Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quá trình chuyển biến tư tưởng nguyễn ái quốc giai đoạn 1911 1930...

Tài liệu Quá trình chuyển biến tư tưởng nguyễn ái quốc giai đoạn 1911 1930

.PDF
68
109
143

Mô tả:

Tư tưởng Nguyễn Ái Quốc là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC ----------------------- Ngô Thị Tuyết Nhung QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN TƢ TƢỞNG NGUYỄN ÁI QUỐC GIAI ĐOẠN 1911-1930 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2016-X HÀ NỘI - 2020 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC ----------------------- Ngô Thị Tuyết Nhung QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN TƢ TƢỞNG NGUYỄN ÁI QUỐC GIAI ĐOẠN 1911-1930 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2016-X HÀ NỘI - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài nghiên cứu “Quá trình chuyển biến tư tưởng Nguyễn Ái Quốc giai đoạn 1911-1930” là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi. Các quan điểm, dẫn chứng nêu trong luận văn là quan điểm cá nhân, có sự tham khảo, sưu tầm và sự kế thừa những nghiên cứu của các tác giả đi trước. Nếu không đúng như đã nêu trên, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về đề tài của mình. Người cam đoan Ngô Thị Tuyết Nhung LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành cảm ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cô trong khoa Triết học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời gian em học tại khoa, trường. Vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học không chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu khóa luận mà còn là hành trang quý báu để em bước vào đời một cách vững chắc và tự tin. Ngoài ra, em xin gửi lời cảm ơn tới những cá nhân cũng như tổ chức đã tạo điều kiện giúp đỡ, hỗ trợ em trong suốt quá trình làm khóa luận. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới PGS.TS Trần Thị Hạnh đã giúp đỡ và hướng dẫn em rất tận tình trong quá trình thực hiện và hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp này. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng chắc chắn khóa luận sẽ không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô cùng toàn thể các bạn sinh viên để khóa luận được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn. Hà Nội, ngày 31 tháng 5 năm 2020 Ngô Thị Tuyết Nhung MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................... 3 1.Lý do chọn đề tài ................................................................................ 3 2. Tình hình nghiên cứu ........................................................................ 4 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu: ...................................................... 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................... 6 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ....................................... 6 6. Đóng góp của khóa luận.................................................................... 6 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn .............................................................. 6 8. Kết cấu khóa luận .............................................................................. 6 NỘI DUNG................................................................................................... 7 CHƢƠNG I: ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ CHUYỂN BIẾN TƢ TƢỞNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC GIAI ĐOẠN 1911-1930 ................ 7 1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội thế giới và Việt Nam đầu thế kỷ XX ........................................................................................................ 7 1.1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị thế giới đầu thế kỷ XX ..................... 7 1.1.2. Chuyển biến chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam ......................... 8 1.1.3. Khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam đầu thế kỷ XX10 1.2. Tiền đề cho sự ra đời và chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc giai đoạn 1911-1930 ...................................................................... 11 1.2.1. Quan niệm dân tộc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam ................ 11 1.2.2. Quan điểm về giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới của chủ nghĩa Mác Lênin ................................................................ 14 1.3. Nguyễn Ái Quốc và một số tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc giai đoạn 1911-1930 ....................................................................................... 19 1.3.1. Nguyễn Tất Thành đi tìm đường cứu nước ............................... 19 1.3.2. Nguyễn Ái Quốc tiếp cận chủ nghĩa Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản..................................................................... 21 Kết luận chƣơng 1 ............................................................................. 31 1 CHƢƠNG II: SỰ CHUYỂN BIẾN TƢ TƢỞNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC GIAI ĐOẠN 1911-1930 VỀ MỘT SỐ NỘI DUNG .................. 33 2.1. Sự chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc về dân tộc thuộc địa ................................................................................................. 33 2.1.1. Tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc về quan niệm “dân tộc thuộc địa”...................................................................................................... 33 2.1.2. Tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc về mối quan hệ giữa “người bản xứ” và “người thực dân” .................................................................... 41 2.2. Sự chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc về cách mạng giải phóng dân tộc .......................................................................................... 47 2.2.1. Nguyễn Ái Quốc xem xét vấn đề cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ với cách mạng thế giới. ......................................................... 49 2.2.2. Nội dung tư tưởng về mục tiêu, tính chất và các yếu tố của cách mạng Việt Nam .................................................................................... 52 2.3. Giá trị của quá trình chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc giai đoạn 1911-1930 đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam ............... 56 Kết luận chƣơng II ............................................................................ 59 KẾT LUẬN ................................................................................................ 60 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 61 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tư tưởng Nguyễn Ái Quốc là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại. Lịch sử tư tưởng Nguyễn Ái Quốc đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử tư tưởng dân tộc nói chung và lịch sử tư tưởng nhân loại nói riêng. Do vậy, nghiên cứu lịch sử tư tưởng Nguyễn Ái Quốc luôn là hướng nghiên cứu quan trọng của khoa học xã hội nước ta, đáp ứng thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước. Mặc dù đã có rất nhiều nghiên cứu về tư tưởng Nguyễn Ái Quốc, tuy nhiên nghiên cứu về quá trình chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc trong giai đoạn 1911 – 1930 ở nước ta vẫn còn khá mới mẻ. Đây không chỉ là đối tượng của triết học, mà còn là đối tượng nghiên cứu của các chuyên ngành khoa học xã hội khác như chính trị học, sử học. Điều này đã tạo nên tính cấp thiết và tính hấp dẫn của việc nghiên cứu. Quá trình chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc giai đoạn 1911 – 1930 là sự phản ánh tồn tại xã hội Việt Nam thời kỳ đó, đồng thời nó cũng là kết quả của logic phát triển của lịch sử tư tưởng nước ta, là động lực phát triển cho lịch sử tư tưởng giai đoạn tiếp theo. Giai đoạn 1911 – 1930 là thời kỳ có sự chuyển biến rõ rệt trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc về vấn đề dân tộc thuộc địa và cách mạng giải phóng dân tộc. Nó thể hiện logic phát triển của lịch sử tư tưởng Nguyễn Ái Quốc nói riêng, lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, lịch sử xã hội. Quá trình chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái 3 Quốc trong giai đoạn này có vai trò quan trọng trong hoạt động cách mạng của nước ta. Nghiên cứu về quá trình chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc giai đoạn 1911 - 1930 không chỉ góp phần làm sáng tỏ quan niệm của Nguyễn Ái Quốc về vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc, mà còn góp phần làm rõ vai trò, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của tư tưởng Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng và hoạt động của Đảng, nhà nước ta hiện nay. Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn Quá trình chuyển biến tƣ tƣởng của Nguyễn Ái Quốc giai đoạn 1911 - 1930 làm đề tài cho khóa luận của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Nghiên cứu về tư tưởng Nguyễn Ái Quốc giai đoạn 1911 - 1930 đã có nhiều công trình thuộc các ngành như chính trị học, triết học,... Thứ nhất, các chuyên khảo lịch sử, các tác phẩm viết về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, như: “Chủ tịch Nguyễn Ái Quốc – tiểu sử và sự nghiệp” của Ban chấp hành Trung ương Đảng, “Trần Dân Tiên – Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch”, công trình “Nguyễn Ái Quốc tiểu sử”, đề tài mang mã số KX.02.11 thuộc chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX.02 giai đoạn 19911995. “Hội thảo quốc tế về chủ tịch Nguyễn Ái Quốc – Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn” nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh chủ tịch Nguyễn Ái Quốc (1890-1990). Ngoài ra còn có các báo cáo tại hội thảo nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp, con người, những cống hiến nhiều mặt của Nguyễn Ái Quốc, “Nguyễn Ái Quốc – Một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp” (trích trong “Nguyễn Ái Quốc – Tinh hoa và khí phách của dân tộc của Phạm Văn Đồng), tác phẩm giới thiệu một cách cô đọng cuộc đời hoạt động, sự nghiệp những cống hiến của Nguyễn Ái Quốc đối với dân tộc, nhân loại, “Chiến sĩ quốc tế Nguyễn Ái Quốc – Hoạt động thực tiễn và lý luận” của Phan Ngọc Liên. 4 Thứ hai, các tiểu luận tư tưởng Nguyễn Ái Quốc: tác phẩm “Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Nguyễn Ái Quốc” của Trần Văn Giàu đã phân tích sâu nguồn gốc, cơ sở hình thành tư tưởng Nguyễn Ái Quốc, “Tư tưởng Nguyễn Ái Quốc và con đường cách mạng Việt Nam” đề tài mang mã số KX.02.01 thuộc chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX.02 giai đoạn 1991-1995. Công trình trình bày những vấn đề lý luận cơ bản tư tưởng Nguyễn Ái Quốc về con đường cách mạng Việt Nam, làm rõ những đóng góp về quá trình hình thành, phát triển của tư tưởng Nguyễn Ái Quốc và những luận điểm sáng tạo lớn của Nguyễn Ái Quốc về đường lối, phương pháp, chiến lược, sách lược, tổ chức các lực lượng cách mạng, tư tưởng quân sự, tư tưởng nhân văn, đạo đức, văn hóa Nguyễn Ái Quốc. Trong “Nguyễn Ái Quốc nhà tư tưởng lỗi lạc”, tác giả Song Thành tập trung làm rõ quan niệm và tiêu chí để xem xét một nhà tư tưởng, những tiền đề lý luận và thực tiễn 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu: 3.1. Mục đích của khóa luận Khóa luận phân tích và làm rõ sự chuyển biến trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc giai đoạn 1911 – 1930, từ đó đưa ra nhận xét về giá trị ý nghĩa đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung và sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích bối cảnh và những tiền đề hình thành tư tưởng Nguyễn Ái Quốc giai đoạn 1911 – 1930 - Phân tích sự chuyển biến tư tưởng Nguyễn Ái Quốc trong giai đoạn 1911 – 1930 về hai nội dung chính: vấn đề dân tộc thuộc địa và cách mạng giải phóng dân tộc 5 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Quá trình chuyển biến tư tưởng Nguyễn Ái Quốc giai đoạn 1911 - 1930 Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu sự chuyển biến tư tưởng trong giai đoạn 1911 – 1930 của Nguyễn Ái Quốc thông qua một số tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc trong Hồ Chí Minh toàn tập tập I, tập II và tập III (Hồ Chí Minh (2000), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội). 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Khóa luận được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mac – Lênin, đồng thời dựa trên những nghiên cứu đi trước có liên quan đến nội dung đề tài. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau, phương pháp nghiên cứu văn bản học, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp lịch sử - cụ thể. 6. Đóng góp của khóa luận Khóa luận phân tích, chỉ ra sự chuyển biến những nội dung cơ bản trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc giai đoạn 1911 – 1930 thông qua Hồ Chí Minh toàn tập, qua đó góp phần khẳng định giá trị của tư tưởng Nguyễn Ái Quốc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Nguyễn Ái Quốc và cho những ai quan tâm đến vấn đề nghiên cứu. 8. Kết cấu khóa luận Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phần Nội dung của bài nghiên cứu được kết cấu thành 2 chương, 6 tiết. 6 NỘI DUNG CHƢƠNG I: ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ CHUYỂN BIẾN TƢ TƢỞNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC GIAI ĐOẠN 1911-1930 1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội thế giới và Việt Nam đầu thế kỷ XX 1.1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị thế giới đầu thế kỷ XX Về kinh tế, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền sang chủ nghĩa tư bản cạnh tranh, đế quốc, tiêu biểu là Anh, Pháp, Đức, Mỹ. Từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, các nước phương tây đã tăng cường tiến hành các cuộc xâm lược thuộc địa và “miếng bánh thế giới đã bị phân chia xong”. Sự xâm lược thuộc địa của các nước tư bản đã làm nảy sinh mây thuẫn dân tộc giữa dân tộc áp bức và dân tộc bị áp bức. Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, văn hóa, tư tưởng của các quốc gia phương Tây đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, cũng dẫn đến những tác động tiêu cực. Đồng thời, nó không thể biện hộ cho bản chất bóc lột và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc. Các quốc gia phương Đông trực tiếp chịu sự đe dọa và xâm lược của các nước đế quốc phương Tây. Một số quốc gia chịu sự ảnh hưởng của mô hình nhà nước tập quyền chuyên chế của nền văn minh Trung Hoa như Triết Tiên, Nhật bản, Việt Nam đã phát triển đến đỉnh cao với các hình thức khác nhau và dần rơi vào bế tắc, khủng hoảng. Ở các nước phương Đông, mô hình kinh tế dựa trên nền nông nghiệp lúa nước theo phương thức tổ chức sản xuất dựa trên sự kết hợp giữa đơn vị kinh tế hộ gia đình và cộng đồng công xã nông thôn. Mặc dù thủ công nghiệp và thương nghiệp ra đời sớm và phát triển, tuy nhiên nó không tạo sự thay đổi mô hình phát triển, bởi bị cản trở do các chính sách của nhà 7 nước phong kiến như “trọng nông ức thương”, “nông vi bản, thương vi mạt”, “bế quan tỏa cảng”. Cơ cấu xã hội điển hình của các quốc gia phương Đông gồm các giai cấp, tầng lớp: vua chúa, quý tộc, quan lại, nông dân, nông nô, trí thức chủ yếu là nho sĩ, cao tăng, thiển sư, thợ thủ công, thương nhân. Sự xâm lược của các nước phương Tây đã khiến các quốc gia phương Đông có nhiều thay đổi và dần tạo ra những mầm mống của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mầm mống của một cơ cấu xã hội mới, kiến trúc thượng tầng mới. 1.1.2. Chuyển biến chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam Nửa cuối thế kỷ XIX, nước Pháp nhanh chóng bước vào giai đoạn phát triển chủ nghĩa đế quốc và thành công trong việc hình thành một hệ thống thuộc địa lớn thứ hai sau Anh. Trong 25 năm từ 1858 đến 1883, Pháp xâm lược Việt Nam và bắt tay vào khai thác thuộc địa với mục đích tối cao là biến Đông Dương thành thuộc địa khai khẩn trọng yếu, mang lại lợi nhuận cao nhất cho chính quốc. Trong quá trình xâm lược, Pháp sử dụng nhiều chính sách trong đó có “chia để trị”. Việt Nam bị chia cắt thành ba kỳ với ba chế độ cai trị khác nhau: Bắc Kỳ và Trung Kỳ là hai xứ bảo hộ về hình thức vẫn còn giữ lại chính quyền phong kiến, Nam Kỳ là đất thuộc địa hoàn toàn do Pháp nắm quyền cũng Lào và Campuchia. Hệ thống chính quyền dưới tỉnh là phủ, huyện, xã trên lãnh thổ Việt Nam đề do người Việt quản lý, với các chức tri phut, tri huyện, tri châu, chánh tổng, xã trưởng, lý trưởng. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), với tư cách là một nước thắng trận, Pháp ra sức khai thác thuộc địa, chủ yếu ở Đông Dương và Châu Phi. Pháp chủ trương tiếp tục sử dụng giai cấp địa chủ và tay sai người Việt vào cai trị. Các chính sách của Pháp nhằm lôi kéo một bộ phận nhỏ trong giới thượng lưu người Việt Nam gồm một số nhà tư sản và địa 8 chủ lớn vì quyền lợi cá nhân đứng về phía Pháp để chống lại nhân dân ta, làm cho tình hình chính trị và sự phân hóa trong xã hội ở Việt Nam càng thêm gay gắt. Nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thời phong kiến của Việt Nam dưới sự tác động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa do Pháp áp đặt vào dần chuyển sang nền kinh tế thuộc địa – tư bản chủ nghĩa, có sự phát triển nhanh chóng và tạo ra một cơ cấu kinh tế mất cân đối dẫn đến sự phân hóa không triệt để của cơ cấu giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Từ cuối thế kỷ XIX, xã hội Việt Nam xuất hiện một bộ phận tư sản, quan cai trị người Pháp. Kết cấu xã hội Việt Nam theo tứ dân: sĩ, nông, công, thương bị xóa bỏ, thay vào đó là sự phân chia giai cấp dựa vào quyền lợi kinh tế và quan hệ dựa trên kiến trúc thượng tầng theo phương Tây, gốm các giai cấp cơ bản: giai cấp địa chủ phong kiến, giai cấp nông dân, giai cấp công nhân, giai cấp tư sản, tiểu tư sản. Đầu thế kỷ XX, hệ thống giáo dục Việt Nam tồn tại ba hình thức khác nhau tương ứng với Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. Ở Nam Kỳ, chữ Hán hầu như bãi bỏ, đa số các tổng xã đều có trường tiểu học Pháp – Việt dạy chữ Pháp và chữ Quốc ngữ. Ở Bắc Kỳ và nhất là Trung Kỳ, các trường lớp dạy chữ Hán vẫn tồn tại khắp nơi, trường dạy chữ Pháp và chữ quốc ngữ rất ít. Do ba chế dộ giáo dục khác nhau khiến người Pháp gặp khó khăn trong việc thống nhất chính sách cai trị nên Pháp đã thực hiện các cuộc cải cách giáo dục. Năm 1906, cải cách giáo dục lần thứ nhất do toàn quyền P.Beau khởi xướng và chỉ đạo, giáo dục Pháp – Việt và giáo dục Nho giáo cùng tồn tại. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai được chính quyền thuộc địa tiến hành từ năm 1917 đến năm 1929 với mục đích xóa bỏ nền giáo dục Nho giáo, xác lập và củng cố nền giáo dục Việt Nam do người Pháp thóng nhất, tổ chức và nhằm phục vụ mục đích nô dịch của người Pháp. 9 Văn hóa, nghệ thuật, các trào lưu tư tưởng, thành tựu khoa học và kỹ thuật phương Tây du nhập vào Việt Nam thông qua sách báo trong và ngoài nước, góp phần thúc đẩy và tăng cường mối quan hệ tiếp xúc giữa hai nền văn hóa Á – Âu, Đông – Tây, có sự giao thoa, đan xen và tồn tại đồng thời giữa những yếu tố văn hóa truyền thống và văn hóa ngoại lai. Hoạt động báo chí, văn hóa, các cơ sở sản xuất, mua bán tài liệu, sách báo phát triển và phổ biễn trên cả nước. Nhiều ấn phẩm văn hóa tiến bộ đã góp phần phản ánh được nguyện vọng tự do, dân chủ, nhân đạo, yêu nước của nhân dân, được đông đảo thanh niên hưởng ứng. trở thành động lực quan trọng của cao trào đấu tranh đòi tự do dân chủ những năm 20 – 30 của thế kỷ XX. 1.1.3. Khủng hoảng về đƣờng lối cứu nƣớc ở Việt Nam đầu thế kỷ XX Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nhiều cuộc khởi nghĩa và phong trào yêu nước đã nổ ra nhưng không mang lại kết quả. Năm 1885, phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi khởi xướng được sự hưởng ứng của cả ba miền đất nước, sỹ phu khắp nơi nổi dậy giúp vua chống Pháp nhằm khôi phục lại nền độc lập. Trong đó, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng. Khởi nghĩa Phan Đình Phùng kéo dài 10 năm nhưng cuối cùng cũng đi đến thất bại. Khởi nghĩa Hương Khê 1896 thất bại đã kết thúc giai đoạn cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến. Trào lưu dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX nước ta chịu ảnh hưởng của phong trào vận động cải cách duy tân của thế giới và khu vực, lãnh đạo là một bộ phận tiểu tư sản yêu nước, trí thức tiến bộ. Phan Bội Châu chủ trương chống đế quốc, giành độc lập dân tộc mà trước mắt là mục tiêu chống phong kiến. Ông khởi xướng phong trào Đông Du, chủ trương dựa vào nhật, cầu viện Nhật để chống thực dân Pháp. Trái với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh chủ trương chống đế quốc, giành tự do, dân chủ bằng phương pháp ôn hòa, dựa vào Pháp để chống phong kiến. Các phong trào duy tân do Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp khởi 10 xướng nhằm đổi mới chính trị và văn hóa đất nước để đi tới độc lập tự chủ. Phong trào này chủ trương “ỷ Pháp, cầu tiến bộ”, dựa vào sự giúp đỡ của đế quốc Pháp nhằm thực hiện “dân quyền”, “dân chủ” ở nước ta. Phương pháp tiến hành cách mạng của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh lãnh đạo đã phân hóa phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản ở Việt Nam thành hai xu hướng: bạo động mang tính chất truyền thống và cải cách tư sản mới mẻ. Trên cơ sở đó, nhiều phong trào cứu nước mang sắc thái, hình thức hoạt động đa dạng nổ ra, tiêu biểu là phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục do Lương Văn Can và Nguyễn Quyền khởi xướng với mục tiêu truyền bá nền văn hóa mới để thực hiện chủ nghĩa yêu nước mới. Tuy nhiên các phong trào này đều lần lượt đi đến thất bại. Có thể thấy, tuy các phong trào yêu nước có xu hướng tư sản đều bộc lộ những hạn chế, sự bế tắc, không phát triển được và đi đến thất bại, nhưng chúng đã góp phần cổ vũ, thức tỉnh tinh thần yêu nước trong nhân dân, nhất là thanh niên, trí thức, học sinh. Như vậy, đầu thế kỷ XX, Việt Nam đứng trước sự khủng hoảng trầm trọng về đường lối cứu nước, các phong trào yêu nước đều thiếu giai cấp tiên tiến lãnh đạo, tập hợp, thiếu lý luận tiên tiến dẫn đường. Do vậy, cần một lý luận mới, một bộ phận lãnh đạo có thể giải quyết được các vấn đề trước mắt và lâu dài. Những đặc điểm và chuyển biến trong chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng ở Việt Nam và thế giới là những điều kiện khách quan cho sự chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc giai đoạn 1911-1930. 1.2. Tiền đề cho sự ra đời và chuyển biến tƣ tƣởng của Nguyễn Ái Quốc giai đoạn 1911-1930 1.2.1. Quan niệm dân tộc trong lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam Thời phong kiến, dân được hiểu theo nghĩa thường dân. Ý thức dân tộc đã thể hiện rõ trong lịch sử của dân tộc Việt Nam từ thời Lý Bí khi 11 xưng đế và đặt tên nước là “Vạn Xuân” vào thế kỷ thứ VI. Thời kỳ này đã có sự giác ngộ về chủ quyền đất nước, ý thức về quyền được sống trong độc lập, tự do, sự đòi hỏi được phát huy tài năng của những người có tài, có đức và nói chung của người dân đất Việt. Bước sang giai đoạn phục hưng ban đầu của tư tưởng – văn hóa dân tộc, vào năm 1010, “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn được công bố đã một lần nữa phản ánh ý chí độc lập, tự cường và sự phát triển lớn mạnh của dân tộc Đại Việt. Dân tộc đã được Lý Công Uẩn với tư cách là một quốc gia độc lập có quốc hiệu, niên hiệu và kinh đô riêng. Kinh đô, như sự lý giải của Lý Công Uẩn, gắn liền với sự hung vong của một triều đại, một dân tộc, một đất nước. Một triều đại muốn mưu toan nghiệp lớn, một quốc gia muốn cường thịnh, bền vững, trường tồn cần phải có một kinh đô đủ tư cách là đầu mối giao thông, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa để “làm kế cho con cháu muôn vạn đời”. Trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ hai, quan niệm dân tộc được thể hiện đầy đủ và rõ ràng hơn qua bài thơ Nam quốc sơn hà được Lý Thường Kiệt, tổng chỉ huy quân đội nhà Lý truyền bá rộng rãi nhằm khích lệ tinh thần chiến đấu của quân lính. “Nam quốc sơn hà Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm? Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”[8,321] Nam quốc sơn hà được coi là Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng chủ đạo và xuyên suốt bài thơ là sự khẳng định chủ quyền của dân tộc Việt Nam. So với giai đoạn trước, ở đây, khái niệm dân tộc đã được phát triển hơn, dân tộc gắn liền với chủ quyền. Trong điều 12 kiện xã hội phong kiến phương Đông, chủ quyền của vua chính là chủ quyền dân tộc. Bài thơ như một lời tuyên bố đanh thép, phản bác lại tư tưởng sai trái của các triều đình phong kiến Trung Hoa chỉ coi Việt Nam là một bộ phận, những quận, huyện của Trung Quốc và khẳng định chủ quyền của dân tộc Việt Nam, nước Việt Nam tương đương và ngang hàng với Trung Hoa. Trong Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn gắn quốc gia, dân tộc với sự thống nhất về mặt lợi ích: thái ấp, bổng lộc, gia quyến, xã tắc. Ông đã cảnh báo binh lính, nếu để mất nước thì “chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác, chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi, chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào, chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận.” Nửa đầu thế kỷ XV, Nguyễn Trãi đã đưa ra tư duy sâu hơn, phát triển hơn về quốc gia, dân tộc Đại Việt trong Bình Ngô đại cáo. “Xét như nước Đại Việt ta, Thật là một nước văn hiến. Bờ cõi núi sông đã riêng. Phong tục Bắc Nam cũng khác. Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước, Cùng Hán, Đường, Tống, nguyên đều chủ một phương. Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, Mà hào kiệt không bao giờ thiếu”.[8,63] 13 Tương tự như các tác phẩm khác, Bình Ngô đại cáo không cho thấy định nghĩa cụ thể của Nguyễn Trãi về dân tộc. Tuy nhiên, qua nội dung và cách thức trình bày của ông, quan niệm về quốc gia, dân tộc, về các yếu tố tạo thành quốc gia dân tộc được thể hiện rõ rệt. Quốc gia dân tộc bao gồm các yếu tố, đó là: lãnh thổ (song núi, bờ cõi), văn hóa (văn hiến), phong tục và lịch sử. Bước sang thế kỷ XX, thay thế quan niệm thần dân trong chế độ phong kiến, quan niệm về dân có một bước tiến quan trọng. Phan Bội Châu nhận thức vai trò của người dân với tư cách là người quốc dân, là người chủ của đất nước “dân là dân nước, nước là nước dân”. Tuy nhiên, quan niệm quốc dân chưa đạt tới quan niệm công dân, người dân chưa được coi như một chủ thể thực sự của xã hội có quyền tự do, có quyền sở hữu và có quyền mưu cầu hạnh phúc của tư tưởng tư sản. Tương tự như Phan Bội Châu, theo Phan Châu Trinh, người dân là người quốc dân, là người dân của đất nước, vì thế, phải có trách nhiệm với non sông đất nước. 1.2.2. Quan điểm về giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới của chủ nghĩa Mác Lênin Nguyễn Ái Quốc từng khẳng định chính chủ nghĩa yêu nước đã đưa Người đến với V.I.Lênin và tin theo quốc tế III. Người tìm thấy trong “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin “cái cần thiết cho chúng ta”, “con đường giải phóng chúng ta”. Lý luận của V.I.Lênin là sự vận dụng sáng tạo lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen vào điều kiện cụ thể và nâng lý luận ấy lên một tầm cao mới. C.Mác đã nói tới phương thức tồn tại của con người với tư cách là toàn bộ hoạt động cải tạo thế giới vật chất của con người, hoạt động sản xuất của con người. Mác chỉ ra hình thức cộng đồng người đầu tiên trong lịch sử loài người là thị tộc(chỉ có khoảng vài trăm người có cùng huyết thống), tiếp theo là bộ lạc (được hình thành từ nhiều thị tộc có quan hệ 14 huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân liên kết), sau nữa là bộ tộc(liên kết nhiều bộ lạc trên cùng một vùng lãnh thổ), cuối cùng là dân tộc(cộng đồng dân cư được hình thành từ một bộ tộc hoặc từ sự liên kết nhiều bộ tộc trên một vùng lãnh thổ). C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh, rằng tác nhân cơ bản dẫn tới việc chuyển từ hình thức cộng đồng người từ thị tộc sang dân tộc là tác nhân kinh tế và dân tộc điển hình là dân tộc tư sản. Dân tộc này bao gồm các giai cấp, tầng lớp khác nhau, trong đó tư sản và vô sản đối lập nhau về địa vị kinh tế, song lại có quan hệ chặt chẽ trong hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra khi chủ nghĩa tư bản trở thành thống trị, “nó buộc tất cả các dân tộc phải thực hành phương thức sản xuất tư sản, nếu không sẽ bị tiêu diệt, nó buộc tất cả các dân tộc phải du nhập cái gọi là văn minh, nghĩa là phải trở thành tư sản”[12,601]. Bằng sức mạnh của mình, “nó đã bắt những dân tộc nông dân phải phụ thuộc vào những dân tộc tư sản, bắt phương Đông phải phụ thuộc vào phương Tây”[12,602]. Qua sự phân tích của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra sự thống trị của giai cấp tư sản với dân tộc và với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội. Hai ông cho rằng giai cấp vô sản –lực lượng có sứ mệnh thực hiện thành công sự nghiệp giải phóng con người, nhân loại, không thể thờ ơ hoặc đi ngược lại với lợi ích dân tộc mà “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”[12,623-624]. Vì thế, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải thanh toán xong giai cấp tư sản nước mình đã”[12,624]. Theo 15 đó, với C.Mác và Ph.Ăngghen, việc giải quyết vấn đề giai cấp có ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyết vấn đề dân tộc, bởi vì xã hội hiện tại chia thành hai phe lớn thù địch với nhau, hai giai cấp lớn hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Mặt khác, khẳng định khi sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo và “trong các cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản”[12,627]. Do vậy, “hãy xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ”[12,627]. Cuối cùng, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định, rằng trong khi “xã hội không thể nào giải phóng cho mình được, nếu không giải phóng cho mỗi cá nhân riêng biệt”[5,627] thì cách mạng vô sản là con đường duy nhất để xoá bỏ ách áp bức giai cấp, áp bức dân tộc. Để tới được với chủ nghĩa cộng sản, khi thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp vô sản phải liên minh trên phạm vi quốc tế “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”. Nó là tiền đề đưa cách mạng vô sản đến thắng lợi trên phạm vi quốc tế để hoàn thành sứ mệnh lịch sử: giải phóng con người. V.I.Lênin là người bảo vệ thành công, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới. Ông cũng nói đến nhữngvấn đề giải phóng: dân tộc, giai cấp, con người nhưng dựa trên những tiền đề có tính lịch sử, thời đại, V.I.Lênin đã đưa ra cách nhìn nhận, đánh giá mới về những vấn đề này.Thời đại mà V.I.Lênin sống là thời đại của chủ nghĩa đế quốc –giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản. Các đế quốc tranh giành thuộc địa với mục đích phân chia lại thế giới. Theo V.I.Lênin các quốc gia có một nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa phát triển đều tiến rất nhanh đến việc xâm lược thuộc địa. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng