dân chủ ...

Tài liệu Quan điểm của chủ nghĩa mác lênin về dân chủ với việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố hồ chí minh hiện nay

.PDF
136
45
109

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ********* NGUYỄN THỊ THANH NHIÊN QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ DÂN CHỦ VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ********* NGUYỄN THỊ THANH NHIÊN QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ DÂN CHỦ VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY Chuyên ngành : Chủ nghĩa xã hội khoa học Mã số : 60.22.85 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGUYỄN THẾ NGHĨA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2012 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Thế Nghĩa. Nếu có gì không đúng, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2012 Tác giả Nguyễn Thị Thanh Nhiên MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài ................................................ 3 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn ......................... 6 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ............................ 7 5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn .................................. 8 6. Kết cấu của luận văn ................................................................................. 8 Chương 1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ DÂN CHỦ................................................................................................ 9 1.1. ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ DÂN CHỦ ...................................... 9 1.1.1. Điều kiện hình thành quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ ............................................................................................ 12 1.1.2. Tiền đề hình thành quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin ............ 27 về dân chủ ............................................................................................... 27 1.2. NỘI DUNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ DÂN CHỦ.............................................................................................. 35 1.2.1. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về dân chủ ....................... 35 1.2.2. Quan điểm của V.I.Lênin về dân chủ............................................. 44 Chương 2.VẤN ĐỀ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY ............................... 56 2.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, VĂN HÓA, CHÍNH TRỊ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI ........................................................................ 56 2.1.1. Đặc điểm về kinh tế - xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh................. 56 2.1.2. Đặc điểm về văn hóa – chính trị ở thành phố Hồ Chí Minh .......... 62 2.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ............................................................. 68 2.2.1. Thành tựu đạt được trong việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh........................................................................... 68 2.2.2. Những hạn chế và những mâu thuẫn còn tồn tại trong việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh ................................................ 90 2.3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................................ 101 2.3.1. Phương hướng thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh ............................................................................................... 101 2.3.2. Một số giải pháp thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh ............................................................................................... 102 KẾT LUẬN ................................................................................................. 118 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................... 121 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất nước ta đang bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là thời kỳ chuyển đổi giữa xã hội cũ còn tồn tại những hạn chế với xã hội mới đang nảy sinh và phát triển. Xét về mặt kinh tế đây là thời kỳ chuyển biến từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế công nghiệp và tiếp cận kinh tế tri thức. Xét về mặt xã hội đó là sự chuyển biến từ xã hội truyền thống lên xã hội hiện đại tiến tới một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, con người có cuộc sống ấm no hạnh phúc. Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, dân chủ có vai trò đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước. Một xã hội muốn phát triển bền vững thì trước hết xã hội ấy phải được xây dựng trên nền tảng của sự ổn định và dân chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu và động lực phát triển xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Dân chủ là cái quý báu nhất của nhân dân" [76,7]. và thực hành dân chủ là chìa khóa để mở ra mọi cánh cửa của sự phát triển. Trong hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, bộ mặt của xã hội đã có những thay đổi rõ rệt, quyền lợi của nhân dân lao động ngày càng được quan tâm, việc thực hiện và phát huy dân chủ ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu rất đáng trân trọng, hiện nay trong xã hội còn tồn tại nhiều khó khăn, bức xúc và bất công. Trên thực tế, quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ trong đời sống xã hội, không ít hiện tượng mất dân chủ, dân chủ hình thức, bệnh quan liêu, tư tưởng phong kiến, gia trưởng còn nặng nề. Đồng thời, cũng xuất hiện khuynh hướng dân chủ cực đoan, dân chủ không đi liền với thực hiện kỷ 2 cương và pháp luật, cơ chế và pháp luật bảo đảm thực hiện dân chủ chưa được cụ thể hóa và hoàn thiện. Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân sâu xa từ đời sống kinh tế xã hội, từ thói quen lối sống, tập tục sản xuất nông nghiệp lạc hậu, mặt bằng dân trí còn thấp, cơ chế chế tài luật pháp chồng chéo, thiếu đồng bộ chưa thực sự đi vào cuộc sống, chưa trở thành nhu cầu thiết yếu trong điều chỉnh quan hệ xã hội, việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở chưa thật sự đầy đủ và có hiệu quả. Để đạt được những thắng lợi trong công cuộc xây dựng xã hội mới, trong thời kỳ đổi mới Đảng ta đã đề ra chương trình đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng ta xác định rõ nhiệm vụ cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới là nhiệm vụ của toàn dân, toàn xã hội. Thành công của công cuộc đổi mới không đem lại lợi ích cho ai khác ngoài nhân dân. Chủ nghĩa xã hội, như Hồ Chí Minh khẳng định là xã hội do nhân dân lao động làm chủ. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình xây dựng chế độ xã hội mới đảm bảo thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Trong xã hội đó, dân chủ thể hiện lợi ích và quyền lực chân chính của nhân dân, đó là "dân làm chủ" và "dân là chủ". Có thể nói nhân dân là lực lượng nòng cốt, quan trọng nhất trong quá trình đổi mới. Bởi lẽ, “Dễ vạn lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong” (Hồ Chí Minh). Chính vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam Đảng ta luôn khẳng định cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân thực hiện và vì sự ấm no hạnh phúc của nhân dân; chế độ chủ nghĩa xã hội là chế độ của nhân dân, do nhân dân lao động làm chủ, sự nghiệp xây dựng và phát triển đó là của nhân dân, do nhân dân thực hiện (Hồ Chí Minh). Cùng với thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố lớn năng động, một trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của cả nước.Vì vậy, 3 việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh góp phần quyết định đến sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới đã mở ra cho chúng ta những vận hội mới, bên cạnh đó cũng đầy rẫy những khó khăn thách thức; việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh vô cùng phức tạp và trở thành một nhiệm vụ mang tính cấp bách. Chọn vấn đề “Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ với việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình, tác giả muốn góp phần giải quyết nhiệm vụ trên. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài Từ trước đến nay, vấn đề “dân chủ” đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của đông đảo các học giả, các nhà khoa học trong và ngoài nước. Đối với Việt Nam việc nghiên cứu vấn đề “Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ với việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh” là một vấn đề mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Liên quan đến vấn đề này có rất nhiều công trình nghiên cứu được thể hiện ở các hướng tiếp cận dưới đây: Hướng tiếp cận thứ nhất, đề cập đến khái niệm dân chủ và các hình thức dân chủ trong lịch sử có các công trình sau: “Một số khía cạnh của khái niệm dân chủ” của TS. Đỗ Trung Hiếu (Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 231, 2002); “Một số cách tiếp cận của khái niệm dân chủ” của tác giả Nguyễn Đăng Quang (Tạp chí Thông tin Lý Luận, số 175, 1992); “Nền Dân chủ tư sản và những kinh nghiệm thực tiễn” của tác giả Vũ Dương Ninh (Tạp chí Thông tin lý luận, số 4, 1992); “Khái niệm dân chủ” của tác giả Nguyễn Quang Quýnh (Tạp chí Hiến pháp lược khảo, số 14, 1962). Các bài viết này bàn sâu về khái niệm “dân chủ”, đồng thời đề cập đến các khía cạnh chính trị, triết học của dân chủ và sự phát triển của các hình thức dân chủ trong lịch sử. 4 Hướng tiếp cận thứ hai, có các công trình đề cập đến quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ và kế thừa di sản tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ, trong đó phải kể đến các công trình tiêu biểu sau: “Tư Tưởng của V.I.Lênin về dân chủ” của PGS.TS Trịnh Doãn Chính, TS. Đinh Ngọc Thạch, TS. Trần Hùng, TS. Trần Chí Mỹ đồng chủ biên (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004). Bằng nhiều góc độ tiếp cận theo quan điểm nghiên cứu của mình, các tác giả đã nêu bật quan điểm của V.I.Lênin về dân chủ, chỉ ra sự khác nhau cơ bản giữa dân chủ tư sản và dân chủ vô sản, phân tích những bài học đối với quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội ở nước ta hiện nay. Các tác phẩm “Bàn về dân chủ chủ nghĩa xã hội” của V.I.Lênin (Nxb. Sự Thật, 1962); “Bàn về dân chủ vô sản” V.I.Lênin (Nxb. Sự Thật, 1973); “Về chế độ dân chủ tư sản và chuyên chính vô sản” V.I.Lênin (Nxb. Sự Thật, 1968); “Bàn về dân chủ trong quản lý xã hội” (Nxb. Chính trị quốc gia, 2003); “Góp phần nhìn lại di sản tư tưởng của Mác – Lênin về dân chủ” của tác giả Nguyễn Thế phấn (Tạp chí Thông tin lý luận, số 174, 1992). Nhìn chung các tác phẩm này đã trình bày rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, nêu ra được điểm khác biệt cơ bản cũng như bản chất của nền dân chủ tư sản và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và trình bày vai trò của dân chủ trong quản lý xã hội. Hướng tiếp cận thứ ba, có các công trình đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và kế thừa di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ. Trong đó phải kể đến các công trình : “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và vận động nhân dân trong tác phẩm dân vận” của tác giả Nguyễn Thị Kim Hoa (Tạp chí Lý luận chính trị số 6, 2005); “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và phép nước” của tác giả Vũ Văn Châu (Tạp chí Lý luận chính trị, số 7, 2006); đề tài nghiên cứu khoa học “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và sự vận dụng trong sự nghiệp đổi mới hiện nay” của tác giả Phạm Hồng Chương và 5 Nguyễn Thị Hương Giang năm 2001; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ với việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam”, luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Hữu Tâm (2009), Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh; “Thực hiện dân chủ ở cơ sở theo tư tưởng Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Long Khánh, (Tạp chí cộng sản, số 16, 2001). Các công trình trên đều trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, đồng thời nghiên cứu vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ vào công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước trên tất cả các mặt kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội. Hướng tiếp cận thứ tư, các công trình đề cập đến vấn đề thực hiện quy chế dân chủ cơ sở và phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay tiêu biểu có các công trình sau: Luận văn tiến sỹ của Đoàn Nam Hương “Quan điểm Mácxít về dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong điều kiện hiện nay tại Tây Ninh” (2007), đã trình bày những cơ sở lý luận chung về phạm trù “dân chủ”, đồng thời nêu bật được quan điểm Mácxít về “dân chủ” và việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở Tây Ninh trong điều kiện hiện nay. Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Văn Vui “ Quy chế dân chủ cơ sở thành phố Hồ Chí Minh những vấn đề lý luận và thực tiễn” (2005), đã trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn ở thành phố Hồ Chí Minh trong việc thực hiện quy chế dân chế cơ sở, luận văn cũng đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. “Nghị quyết của Đảng và thực tiễn cuộc sống - tác động của việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở đến quá trình đổi mới hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta hiện nay” của tác giả Nguyễn Đức Ngọc (Tạp chí Khoa học xã hội, số 5, 2006). 6 “Về dân chủ đại diện dân chủ trực tiếp và dân chủ bán trực tiếp thời kỳ 1945-1946” của Lê Thị Phương Thảo (Tạp chí Lịch sử đảng, số 11, 1997); “Bước đầu tìm hiểu những luận đề triết học xã hội về dân chủ và dân chủ hóa ở nước ta” của Hoàng Chí Bảo (Tạp chí triết học, số 68, 1990); “Dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu” của Hoàng Chí bảo (Tạp chí Thông tin Lý luận, số 175, 1992); “Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay” của TS. Đỗ Trung Hiếu (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009), “Phản biện xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền” (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009) của tác giả Hồ Bá Thâm và Tôn Thị Tường Vân đồng chủ biên; “Phát huy dân chủ trong đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta hiện nay” (Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005) của Luật gia Phạm Thành Nam và TS. Đỗ Thị Thạch. Các tác phẩm này đã phân tích được những khía cạnh cơ bản của vấn đề dân chủ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về xây dựng nền dân chủ vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời, trình bày phương hướng chủ yếu nhằm phát huy vai trò của nhà nước trong quá trình xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam. Như vậy, có khá nhiều công trình nghiên cứu về dân chủ, về xây dựng nền dân chủ mới và vấn đề thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở nước ta. Đó là những tài liệu khoa học hữu ích để tác giả kế thừa và vận dụng nghiên cứu vấn đề thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn: Luận văn tập trung làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ và thực trạng thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó tác giả đề ra một số giải pháp góp 7 phần thúc đẩy việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết một số nhiêm vụ sau: Thứ nhất : Phân tích làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ. Thứ hai : Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Thứ ba : Đề xuất một số giải pháp góp phần thúc đẩy việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Trong khuôn khổ của luận văn tác giả cố gắng giải quyết các nhiệm vụ của luận văn trên cơ sở phân tích và làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ, khảo sát thực trạng và đề xuất một số giải pháp góp phần thúc đẩy việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn được thực hiện dựa trên nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về dân chủ và vấn đề xây dựng nền dân chủ mới ở Việt Nam. Tác giả sử dụng phương pháp biện chứng duy vật làm phương pháp chung nhất trong quá trình nghiên cứu, đồng thời vận dụng kết hợp các phương pháp như: phân tích và tổng hợp, logich và lịch sử, phương pháp khái quát hóa trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận văn. 8 5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn Ý nghĩa khoa học: Luận văn làm rõ vấn đề dân chủ và thực hiện dân chủ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời nêu những nguyên tắc thực hành dân chủ trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế ở Việt Nam. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về dân chủ và vấn đề thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh; đồng thời luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy vấn đề dân chủ và quy chế dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và phần tài liệu tham khảo; luận văn bao gồm 2 chương, 5 tiết. Chương 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ Chương 2: Vấn đề thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay 9 Chương 1 QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ DÂN CHỦ 1.1. ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ DÂN CHỦ “Dân chủ” là một hiện tượng xã hội – lịch sử phức tạp, từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học khác nhau trong hệ thống các khoa học xã hội nhân văn. Ở cấp độ lý luận và phương pháp luận chung, dân chủ là đối tượng nghiên cứu của triết học. Ở cấp độ chuyên biệt, dân chủ là đối tượng nghiên cứu của chính trị học và các khoa học khác như đạo đức, pháp luật… Thuật ngữ “dân chủ” xuất hiện rất sớm trong xã hội Hy lạp cổ đại gắn liền với những cải cách của Solong vào thế kỷ thứ VI - TCN và sự hình thành thể chế dân chủ tại Athens (Aten) vào nửa sau thế kỷ thứ V- TCN. Theo tiếng Hy lạp cổ đại “dân chủ” được tạo thành bởi hai từ “Desmos” có nghĩa là nhân dân và “Kratos” có nghĩa là quyền lực. Như vậy dân chủ (Desmos Kratos) có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân và do nhân dân thực hiện quyền lực của mình trong tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong nhà nước Aten, nền dân chủ Aten là nền dân chủ trực tiếp, các quyết định của các thành bang không phải do tầng lớp quý tộc hay những người giàu có quyết định, mà trực tiếp do các công dân của thành bang thảo luận và quyết định, thông qua đại hội nhân dân mỗi công dân có quyền tham gia và biểu quyết một cách bình đẳng những vấn đề chung của xã hội. Như vậy, khái niệm dân chủ dùng để chỉ một hình thức nhà nước mà ở đó quyền lực thuộc về nhân dân chứ không chỉ thuộc về những người giàu có hay những người thuộc tầng lớp quý tộc. Như vậy thuật ngữ dân chủ chỉ xuất hiện khi trước đó đã tồn tại ba yếu tố: nhân dân, quyền lực công cộng và mối quan hệ giữa chúng. 10 Nội dung khái niệm dân chủ về cơ bản vẫn giữ nguyên đến ngày nay, tuy nhiên khái niệm dân chủ thời cổ đại và hiện nay có sự khác nhau cơ bản về tính trực tiếp của mối quan hệ sở hữu quyền lực công cộng và cách hiểu về khái niệm nhân dân. Quyền lực trước hết là quyền uy và sức mạnh của con người được thể hiện trong những tổ chức xã hội nhất định. Trong xã hội công xã nguyên thủy, quyền lực của nhân dân được bộc lộ và thực hiện trong những tổ chức tự quản của công xã. Trong xã hội có giai cấp và nhà nước, quyền lực ấy được thể chế hóa vào chế độ nhà nước và pháp luật và cũng từ khi xã hội có giai cấp ra đời dân chủ được thực hiện dưới hình thức mới – hình thức nhà nước với tên gọi là: chính thể dân chủ, nền dân chủ hay chế độ dân chủ. Dân chủ là khái niệm mang tính lịch sử. Dân là những ai? Những người nào được coi là dân điều này hoàn toàn phụ thuộc vào bản chất chế độ xã hội quy định. Từ khi xã hội phân chia thành giai cấp tùy theo từng xã hội cụ thể nhất định, ai được coi là dân do bản chất giai cấp của giai cấp thống trị xã hội quy định. Dân chủ với tính cách là quyền lực của nhân dân đã xuất hiện từ rất sớm, ngay từ xã hội công xã nguyên thủy – xã hội chưa có giai cấp. Trong xã hội đó để duy trì sự tồn tại của mình, con người đã biết tự tổ chức ra những hoạt động mang tính cộng đồng, xã hội, các thành viên công xã đều bình đẳng tham gia vào mọi việc của xã hội. Việc cử ra những người đứng đầu các cộng đồng để thực hiện những quy định chung hoặc phế bỏ người đứng đầu nếu người đó không thực thi những quy định chung được giao cho mọi thành viên quyết định thông qua đại hội nhân dân. Đó là hình thức dân chủ sơ khai, chất phát của những tổ chức tự quản trong xã hội chưa có giai cấp. Như vậy, “Dân chủ là phạm trù chỉ quyền làm chủ của nhân dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong xã hội không có giai cấp và không 11 có nhà nước, dân chủ được bộc lộ và được thực hiện dưới những hình thức tổ chức tự quản của xã hội. Còn trong xã hội có giai cấp và nhà nước thì dân chủ được thể chế hóa vào chế độ nhà nước và nó trở thành hình thức chính quyền nhà nước” [87,443]. Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam (tập 1) nêu rõ: “Dân chủ là hình thức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế chính trị nhất định” [97,817]. Mỗi loại hình dân chủ chỉ ra đời và tồn tại trong một thời kỳ lịch sử gắn liền với một chế độ kinh tế xã hội nhất định, tính lịch sử của dân chủ còn cho thấy dân chủ ra đời ngày càng hoàn thiện, đỉnh cao của sự hoàn thiện là khi chủ nghĩa cộng sản được thiết lập, lúc đó những cơ sở kinh tế - xã hội của sự tồn tại nhà nước không còn nữa, thì nhà nước sẽ bị tiêu vong như V.I.Lênin đã nhận định “Chế độ dân chủ cũng là nhà nước, do đó, nhà nước mà mất đi thì chế độ dân chủ cũng mất theo. Chỉ có cách mạng mới thủ tiêu được nhà nước tư sản. Còn nhà nước nói chung tức chế độ dân chủ triệt để nhất thì chỉ có thể tiêu vong mà thôi” [60,24]. Cùng với tính lịch sử, dân chủ với tư cách là một phạm trù chính trị luôn gắn với xã hội có giai cấp và nhà nước tức là một chế độ dân chủ thể hiện thông qua nhà nước, vì vậy sẽ không có thứ “dân chủ chung chung, phi giai cấp”, “dân chủ thuần túy”, dân chủ bao giờ cũng mang tính giai cấp. Dân chủ cũng là một phạm trù đa nghĩa, dân chủ còn được hiểu với tư cách là một hệ giá trị phản ánh trình độ phát triển của cá nhân và cộng đồng xã hội trong quá trình giải phóng xã hội, chống áp bức, bóc lột và nô dịch để tiến tới tự do bình đẳng. Chính vì vậy, trong bản chất của mình dân chủ đối lập với chuyên chế, dân chủ gắn liền với tự do, bình đẳng, công bằng xã hội 12 trong quan hệ con người, là điều kiện giải phóng năng lực sáng tạo cho cá nhân con người, nó trở thành nhu cầu thiết thực, nội tại của đời sống con người cũng như toàn xã hội. Nhìn từ phương diện này dân chủ là một hệ giá trị xã hội bền vững cho mọi thời đại, nó được quan niệm là tư cách, là tiêu chuẩn của sự tiến bộ xã hội, dân chủ đóng vai trò là mục tiêu, là động lực của sự phát triển, cũng là điều kiện để hình thành và phát triển nhân cách con người. 1.1.1. Điều kiện hình thành quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ Điều kiện kinh tế - xã hội hình thành quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ Xã hội vận động và phát triển không ngừng luôn luôn gắn liền với các yếu tố tác động đến sự phát triển cụ thể, do đó mỗi cộng đồng xã hội hay một quốc gia dân tộc trong từng thời kỳ phát triển đều có những đặc trưng riêng. Tương ứng với từng yếu tố đặc trưng của xã hội, thì hệ tư tưởng và nền dân chủ của xã hội cũng được biểu hiện dưới nhiều trạng thái khác nhau. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã kế thừa những quan niệm về dân chủ trong lịch sử để hình thành nên quan điểm của mình về dân chủ. Dân chủ với tính cách là một thiết chế nhà nước không xuất hiện tức thời mà phải trải qua một quá trình phát sinh và phát triển từ thấp đến cao, từ ít đến nhiều, từ những yếu tố dân chủ lẻ tẻ trong từng lĩnh vực kinh tế, tư tưởng xã hội đến một nền dân chủ gắn liền với chế độ thống trị của một giai cấp nhất định. Như vậy dân chủ không xuất hiện tùy ý, tùy tiện theo ý muốn chủ quan của con người, mà theo yêu cầu khách quan của lịch sử, dân chủ ra đời trong những điều kiện lịch sử nhất định, nó là sản phẩm của tiến trình lịch sử. Trong suốt nhiều thế kỷ, các nhà tư tưởng tiến bộ của loài người đã cố gắng giải quyết vấn đề thủ tiêu bất bình đẳng xã hội, vì vậy tất cả các thời đại 13 lịch sử đều để lại những học thuyết của việc tìm tòi lý luận trong lĩnh vực tư tưởng xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen không phải là những nhà duy vật, những nhà cộng sản bẩm sinh, quan điểm tư tưởng của các ông về các vấn đề xã hội nói chung và về vấn đề dân chủ nói riêng không phải được hình thành một cách ngẫu nhiên, tình cờ. Bằng những con đường khác nhau, hai ông cùng trải qua một quá trình chuyển biến tư tưởng giống nhau và phải đến đầu những năm 40 của thế kỷ XIX họ mới thực hiện được bước chuyển về lập trường chính trị và triết học từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản. Khi còn là những nhà dân chủ cách mạng, C.Mác, Ph.Ăngghen đã quan tâm đến những vấn đề chính trị xã hội và ở hai ông không có sự đối lập giữa lý luận với thực tiễn trong cuộc đấu tranh xã hội, đấu tranh chính trị. Ngoài việc khái quát những kinh nghiệm đấu tranh xã hội đấu tranh chính trị, hai ông đã đích thân tham gia vào những cuộc đấu tranh đó. C.Mác, Ph.Ăngghen luôn ở vị trí trung tâm của những sự kiện chính trị và xã hội, hai ông là những nhà cách mạng không chỉ về lý luận mà còn cả trong thực tiễn. Vào những thập niên cuối thế kỷ XVIII cuộc cách mạng công nghiệp đã diễn ra ở nước Anh. Đây được coi là sự mở đầu quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa đánh dấu sự hình thành của một phương thức sản xuất mới là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cuộc cách mạng công nghiệp kéo theo sự biến đổi trong cơ cấu xã hội – giai cấp, xã hội phân chia thành nhiều giai cấp, giai cấp vô sản ra đời ngày càng bị bóc lột nặng nề. Họ hoàn toàn bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất và chỉ có thể sống bằng cách bán sức lao động cho nhà tư bản. Ở nước Anh cũng như một số nước khác ở Tây Âu, dưới tác động của nền đại công nghiệp những người công nhân làm thuê mất hết khả năng quay về điạ vị giai cấp của mình. 14 Cuộc cách mạng công nghiệp đã làm cho giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động bị bóc lột thậm tệ, từ khi những công xưởng đầu tiên xuất hiện thì một bộ phận khá lớn lao động đàn ông được thay thế bằng lao động phụ nữ và trẻ em với tiền công rẻ mạt. Công nhân phải làm việc tại nhà máy từ 74 đến 80 giờ một tuần, một ngày làm việc từ 13 đến 14 giờ, tình cảnh giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động rất tồi tệ. Trong tác phẩm “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh” Ph.Ăngghen cho thấy cuộc cách mạng công nghiệp đã làm biến đổi đời sống giai cấp công nhân Anh, trước đó họ vốn có “một cuộc sống tầm thường và ấm cúng, một cuộc đời ngay thực, yên ổn trong cảnh hoà thuận và được người ta quý trọng; so với những người công nhân sau này thì tình cảnh sinh hoạt vật chất của họ khá hơn nhiều. Họ chả cần gì phải làm quá sức; họ muốn làm bao nhiêu thì làm mà vẫn kiếm đủ dùng họ có thì giờ rảnh để lao động bồi bổ sức khoẻ ở trong vườn hay ngoài ruộng” [68,336]. Cuộc cách mạng công nghiệp đã biến những người lao động ở Anh thành một “cái máy đơn thuần và cướp giật nốt cái phần hoạt động độc lập cuối cùng của họ”[68,338]. Những thay đổi về kỹ thuật, về kinh tế đã dẫn đến những thay đổi căn bản trong cơ cấu xã hội nước Anh, cuộc cách mạng công nghiệp và kinh tế ở mức độ rộng lớn đã làm cho vùng nông nghiệp của Anh trở thành hoang vắng, còn ở vùng LanCasia vùng công nghiệp vải sợi và những nơi mà ngành luyện kim rất phát triển thì dân cư tăng lên nhanh chóng, từ sự phân bố dân cư về mặt địa lý kéo theo sự phân bố dân cư theo nghề nghiệp và thành phần giai cấp. Có thể nói toàn bộ quá trình tiến hóa của xã hội Anh vào nửa sau thế kỷ XVIII trở đi là một quá trình vô sản hóa rộng lớn. Quá trình vô sản hóa diễn ra từ hai phía. Một là, do cuộc cách mạng ruộng đất nên số đông nông dân hoặc bị đuổi khỏi ruộng đất hoặc đành phải 15 bỏ ruộng đất. Hai là, sự phát triển của đại công nghiệp cơ khí máy móc đã làm cho đông đảo thợ thủ công và người sản xuất nhỏ bị mất kế sinh nhai, không cạnh tranh nổi với lao động máy móc có năng suất cao hơn. Họ trở thành vô sản - đội quân đông đảo đầu quân vào các ngành công nghiệp để bán sức lao động, làm thuê cho giai cấp tư sản. Theo Ph.Ăngghen thì toàn bộ lịch sử sau đó của nền công nghiệp Anh chỉ là thuật lại tình hình người lao động thủ công đã bị máy móc đánh bật khỏi hết vị trí này đến vị trí khác như thế nào, cùng với sự phát triển của máy móc của nền đại công nghiệp, giai cấp vô sản cũng tăng lên nhanh chóng về số lượng, nhưng cùng với quá trình đó “giai cấp công nhân mất hết mọi tài sản, mất mọi niềm tin vào công việc làm, phong tục đồi bại, chính trị rối ren” [68,342]. Ph.Ăngghen đã nghiên cứu rất sâu sắc sự phát triển của nền công nghiệp Anh bắt đầu từ ngành công nghiệp bông cho đến ngành công nghiệp cơ khí. Đó là quá trình bần cùng hóa diễn ra đối với người lao động, quá trình vô sản hóa người lao động. Cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã tạo ra bước phát triển nhảy vọt về đời sống, kinh tế, chính trị, xã hội. Nó đánh dấu bước phát triển căn bản của chủ nghĩa tư bản sang giai đoạn công xưởng, giai cấp vô sản hiện đại ra đời. Ở các thành phố lớn từ Luân Đôn đến Man-sex-tơ, Bớc-minh-hêm … và trên khắp nước Anh “Đâu đâu cũng là một sự lãnh đạm dã man, ích kỷ tàn nhẫn, một bên là sự nghèo khổ khó hình dung nổi, đâu đâu cũng là chiến tranh xã hội”;“chiến tranh của mọi người chống mọi người” [68,364]. Những khu nhà “ổ chuột” trong các thành phố lớn là nơi ở của người lao động, họ sống chen chúc trong những ngôi nhà tồi tàn nhất thành phố “nhà của của người lao động đều quy hoạch tồi, xây dựng tồi, không được giữ gìn, bí hơi, ẩm thấp và thiếu vệ sinh: người ở chen chúc nhau, và trong đa số trường hợp, thì trong một phòng ít ra cũng có một gia đình ngủ” [68,423]. Về ăn mặc của người
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan