Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quá trình truyền thông về di sản văn hóa phi vật thể dân ca quan họ Bắc Ninh trê...

Tài liệu Quá trình truyền thông về di sản văn hóa phi vật thể dân ca quan họ Bắc Ninh trên báo in

.PDF
203
420
64

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ************* VÕ BIÊN THÙY QUÁ TRÌNH TRUYỀN THÔNG VỀ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ DÂN CA QUAN HỌ BẮC NINH TRÊN BÁO IN ( KHẢO SÁT BÁO: BẮC NINH, VĂN HÓA; TẠP CHÍ: VĂN HÓA NGHỆ THUẬT, VĂN HÓA DÂN GIAN, HERITAGE TỪ THÁNG 6/ 2001 ĐẾN THÁNG 6/2011 ) LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HÀ NỘI – 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ************* VÕ BIÊN THÙY QUÁ TRÌNH TRUYỀN THÔNG VỀ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ DÂN CA QUAN HỌ BẮC NINH TRÊN BÁO IN ( KHẢO SÁT BÁO: BẮC NINH, VĂN HÓA; TẠP CHÍ: VĂN HÓA NGHỆ THUẬT, VĂN HÓA DÂN GIAN, HERITAGE TỪ THÁNG 6/ 2001 ĐẾN THÁNG 6/2011 ) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học Mã số: 60.32.01. NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THỊ MINH THÁI HÀ NỘI – 2012 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 3 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 3 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài............................................................................ 4 3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 4 5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 5 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn .......................................................... 5 7. Bố cục luận văn .......................................................................................... 6 Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG VÀ DÂN CA QUAN HỌ BẮC NINH ................................................................ 7 1.1. Truyền thông và quá trình truyền thông ................................................... 7 1.2. Di sản văn hóa phi vật thể Dân ca Quan họ Bắc Ninh ............................ 12 Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 27 Chương 2: PHÂN TÍCH QUÁ TRÌNH TRUYỀN THÔNG VỀ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ DÂN CA QUAN HỌ BẮC NINH TRÊN BÁO IN ................................................................................................ 28 2.1. Căn cứ phân chia giai đoạn của quá trình truyền thông .......................... 28 2.2. Giai đoạn 1: Từ tháng 6/2001 đến hết tháng 7/2004 – Giai đoạn trước khi Việt Nam làm hồ sơ đệ trình UNESCO công nhận Dân ca Quan họ Bắc Ninh là di sản văn hóa phi vật thể nhân loại .......................................................... 29 2.2.1. Thông kê tin, bài giai đoạn 1 .................................................... 29 2.2.2. Truyền thông về làng quan họ .................................................. 29 2.2.3. Truyền thông về nghệ nhân quan họ ......................................... 34 2.2.4. Hình thức truyền thông giai đoạn 1 ........................................... 39 2.3. Giai đoạn 2: Từ tháng 8/2004 đến hết tháng 9/2009 – Giai đoạn từ khi Việt Nam bắt đầu làm hồ sơ đệ trình UNESCO công nhận Dân ca Quan họ Bắc Ninh là di sản văn hóa phi vật thể nhân loại đến khi được công nhận vào ngày 30/9/2009 ............................................................................................. 45 2.3.1. Thống kê tin, bài giai đoạn 2 ........................................................ 45 2.3.2. Truyền thông về đặc điểm của Dân ca Quan họ ........................... 45 1 2.3.3. Truyền thông về vấn đề bảo tồn và phát huy Dân ca Quan họ Bắc Ninh ...................................................................................................... 51 2.3.4. Hình thức truyền thông giai đoạn 2 .............................................. 54 2.4. Giai đoạn 3: Từ tháng 10/2009 đến tháng 6/2011 – Giai đoạn sau khi Dân ca Quan họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại ............................................................................................... 60 2.4.1. Thông kê tin, bài giai đoạn 3 ........................................................... 60 2.4.2. Nội dung truyền thông giai đoạn 3 .................................................. 60 2.4.3. Hình thức truyền thông giai đoạn 3 ................................................. 63 2.5. Quá trình truyền thông ra bên ngoài của báo in về di sản văn hóa phi vật thể Dân ca Quan họ Bắc Ninh qua khảo sát tạp chí Heritage từ tháng 6/2001 đến tháng 6/2011 .......................................................................................... 64 Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 65 Chương 3: KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP TRUYỀN THÔNG DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ DÂN CA QUAN HỌ BẮC NINH TRÊN BÁO IN ..................................................................................... 66 3.1. Kinh nghiệm truyền thông di sản văn hóa phi vật thể Dân ca Quan họ Bắc Ninh trên báo in............................................................................................ 66 3.1.1. Thuận lợi trong quá trình truyền thông di sản văn hóa phi vật thể Dân ca Quan họ Bắc Ninh trên báo in............................................................... 66 3.1.2. Hạn chế trong quá trình truyền thông di sản văn hóa phi vật thể Dân ca Quan họ Bắc Ninh trên báo in............................................................... 67 3.2. Giải pháp truyền thông di sản văn hóa phi vật thể Dân ca Quan họ Bắc Ninh trên báo in............................................................................................ 69 3.2.1. Đối với cấp trung ương ................................................................ 70 3.2.2. Đối với tỉnh Bắc Ninh .................................................................. 71 3.2.3. Đối với báo chí ............................................................................ 79 Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 81 KẾT LUẬN ................................................................................................. 83 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 86 PHỤ LỤC CỦA LUẬN VĂN ..................................................................... 89 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Kể từ khi công ước Di sản thế giới của UNESCO được thông qua cách đây hơn 30 năm, ngày càng nhiều quốc gia nhận thức được rằng cùng với các di sản vật thể, di sản văn hóa phi vật thể là một nhân tố giữ vai trò quan trọng trong bản sắc văn hóa, trong việc thúc đẩy tính sáng tạo và gìn giữ đa dạng văn hóa. Hơn nữa, trong thế kỷ của khoa học và công nghệ, nhiều hình thức di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu có nguy cơ bị thất truyền, bị đe dọa mai một nghiêm trọng. Riêng dân ca quan họ Bắc Ninh là một tài sản quý báu của vùng văn hóa Kinh Bắc đã được UNESCO phong tặng di sản văn hóa phi vật thể của thế giới năm 2009. Tuy nhiên hiện nay, Quan họ cũng đang dần mất đi tính truyền thống và chuẩn mực vốn có. Bởi vậy chưa bao giờ nhiệm vụ truyền thông cho âm nhạc truyền thống nói chung và Dân ca Quan họ Bắc Ninh nói riêng lại được đặt ra cấp bách như giai đoạn hiện nay. Nghiên cứu truyền thông trên di sản văn hóa sẽ giúp các nhà nghiên cứu rút ra được những bài học truyền thông, để từ đó hình thành mô hình truyền thông hiệu quả nhất truyền thông cho những văn hóa Việt Nam đang muốn được phong tặng di sản văn hóa phi vật thể của thế giới. Bản thân người thực hiện luận văn đã may mắn có một thời gian được làm việc và giao lưu với Đoàn Dân ca Quan họ Bắc Ninh trong chuyến công tác dài ngày tại nước CHDCND Lào. Trước ý nghĩa sâu sắc của vấn đề này, chúng tôi đã chọn đề tài: “Quá trình truyền thông về di sản văn hóa phi vật thể Dân ca Quan họ Bắc Ninh trên báo 3 in (Khảo sát báo Bắc Ninh, Văn hóa, Văn hóa Nghệ thuật, Văn hóa dân gian và Heritage từ tháng 6/2001 đến tháng 6/2011)” để làm luận văn tốt nghiệp. 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài Cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu có giá trị về loại hình Dân ca và đã được công bố như: “Báo chí với việc bảo tồn và phát huy Dân ca Xoan, ghẹo – Luận văn tốt nghiệp của Nguyễn Thị Thu Hà - Khoa Báo chí Truyền Thông – Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn”; “Vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam trên báo chí” – Luận văn tốt nghiệp của Lê Vũ Điệp – Khoa Báo chí Truyền thông – Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn; “Báo chí với vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Hà Nội” – Luận văn tốt nghiệp của Hoàng Hương Trà – Khoa Báo chí Truyền thông – Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn… Nhưng nghiên cứu đề tài truyền thông về di sản văn hóa phi vật thể Dân ca quan họ Bắc Ninh trên báo in thì cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào được công bố. 3. Phương pháp nghiên cứu - Tổng hợp các quan điểm liên quan đến đề tài từ các tài liệu khoa học, sách, báo, tạp chí. - Sưu tầm, thống kê các dữ liệu về các sự kiện liên quan đến đề tài qua sự thể hiện trên mặt báo. - Sưu tầm tin, bài của báo chí viết về “Dân ca Quan họ Bắc Ninh”. - Dựa trên kết quả nghiên cứu để rút ra kết luận cuối cùng. - Ngoài ra luận văn còn sử dụng một số phương pháp như: Logic lịch sử, phân tích tổng hợp thống kê, so sánh, quy nạp và diễn dịch. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Chúng tôi đi vào nghiên cứu vấn đề này trên 2 tờ báo là Văn hóa (Bộ VHTTDL), Bắc Ninh và 3 tờ tạp chí là Văn hóa nghệ thuật (Bộ VHTTDL), 4 Văn hóa dân gian (Viện KHXHVN) và Heritage để có cái nhìn chính xác, cụ thể về vấn đề. - Thời gian nghiên cứu được giới hạn cụ thể trong 10 năm từ tháng 6 năm 2001 đến hết tháng 6 năm 2011 trên các báo và tạp chí nêu trên. 5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu về nguồn gốc, đặc điểm, quá trình diễn xướng của Dân ca Quan họ Bắc Ninh được phản ánh trên báo in. - Tìm hiểu nội dung tin, bài qua khảo sát để xác định mức độ tham gia của Báo in đối với quá trình truyền thông về Dân ca Quan họ Bắc Ninh trước, trong và sau khi Dân ca Quan họ được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể. - Giới thiệu và phân tích nghệ thuật truyền thông của Báo in thông qua các loại tin, bài đăng trên các báo Văn hóa, Bắc Ninh và tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, văn hóa dân gian và nguồn sáng dân gian. - Bằng khả năng của người làm công tác nghiên cứu, chúng tôi hy vọng sẽ đưa ra được những ưu, nhược điểm cụ thể về nội dung cũng như hình thức truyền thông của báo in về Dân ca Quan họ Bắc Ninh, đồng thời đưa ra những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện hơn sự thể hiện về nội dung và hình thức của đề tài trên. 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn Ý nghĩa khoa học: - Đề tài góp phần tổng kết quá trình truyền thông cho di sản văn hóa phi vật thể - Dân ca Quan họ Bắc Ninh trong vòng 10 năm trên 2 tờ báo và 3 tờ tạp chí mà đề tài khảo sát và hiệu quả do quá trình truyền thông mang lại dưới góc nhìn văn hóa Việt Nam - Từ đó, đưa ra kinh nghiệm, giải pháp và xây dựng mô hình tiêu chuẩn về quá trình truyền thông cho di sản văn hóa trên các báo và tạp chí. 5 Giá trị thực tiễn: - Đề tài có giá trị thực tiễn với những người làm công tác quản lý hoạt động truyền thông trên báo in, các cơ quan quản lý di sản văn hóa có nhu cầu truyền thông cho di sản văn hóa đó. Cái mới của đề tài: - Đề tài đi sâu và nghiên cứu mẫu, phân tích các tác phẩm báo chí trong quá trình truyền thông từ hình thức tới nội dung. Tiếp cận vấn đề qua 3 giai đoạn của quá trình truyền thông dựa trên các nguyên tắc truyền thông, dưới góc nhìn văn hóa Việt Nam để rút ra được những kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình truyền thông cho di sản văn hóa trên loại hình báo in sao cho hiệu quả và hấp dẫn nhất với công chúng. 7. Bố cục luận văn Ngoài Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, phần nội dung chính của luận văn được chia làm 3 chương cơ bản: - Chương 1: Lý luận chung về báo chí truyền thông và Dân ca Quan họ Bắc Ninh - Chương 2: Phân tích quá trình truyền thông Dân ca Quan họ Bắc Ninh trên báo in - Chương 3: Kinh nghiệm, giải pháp và mô hình truyền thông di sản văn hóa phi vật thể Dân ca Quan họ Bắc Ninh trên báo in. 6 Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG VÀ DÂN CA QUAN HỌ BẮC NINH 1.1. Truyền thông và quá trình truyền thông 1.1.1. Khái niệm truyền thông Truyền thông (communication) là quá trình chia sẻ thông tin. Truyền thông là một kiểu tương tác xã hội trong đó ít nhất có hai tác nhân tương tác lẫn nhau, chia sẻ các qui tắc và tín hiệu chung. Ở dạng đơn giản, thông tin được truyền từ người gửi tới người nhận. Ở dạng phức tạp hơn, các thông tin trao đổi liên kết người gửi và người nhận. Phát triển truyền thông là phát triển các quá trình tạo khả năng để một người hiểu những giừ người khác nói (ra hiệu, hay viết), nắm bắt ý nghĩa của các thanh âm và biểu tượng, và học được cú pháp của ngôn ngữ. Truyền thông thường gồm ba phần chính: nội dung, hình thức, và mục tiêu. Nội dung truyền thông bao gồm các hành động trình bày kinh nghiệm, hiểu biết, đưa ra lời khuyên hay mệnh lệnh, hoặc câu hỏi. Các hành động này được thể hiện qua nhiều hình thức như động tác, bài phát biểu, bài viết, hay bản tin truyền hình. Mục tiêu có thể là cá nhân khác hay tổ chức khác, thậm chí là chính người/tổ chức gửi đi thông tin. Có nhiều cách định nghĩa lĩnh vực truyền thông, Hiểu một cách đơn giản truyền thông (communication) là quá trình truyền đạt, chia sẽ thông tin; là một kiểu tương tác xã hội với sự tham gia của ít nhất 02 tác nhân. Lịch sử loài người cho thấy, con người có thể sống được với nhau, giao tiếp và tương tác lẫn nhau trước hết là nhờ vào hành vi truyền thông (thông qua ngôn ngữ hoặc cử chỉ, điệu bộ, hành vi… để chuyển tải những thông điệp, biểu lộ thái độ cảm xúc). Qua quá trình truyền thông liên tục, con người 7 sẽ có sự gắn kết với nhau, đồng thời có những thay đổi trong nhận thức và hành vi. Chính vì vậy, truyền thông được xem là cơ sở để thiết lập các mối quan hệ giữa con người với con người, là nền tảng hình thành nên cộng đồng, xã hội. Nói cách khác, truyền thông là 1 trong những hoạt động căn bản của bất cứ 1 tổ chức xã hội nào. Như vậy, theo quan điểm của PGS.TS Đinh Văn Hường: “Truyền thông là một quá trình liên tục trao đổi hoặc chia sẻ thông tin, tình cảm, kỹ năng nhằm tạo sự liên kết lẫn nhau để dẫn tới sự thay đổi trong hành vi và nhận thức” 1.1.2. Quá trình truyền thông Muốn truyền thông đạt hiệu quả cao cần phải nắm vững các bước, các khía cạnh và các yếu tố của quá trình truyền thông. -Người gửi(sender) là bên gửi thông điệp cho bên còn lại (còn được gọi là nguồn truyền thông). -Mã hóa(encoding) là tiến trình chuyển ý tưởng thành các biểu tượng. -Thông điệp(message) : Tập hợp các biểu tượng mà bên gởi truyền đi. -Phương tiện truyền thông(media) gồm các kênh truyền thông qua đó thông điệp truyền đi từ người gửi đến người nhận. -Giải mã(decoding) là tiến trình người nhận quy ý nghĩa cho các biểu tượng do người gửi truyền đến. -Người nhận(receiver) là bên nhận thông điệp do bên kia gửi đến. -Đáp ứng(response) là tập hợp những phản ứng mà người nhận có được sau khi tiếp nhận thông điệp. 8 -Phản hồi(feeback) là một phần sự đáp ứng của người nhận được thông tin trở lại cho người gửi. -Nhiễu tạp(noise) là những yếu tố làm sai lệch thông tin trong quá trình truyền thông, dẫn đến kết quả là người nhận nhận được một thông điệp không giống thông điệp được gửi đi. Các yếu tố trong quá trình truyền thông Mô hình này nhấn mạnh những yếu tố then chốt trong hệ thống truyền thông có hiệu quả. Người gửi phải truyền đạt thông tin đến công chúng mục tiêu và định rõ xem mình muốn có những phản ứng đáp lại nào từ phía công chúng. Họ phải mã hóa thông điệp của mình theo cách có tính đến quá trình giải mã thông điệp thông thường của công chúng mục tiêu. Người gửi phải lựa chọn những phương tiện truyền thông thích hợp và phải thiết kế những kênh thông tin phản hồi để có thể biết phản ứng đáp lại của người nhận đối với thông điệp đó. Để đảm bảo việc truyền thông có hiệu quả, quá trình mã hóa của người gửi phải ăn khớp với quá trình giải mã của người nhận. Thông điệp về cơ bản phải là những tín hiệu quen thuộc đối với người nhận thì thông điệp đó mới có hiệu quả. Điều này đòi hỏi những người truyền đạt thông tin từ một nhóm 9 xã hội (ví dụ những người qủang cáo) phải am hiểu những đặc điểm và thói quen của một nhóm xã hội khác (ví dụ những người nội trợ) trong cách tiếp nhận, tư duy và đáp ứng trước những thông tin gửi đến cho họ. Công việc của người gửi là đưa được thông điệp của mình đến người nhận. Nhưng trong bối cảnh bị tác động của hàng trăm thông điệp thương mại mỗi ngày, công chúng mục tiêu có thể không nhận được thông điệp gửi đến vì một trong ba lý do. Thứ nhất là sự chú ý có chọn lọc, nghĩa là họ chỉ nhớ được một phần nhỏ thông điệp truyền đến họ. Người truyền thông phải thiết kế thông điệp làm sao để nó vẫn thu hút được sự chú ý mặc dù xung quanh có nhiều tác nhân làm phân tán. Sự chú ý có chọn lọc giải thích tại sao quảng cáo với tiêu đề đậm nét hứa hẹn một điều gì đó, chẳng hạn như “Làm thế nào để trẻ mãi” cùng với minh họa hấp dẫn và một vài lời ngắn gọn, lại có rất nhiều khả năng được chú ý đến. Đối với sự bóp méo có chọn lọc, người nhận có thái độ làm cho họ kỳ vọng về cái mà họ muốn nghe hay thấy. Họ sẽ nghe thấy những cái phù hợp với hệ thống niềm tin của mình. Kết quả là người nhận thường thêm vào thông điệp những điều không có (phóng đại) và không nhận thấy những điều khác thực có (lược bớt). Nhiệm vụ của người truyền đạt là cố gắng đảm bảo thông điệp đơn giản, rõ ràng, lý thú và lặp lại nhiều lần để truyền đạt được những điểm chính đến công chúng. Đối với sự ghi nhớ có chọn lọcngười truyền đạt phải cố làm cho thông điệp lưu lại lâu dài trong trí nhớ của người nhận, nơi lưu giữ tất cả những thông tin đã được xử lý. Khi đi vào trí nhớ lâu dài của người nhận thông điệp có thể cải biến niềm tin và thái độ của người nhận. Nhưng trước tiên thông điệp phải lọt vào được trí nhớ ngắn của người nhận, nơi xử lý những thông tin 10 đến với dung lượng lưu trữ có hạn, và từ đó nó được chuyển sang trí nhớ lâu dài của họ tùy thuộc vào số lần người nhận nhớ lại thông điệp đó và chi tiết hóa ý nghĩa của thông tin. Nếu thái độ lúc đầu của người nhận đối với sự vật là tích cực và người đó nhớ lại những luận cứ ủng hộ, thì thông điệp đó sẽ tiếp nhận và ghi nhớ kỹ. Nếu thái độ lúc đầu của người nhận là tiêu cực và người đó nhớ lại những lý lẽ phản bác, thì thông điệp bị từ chối, nhưng vẫn lưu lại trong trí nhớ lâu dài. Lập luận phản bác ức chế việc thuyết phục bằng cách đưa ra một thông điệp chống lại đã có sẵn. Phần lớn việc thuyết phục đòi hỏi người nhận phải nhớ lại những suy nghĩ của mình. Phần lớn những trường hợp gọi là thuyết phục thật ra là tự thuyết phục. Qua nghiên cứu người ta thấy những đặc điểm của công chúng có mối tương quan với khả năng bị thuyết phục của họ. Những người có trình độ học vấn cao hay có tri thức được xem là khó bị thuyết phục, tuy nhiên điều này chưa có bằng chứng xác đáng. Phụ nữ được xem là dễ bị thuyết phục hơn đàn ông. Những người phụ nữ coi trọng vai trò giới tính truyền thống dễ bị ảnh hưởng hơn những phụ nữ không muốn chấp nhận vai trò truyền thống. Những người lấy chuẩn mực bên ngoài làm định hướng cho hành động và không có quan điểm riêng của mình thường có vẻ dễ bị thuyết phục hơn. Nhữîng người thiếu tự tin cũng được xem là dễ bị thuyết phục. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của Cox và Bauer đã chứng tỏ rằng giữa lòng tự tin và khả năng bị thuyết phục có mối liên hệ phi tuyến và những người có lòng tự tin vừa phải lại là những người dễ bị thuyết phục nhất. Người truyền đạt cần tìm kiếm những đặc điểm của công chúng có mối tương quan với khả năng bị thuyết phục và sử dụng chúng trong khi thiết kế thông điệp và sử dụng phương tiện truyền thông. 11 1.1.3. Lợi thế của truyền thông trên báo in Báo viết (báo in) là một thể loại báo chí “cổ nhất” trong các loại hình báo chí. Đây là loại hình báo chí đầu tiên của nhân loại. Như tên gọi của nó, với đặc thù gắn liền với công nghệ in ấn nên hình thức thể hiện của loại hình báo chí này là trên giấy. Báo viết hiện nay có nhiều khổ tuỳ theo cách trình bày báo của mỗi toà soạn. Theo tiêu chí, mục đích, tôn chỉ của mỗi toà báo. Ở những tờ báo đầu tiên, hình ảnh minh hoạ được các hoạ sĩ vẽ nhưng kể từ khi nhiếp ảnh ra đời, báo viết đã có sự thay đổi khá rõ nét về mặt hình thức cũng nhu cách trình bày báo. Trước sự phát triển như vũ bão của các loại hình báo chí khác, báo in vẫn có một ưu thế nổi trội: Ảnh minh họa đem đến cho bạn đọc một cái nhìn chân thực hơn về sự kiện. Giúp đôc giả kiểm tra được tính xác thực của thông tin. Báo viết còn có đặc tính là có thể cung cấp cho bạn đọc những thông tin chuyên sâu, bình luận chi tiết và có hệ thống về một vấn đề, một sự kiện nào đó. Giúp người đọc nắm rõ thông tin hơn và có thời gian nghiên cứu hơn các loại hình báo chí khác. Khả năng lưu trữ thông tin giúp cho người đọc có thể lưu trữ những bài báo, bản tin theo chuyên đề, theo mục đích của người đọc. Dễ dàng chia sẻ cùng những người khác. Một toà báo viết cũng ít tốn kém cho việc đầu tư hạ tầng và trang thiết bị nếu so với những thể loại báo chí khác như phát thanh, truyền hình chẳng hạn. Tính phổ cập (đại chúng) của báo viết cao hơn so với các loại hình báo chí khác. 1.2. Di sản văn hóa phi vật thể Dân ca Quan họ Bắc Ninh 1.2.1. Khái niệm di sản văn hóa phi vật thể Giống như khái niệm “văn hóa”, không có một định nghĩa duy nhất cho khái niệm “Di sản văn hóa phi vật thể”. Đây là một khái niệm rất rộng, dùng để chỉ các hình thức đa dạng, phức tạp của các di sản đang tồn tại và đang trong quá trình tiến hóa không ngừng 12 Điều 4 – Luật Di sản văn hóa 2003 định nghĩa: “Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hoá ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác.” Theo Giáo sư Tô Ngọc Thanh: “Trong xã hội Việt Nam hiện nay, cũng như cách hiểu của UNESCO, khi nói đến giá trị văn hóa phi vật thể là người ta nghĩ ngay đến các giá trị văn hóa cổ truyền, chứ không phải giá trị văn hóa đương đại. Có 2 lý do chủ yếu: Thứ nhất: Để hình thành các giá trị văn hóa thì phải có một quá trình kết tinh, mà người ta gọi quá trình đó là “Độ lùi lịch sử". Có những cái hôm nay chúng ta cho là tốt nhưng lịch sử sẽ phủ định, có cái ta cho là phải vứt bỏ thì chính đó lại là giá trị mà lịch sử sau này thừa nhận. Thứ hai: Là vì khối lượng văn hóa cổ truyền của tất cả các dân tộc trên thế giới là đồ sộ, được tạo ra trong quá trình hình thành loài người hàng ngàn năm mà đến nay người ta chưa hiểu biết hết và người ta thấy rằng nó cực kỳ quý giá bởi tính nhân văn và tính dân tộc. Mặc khác, chúng ta đang có nguy cơ bị mất, bị lãng quên bởi sự xâm lấn của các kỹ thuật, lối sống đương đại…Cho nên khái niệm văn hóa phi vật thể tập trung vào các giá trị văn hóa cổ truyền là đúng” Khoản 1 điều 2 mục I Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO năm 2003 đã ghi nhận “di sản văn hóa phi vật thể được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kĩ năng và kèm theo đó là những công cụ đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân, 13 công nhận là một phần di sản văn hóa của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn hóa phi vật thể được các cộng đồng, các nhóm người không ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người. Vì những mục đích của Công ước này, chỉ xét đến những di sản văn hóa phi vật thể phù hợp với các văn kiện quốc tế hiện hành về quyền con người, cũng như những yêu cầu về sự tôn trọng lẫn nhau giữa các cộng đồng, các nhóm người và cá nhân, và về phát triển bền vững”. Trong khái niệm này, UNSECO đã cố gắng cụ thể hóa tính “trừu tượng” của di sản văn hóa phi vật thể bằng việc định dạng một số biểu hiện của di sản văn hóa phi vật thể như tập quán, biểu đạt tri thức, kỹ năng, các công cụ đồ vật, đồ tạo tác, các không gian văn hóa có liên quan… Những biểu hiện này được ví như “hình thức chứa đựng” di sản văn hóa phi vật thể. Đó cũng chính là phần cốt lõi bên trong, chính là phần hồn của di sản văn hóa phi vật thể mà UNESCO ghi nhận dưới khía cạnh ý nghĩa đối với cộng đồng. Di sản văn hóa phi vật thể phải có sự gắn bó chặt chẽ với đời sống tinh thần của cộng đồng, được lưu truyền, tái tạo để tạo nên bản sắc của mỗi cộng đồng và sự đa dạng văn hóa trên thế giới. Việt Nam chúng ta hiện nay đã có 7 di sản phi vật thể được UNESCO công nhận là Di sản thế giới theo thứ tự từ mới nhất đến cũ nhất là:  Hát xoan là di sản văn hoá phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp, được công nhận ngày 24/11/2011.  Hội Gióng tại đền Sóc và đền Phù Đổng, Hà Nội, di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, được công nhận ngày 16/11/2010.  Ca trù là di sản văn hoá phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp, được công nhận ngày 01/10/2009. 14  Dân ca Quan họ, di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, được công nhận ngày 30/9/2009.  Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, được công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể thế giới vào năm 2005, đến năm 2008 được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.  Nhã nhạc cung đình Huế, di sản văn hóa thế giới phi vật thể đầu tiên tại Việt Nam, được công nhận tháng 11 năm 2003, đến năm 2008 được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.  Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được công nhận vào ngày 6/12/2012 Các đề cử mới cho di sản văn hóa phi vật thể tại Việt Nam:  Đờn ca tài tử Nam Bộ. 1.2.2. Nguồn gốc Dân ca Quan họ Bắc Ninh Dân ca Quan họ (còn được gọi là Dân ca Quan họ Bắc Ninh, Dân ca Quan họ Bắc Giang hay Dân ca Quan họ Kinh Bắc...) là những làn điệu dân ca của vùng đồng bằng Bắc Bộ, Việt Nam; tập trung ở vùng văn hóa Kinh Bắc - tức Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay. Tên gọi Quan họ Bắc Ninh không có nghĩa tỉnh Bắc Ninh là chủ thể chính của thể loại dân ca này, Bắc Ninh hay Kinh Bắc được hiểu là tỉnh Bắc Ninh cũ mà ngày 10/10/1895, tỉnh Bắc Giang tách khỏi tỉnh này. Tuy nhiên, loại hình dân ca này chủ yếu phát triển mạnh ở vùng ven sông Cầu, một ranh giới tự nhiên của hai tỉnh. Ngày 30 tháng 9 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ 4 của Ủy ban liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28 tháng 9 tới ngày 2 tháng 10 năm 2009), Quan họ đã được công nhận là di sản phi vật thể đại diện của nhân loại sau nhã nhạc cung đình Huế, không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên và cùng đợt với ca trù. 15 Quan họ gắn bó máu thịt với cuộc sống của con người Kinh Bắc. Không những thế, Quan họ phản ánh đa diện mối quan hệ cộng đồng, quan hệ tập thể trong xã hội con người Kinh Bắc: Liên kết xã hội bằng 1 chuỗi các chuẩn mực gọi là “lối chơi quan họ”, hàng chục cộng đồng làng xã vùng Bắc Ninh và Bắc Giang, theo thời gian đã tạo dựng nên 1 vùng văn hóa rộng lớn gắn liền với 1 loại hình dân ca vô cùng độc đáo – Dân ca Quan họ. Không gian văn hóa ấy nằm gọn trong vùng tam giác của 3 con sông, các tuyến giao thông huyết mạch của cư dân Việt cổ xưa: Trải dài từ vùng đất nằm bên tả ngạn sông Cà Lồ, kéo dài sang đến vùng hạ lưu sông Đuống; từ 1 vùng đất thuộc tả ngạn sông Cầu, xuống tới tả ngạn sông Đuống. Đấy cũng chính là địa bàn tương ứng với vùng đất cư trú lâu đời của 1 khối cư dân Việt cổ sinh sống bằng nông nghiệp kết hợp với nghề phụ làm thủ công nghiệp và buôn bán….” Ý nghĩa từ "Quan họ" thường được tách thành hai từ rồi lý giải nghĩa đen về mặt từ nguyên của "quan" và của "họ". Điều này dẫn đến những kiến giải về Quan họ xuất phát từ "âm nhạc cung đình", hay gắn với sự tích một ông quan khi đi qua vùng Kinh Bắc đã ngây ngất bởi tiếng hát của liền anh liền chị ở đó và đã dừng bước để thưởng thức ("họ"). Tuy nhiên cách lý giải này đã bỏ qua những thành tố của không gian sinh hoạt văn hóa quan họ như hình thức sinh hoạt (nghi thức các phường kết họ khiến anh hai, chị hai suốt đời chỉ là bạn, không thể kết thành duyên vợ chồng), diễn xướng, cách thức tổ chức và giao lưu, lối sử dụng từ ngữ đối nhau về nghĩa và thanh điệu trong sinh hoạt văn hóa đối đáp dân gian. Một số quan điểm lại cho rằng Quan họ bắt nguồn từ những nghi lễ tôn giáo dân mang yếu tố phồn thực chứ không phải Quan họ có nguồn gốc từ âm nhạc cung đình, hoặc có quan điểm nhận định diễn tiến của hình thức sinh hoạt văn hóa "chơi Quan họ" bắt nguồn từ nghi lễ tôn giáo dân gian qua cung đình rồi trở lại với dân gian. 16 Nhận định khác dựa trên phân tích ngữ nghĩa từ ngữ trong các làn điệu và không gian diễn xướng lại cho rằng Quan họ là "quan hệ" của một nhóm những người yêu quan họ ở vùng Kinh Bắc. Tuy vậy vẫn chưa có quan điểm nào được đa số các học giả chấp nhận. Quan họ ngày nay không chỉ là lối hát giao duyên (hát đối) giữa "liền anh" (bên nam, người nam giới hát quan họ) và "liền chị" (bên nữ, người phụ nữ hát quan họ) mà còn là hình thức trao đổi tình cảm giữa liền anh, liền chị với khán giả. Một trong những hình thức biểu diễn hát quan họ mới là kiểu hát đối đáp giữa liền anh và liền chị. Kịch bản có thể diễn ra theo nội dung các câu hát đã được chuẩn bị từ trước hoặc tùy theo khả năng ứng biến của hai bên hát. 1.2.3. Đặc điểm Dân ca Quan họ Bắc Ninh Hiện nay, tỉnh Bắc Ninh có 44 làng quan họ. Các làng quan họ Kinh Bắc tồn tại nhiều ở các huyện: Yên Phong, Từ Sơn, Tiên Du, thành phố Bắc Ninh (còn gọi là quan họ bờ nam sông Cầu thuộc tỉnh Bắc Ninh). Quan họ là thể loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong kho tàng dân ca Việt Nam. Mỗi một bài quan họ đều có giai điệu riêng. Cho đến nay, đã có ít nhất 300 bài quan họ đã được ký âm. Các bài quan họ được giới thiệu mới chỉ là một phần trong kho tàng dân ca quan họ đã được khám phá. Dân ca Quan họ là hát đối đáp nam,nữ. Họ hát Quan họ vào mùa xuân, mùa thu khi có lễ hội hay khi có bạn bè. Một cặp nữ của làng này hát với một cặp nam của làng kia với một bài hát cùng giai điệu, khác về ca từ và đối giọng. Cặp hát phân công người hát dẫn, người hát luồn nhưng giọng hát của hai người phải hợp thành một giọng. Họ hát những bài ca mà lời là thơ, ca dao có từ ngữ trong sáng, mẫu mực thể hiện tình yêu lứa đôi, không có nhạc đệm kèm theo. Có 4 kỹ thuật hát đặc trưng : Vang, rền, nền, nảy. Hát quan họ có 3 hình thức chính :Hát canh,hát thi lấy giải, hát hội. Hát quan họ gắn liền 17 với tục kết chạ, tục kết bạn giữa các “bọn” Quan họ, tục “ngủ bọn”. Mặc dù các phong tục này không được thực hành nhiều như trước đây, cộng đồng cư dân các làng Quan họ vẫn bảo tồn và truyền dạy nghệ thuật Dân ca Quan họ này. Hiện nay vẫn chưa có câu trả lời cuối cùng về thời điểm ra đời của Dân ca Quan họ trong lịch sử. Đối chiếu lời của các bài Quan họ trong sự phát triển của Tiếng Việt, có thể nghĩ rằng Dân ca Quan họ phát triển đến đỉnh cao vào giữa thế kỉ XVIII, Chủ nhân của Quan họ là những người nông dân Việt (Kinh), chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa nước. Dân ca quan họ có 213 giọng khác nhau, với hơn 400 bài ca. Lời một bài ca có hai phần: lời chính và lời phụ. Lời chính là phần cốt lõi, phản ánh nội dung của bài ca, lời phụ gồm tất cả những tiếng nằm ngoài lời ca chính, là tiếng đệm, tiếng đưa hơi như i hi, ư hư, a ha v.v…Dân ca Quan họ chủ yếu là nghệ thuật phổ lời ca dao và thơ. Nghệ thuật này đòi hỏi phải sử dụng những tiếng phụ, lời phụ bên cạnh những tiếng chính, lời chính nhằm làm cho tiếng hát trôi chảy, bổ sung ý nghĩa cho lời ca chính, làm cho lời ca thêm phong phú, linh hoạt, tăng cường tính nhạc của bài ca, phát triển giai điệu, làm cho âm nhạc của bài ca trở nên sinh động, bố cục trở nên hợp lí. Không dùng tiếng phụ, lời phụ, lời ca dễ đơn điệu, mất cân đối. Trang phục quan họ bao gồm trang phục của các liền anh và trang phục của các liền chị. Trong các lễ hội quan họ có cả những cuộc thi trang phục quan họ. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan