1
LỜI CAM ĐOAN
Luận án được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của GS. TSKH. Đinh
Nho Hào và PGS. TS. Đinh Huy Hoàng. Tôi xin cam đoan rằng các kết
quả được trình bày trong luận án là mới và chưa từng được ai công bố
trước đó.
Tác giả
Nguyễn Văn Đức
2
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1
Mục lục . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 2
Một số ký hiệu dùng trong luận án . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
Mở đầu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4
Chương 1: Phương trình parabolic ngược thời gian
với hệ số không phụ thuộc thời gian . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 28
1.1 Một số khái niệm và bổ đề cơ sở . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 29
1.2 Chỉnh hóa phương trình parabolic ngược thời gian
bằng bài toán giá trị biên không địa phương trong trường hợp a=1 . . 31
1.3 Chỉnh hóa phương trình parabolic ngược thời gian
bằng bài toán giá trị biên không địa phương trong trường hợp a>1 . . 41
1.4 Ví dụ số . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 63
1.5 Kết luận chương 1 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 68
Chương 2 Phương trình parabolic ngược thời gian
với hệ số phụ thuộc thời gian . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 69
2.1 Các kết quả ổn định . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 69
2.2 Hiệu chỉnh bài toán . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 77
2.3 Các ví dụ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 91
2.4 Kết luận chương 2 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 96
Chương 3 Các kết quả ổn định cho phương trình
truyền nhiệt ngược thời gian . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 97
3.1 Các kết quả bổ trợ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 98
3.2 Phương pháp nhuyễn và kết quả ổn định . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 100
3.3 Sơ đồ sai phân tiến ổn định . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 110
3.4 Ví dụ số . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 113
3.5 Kết luận chương 3 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 115
Kết luận chung và kiến nghị . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 119
Danh mục công trình của NCS có liên quan đến luận án 121
Tài liệu tham khảo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 122
3
MỘT SỐ KÝ HIỆU DÙNG TRONG LUẬN ÁN
R: đường thẳng thực
Rn : không gian Euclid n-chiều
C: mặt phẳng phức
<: phần thực của một số phức
Ω: miền của không gian Rn
∂Ω: biên của Ω
h·, ·i: tích vô hướng trong không gian Hilbert H
k · k: chuẩn trong không gian Hilbert H
C([a, b]; H): tập tất cả các hàm liên tục trên [a, b] và nhận giá trị trên
không gian Hilbert H
C 1 ((a, b); H): tập tất cả các hàm khả vi liên tục trên (a, b) và nhận giá
trị trên không gian Hilbert H
ut : đạo hàm của hàm u ∈ C 1 ((a, b); H)
Lp (Ω) = {u : Ω → R| u đo được Lebesgue, kukLp (Ω) < +∞}
k · kp : chuẩn Lp (R)
F [f ](ξ): biến đổi Fourier của hàm f được định nghĩa bởi
1
F [f ](ξ) = fb(ξ) = √
2π
Mν,p (R) (1 6 p 6 ∞)
+∞
Z
f (x)e−ixξ dx
−∞
là tập hợp các hàm nguyên dạng mũ ν khi giới hạn
trên trục thực thuộc Lp (R)
Eν,p (f ): xấp xỉ tốt nhất của f bởi các phần tử của Mν,p , tức là
Eν,p (f ) = inf kf − gkLp (R)
g∈Mν,p
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Bài toán ngược cho phương trình đạo hàm riêng thường xuyên
xuất hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau của công nghệ, địa vật lý, thủy
động học, y học, xử lý ảnh,... Đó là những bài toán khi các dữ kiện của
quá trình vật lý không đo đạc được trực tiếp mà ta phải xác định chúng
từ những dữ kiện đo đạc gián tiếp. Trong luận án này, chúng tôi đề cập tới
phương trình parabolic ngược thời gian. Đó là bài toán cho phương trình
parabolic khi điều kiện ban đầu không được biết mà ta phải xác định nó
khi biết điều kiện cuối cùng (đó là lý do tại sao bài toán này được gọi là
ngược thời gian).
1.2. Phương trình parabolic ngược thời gian thường xuyên xuất hiện
trong lý thuyết truyền nhiệt, khi ta cần xác định nhiệt độ tại một thời
điểm nào đó trong quá khứ qua nhiệt độ đo đạc được tại thời điểm hiện
tại ([31], [55], [65]), bài toán này cũng thường xuyên xuất hiện trong Địa
vật lý ([65]). Trong bài toán về nước ngầm, để xác định việc truyền tải
của chất gây ô nhiễm tại một vùng nước ngầm người ta dùng phương
trình khuếch tán - đối lưu (phương trình parabolic) ngược thời gian với
đo đạc ở thời điểm hiện tại ([15]). Phương trình parabolic ngược thời gian
cũng thường xuyên xuất hiện trong khoa học vật liệu ([88]), thủy động
học ([15]), xử lý ảnh ([21], [59], [85]). Các bài toán này đã được nghiên
cứu khá nhiều, tuy nhiên cũng chỉ cho một lớp phương trình đặc biệt; hơn
thế nữa việc đề xuất các phương pháp số hữu hiệu để giải gần đúng các
bài toán này luôn là những vấn đề thời sự.
1.3. Một cách hình thức các bài toán trên có thể mô tả như sau: giả
sử Lu(x, t) là một toán tử (có thể phi tuyến) elliptic đều. Ở đây, x là biến
5
không gian, còn t là biến thời gian. Giả sử Qt = ∪s∈[0,t] Ω(s), Ω(s) là các
miền giới nội trong Rn , t ∈ [0, T ]. Ta xét bài toán biên sau đây:
ut = Lu(x, t) + F (x, t, u), (x, t) ∈ QT ,
¯
u¯t=0 = u0 (x), x ∈ Ω0 ,
Bu = g(ξ, t), (ξ, t) ∈ ∪s∈[0,T ] ∂Ω(s)
với B là toán tử điều kiện biên nào đó. Đây là Bài toán thuận thời gian.
Trong thực tế, nhiều khi giá trị của u(x, t) tại thời điểm t = 0 không được
biết, mà ta lại biết giá trị của nó tại t = T và ta phải xác định lời giải của
bài toán khi t ∈ [0, T ), đặc biệt là giá trị của u(x, t) tại t = 0, tức giá trị
ban đầu. Đây là Bài toán ngược thời gian và là chủ đề nghiên cứu của
luận án này.
1.4. Các bài toán ngược kể trên thường đặt không chỉnh theo nghĩa
Hadamard ([65], [97]). Một bài toán được gọi là đặt chỉnh nếu nó thỏa
mãn ba điều kiện a) nó có nghiệm, b) nghiệm duy nhất, c) nghiệm phụ
thuộc liên tục (theo một tôpô nào đó) theo dữ kiện của bài toán. Nếu
như ít nhất một trong ba điều kiện này không thỏa mãn, thì ta nói rằng
Bài toán đặt không chỉnh. Hadamard cho rằng các bài toán đặt không
chỉnh không có ý nghĩa vật lý. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, nhiều bài
toán thực tiễn của khoa học và công nghệ đã dẫn đến các bài toán đặt
không chỉnh. Chính vì những lý do này mà từ đầu thập niên 50 của thế
kỷ trước, nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập tới bài toán đặt không
chỉnh. Các nhà toán học A. N. Tikhonov, M. M. Lavrent’ev, F. John, C.
Pucci, V. K. Ivanov là những người đi tiên phong trong lĩnh vực này. Kể
từ năm 1963, sau khi Tikhonov ([97]) đưa ra phương pháp chỉnh hóa các
bài toán đặt không chỉnh nổi tiếng của ông, bài toán đặt không chỉnh và
bài toán ngược đã trở thành một ngành riêng của vật lý toán và khoa học
tính toán. Phương trình parabolic ngược thời gian vừa được kể trên không
nằm ngoài trào lưu này.
Với các lý do nêu trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu cho luận án
của mình là:"Phương trình parabolic ngược thời gian".
6
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Một trong những vấn đề cơ bản khi nghiên cứu các bài toán đặt
không chỉnh là việc tìm các đánh giá ổn định. Các đánh giá này cho ta
biết bài toán "xấu" đến mức nào, để từ đó có thể đưa ra các phương pháp
số hữu hiệu. Ngoài ra, các đánh giá ổn định cũng rất quan trọng trong
việc chứng minh sự hội tụ và các đánh giá sai số của các phương pháp
chỉnh khi giải bài toán đặt không chỉnh. Cho đến nay, các đánh giá ổn
định cho phương trình parabolic ngược thời gian nhận được chủ yếu cho
phương trình tuyến tính với hệ số không phụ thuộc thời gian và điều kiện
biên thuần nhất ([8]). Các đánh giá thường chỉ nhận được cho chuẩn L2 ,
rất ít kết quả nhận được cho các chuẩn khác. Một trong những mục đích
của luận án là tìm các đánh giá ổn định cho phương trình parabolic ngược
thời gian với hệ số không phụ thuộc thời gian trong chuẩn Lp (p > 1) và
cho phương trình parabolic ngược thời gian với hệ số biến thiên theo thời
gian trong chuẩn L2 .
2.2. Mục đích thứ hai của luận án là chỉnh hóa phương trình parabolic
ngược thời gian bằng bài toán giá trị biên không địa phương. Để xấp xỉ
một cách ổn định nghiệm của bài toán đặt không chỉnh, ta phải dùng các
phương pháp chỉnh hóa. Các thuật toán chỉnh Tikhonov, lặp, hoặc phương
pháp bài toán liên hợp ([18], [31], [41], [55], [72], [73]),... đã tỏ ra khá hữu
hiệu cho phương trình truyền nhiệt ngược thời gian. Tuy nhiên, các phương
pháp này còn ít được áp dụng cho phương trình parabolic ngược thời gian
tổng quát. Trong luận án này chúng tôi phát triển luận văn cao học của
mình ([1], [2]) về việc sử dụng phương pháp chỉnh hóa bằng bài toán biên
không địa phương cho phương trình parabolic. Ý tưởng chỉnh hóa phương
trình parabolic ngược thời gian bằng bài toán biên không địa phương cho
phương trình parabolic được Vabishchevich ([101]) đề xuất vào năm 1981,
sau đó vào năm 1985 Showalter ([91]) cũng đưa ra phương pháp tương tự;
Clark và Oppenheimer ([23]) đã có một số cải tiến cho phương pháp này
vào năm 1994. Trong luận văn cao học của mình, tác giả đã đưa ra một
7
số đánh giá tốt hơn cho phương pháp của các tác giả kể trên ([10], [23])
và chứng minh rằng phương pháp trên thực sự là một phương pháp hiệu
chỉnh. Mục đích tiếp theo là mở rộng phương pháp cho các phương trình
phức tạp hơn, đặc biệt là phương trình parabolic ngược thời gian với hệ
số phụ thuộc thời gian.
2.3. Mục đích thứ ba của luận án là nghiên cứu về sơ đồ sai phân tiến
ổn định cho phương trình parabolic ngược thời gian. Trong các bài báo
([29], [30], [37]), dựa trên phương pháp làm trơn của mình, Đinh Nho Hào
đã đề xuất ra các sơ đồ sai phân tiến ổn định (trong chuẩn Lp ) cho một
số bài toán đặt không chỉnh. Áp dụng phương pháp này cho phương trình
parabolic ngược thời gian là một điều khả thi và thú vị. Tính toán trên
máy tính dựa theo sơ đồ sai phân tiến rất có hiệu quả, nên việc nghiên
cứu chúng cho các bài toán đặt không chỉnh là cần thiết.
3. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu về các đánh giá ổn định và chỉnh hóa
phương trình parabolic ngược thời gian.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu phương trình parabolic ngược thời gian với hệ số
không phụ thuộc thời gian và cả hệ số phụ thuộc thời gian. Luận án nghiên
cứu phương trình parabolic ngược thời gian trong không gian Hilbert (L2 )
và trong không gian Banach (Lp , p > 1).
5. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng phương pháp lồi logarithm, phương pháp bài toán
giá trị biên không địa phương và phương pháp làm nhuyễn do Đinh Nho
Hào đề xướng.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Ý nghĩa khoa học: Làm phong phú thêm các kết quả nghiên cứu về
phương trình parabolic ngược thời gian.
Ý nghĩa thực tiễn: Ứng dụng vào các bài toán truyền nhiệt, đồng hóa
số liệu, xử lý ảnh, ...
8
7. Tổng quan và cấu trúc của luận án
7.1. Bài toán đặt không chỉnh. Để tiện lợi cho các thảo luận về
sau, trong mục này chúng tôi trình bày các khái niệm về đánh giá ổn định
và chỉnh hóa bài toán đặt không chỉnh (xem [3]).
Giả sử ta cần giải phương trình
Au = f
với A là toán tử (tuyến tính hoặc phi tuyến) từ không gian hàm X vào
không gian hàm Y nào đó, còn f là dữ kiện đã cho thuộc không gian Y .
Khi bài toán đặt không chỉnh, thì không phải với dữ kiện f nào bài toán
cũng có nghiệm và thường là khi nghiệm của bài toán tồn tại (theo một
nghĩa nào đó), thì lời giải này không phụ thuộc liên tục (theo một metric
nào đó) vào dữ kiện f . Do tính không ổn định này của bài toán nên việc
giải số nó gặp khó khăn. Lý do là một sai số nhỏ trong dữ kiện của bài
toán có thể dẫn đến một sai số lớn bất kỳ trong lời giải. Mục đích của lý
thuyết bài toán đặt không chỉnh là đưa ra các phương pháp số hữu hiệu
để giải các bài toán này một cách ổn định. Để đạt được mục đích đó trước
hết phải nghiên cứu về tính ổn định có điều kiện của bài toán, nghĩa là
chỉ ra một lớp M nào đó của không gian X để lời giải của bài toán thuộc
lớp này phụ thuộc liên tục vào dữ kiện của bài toán.
Các đánh giá này không chỉ nói lên tính chất định tính của bài toán
mà còn giúp ta trong việc phát triển các phương pháp số để giải bài toán
và đánh giá sai số của phương pháp. Để đơn giản, ta giả thiết rằng X và
Y là các không gian định chuẩn với chuẩn tương ứng là k · kX và k · kY .
Giả sử rằng, nếu ta chọn được một tập hợp M và biết được nếu u ∈ M
thì nó sẽ phụ thuộc liên tục vào f , nghĩa là, tồn tại một hàm ω một biến
thực, liên tục, với ω(0) = 0, sao cho
kukX 6 ω(kf kY ).
Đánh giá này được gọi là đánh giá ổn định ([14]) và trong trường hợp
này, bài toán được gọi là ổn định có điều kiện hay ổn định theo nghĩa
9
Tikhonov ([55]) (Tikhonov là người đầu tiên đưa ra nhận xét này vào năm
1943 ([96])). Tập M thường là những tập mà ở đó lời giải của bài toán có
ý nghĩa vật lý, chẳng hạn như đó là tập mà ở đó lời giải bị chặn (nhiệt độ
hoặc vận tốc của một quá trình vật lý thì giới nội,...), hoặc đó là một tập
lồi, tập các hàm không âm, tập các hàm đơn điệu,... Nếu ω(t) = ctα với
α > 0 nào đó, thì ta có đánh giá ổn định kiểu Hölder và ta có một "bài
toán tốt". Nếu ω là một hàm dạng logarithm thì ta có đánh giá ổn định
kiểu logarithm - đây là "bài toán xấu". Còn nếu ta không có một đánh
giá nào về tốc độ tiến tới 0 của ω(t) khi t → 0 thì ta có một "bài toán rất
xấu".
Giả sử với toán tử A và các không gian định chuẩn (X, k · kX ) và
(Y, k · kY ) vừa đề cập ở trên, bài toán giải phương trình Au = f là một
bài toán đặt không chỉnh. Ngoài ra, giả sử rằng, với vế phải chính xác f¯,
tồn tại một nghiệm duy nhất; nghĩa là tồn tại duy nhất ū sao cho Aū = f¯.
Trên thực tế f¯ không được biết, mà ta chỉ biết phần tử fδ và số dương
δ sao cho kfδ − f¯kY 6 δ . Yêu cầu đặt ra là xây dựng nghiệm xấp xỉ của
phương trình – phần tử uδ sao cho uδ → ū khi δ → 0. Vì bài toán đặt
không chỉnh, chúng ta không thể sử dụng toán tử ngược A−1 , nghĩa là,
không thể chọn uδ = A−1 fδ . Bởi vì toán tử ngược này có thể không xác
định tại fδ và cũng có thể không liên tục trên Y . Do đó muốn xây dựng
nghiệm xấp xỉ uδ , ta cần đề xuất các phương pháp chỉnh hóa. Sau đây,
chúng tôi nhắc lại khái niệm chỉnh hóa bài toán đặt không chỉnh (xem
[27], [41], [65]).
Toán tử R(f, α), phụ thuộc tham số α, bị chặn với mỗi α > 0, tác động
từ Y vào X được gọi là chỉnh hóa cho phương trình Au = f (đối với phần
tử f¯), nếu các điều kiện sau đây thỏa mãn
1) Tồn tại hai số dương δ1 và α1 sao cho toán tử R(f, α) xác định với
mọi α ∈ (0, α1 ) và với mọi f ∈ Y : kf − f¯kY 6 δ, δ ∈ (0, δ1 );
2) Tồn tại một sự phụ thuộc α = α(f, δ) sao cho với mọi ε > 0, tồn
tại δ(ε) 6 δ1 thỏa mãn: với mọi f ∈ Y , kf − f¯kY 6 δ kéo theo bất đẳng
10
thức kR(f, α) − ūkX 6 ε.
Trong định nghĩa trên, nếu α được chọn không phụ thuộc f thì ta gọi
là cách chọn tiên nghiệm. Nếu α được chọn phụ thuộc cả f và δ thì ta gọi
là cách chọn hậu nghiệm.
7.2. Tổng quan về phương trình parabolic ngược thời gian
Một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu về phương trình
parabolic ngược thời gian là công trình của John ([57]) công bố năm 1955.
Trong [57], John đã đề xuất một phương pháp số để giải bài toán Cauchy
cho phương trình truyền nhiệt ngược thời gian, chứng minh phương pháp
đó ổn định trên tập các hàm số dương bị chặn. Krein là người đầu tiên sử
dụng phương pháp lồi logarithm để thu được các đánh giá ổn định nghiệm
cho phương trình parabolic ngược thời gian với hệ số hằng số và hệ số phụ
thuộc thời gian trong không gian Hilbert trong công trình [62] xuất bản
năm 1957. Tiếp theo đó các kết quả về tính duy nhất ngược cũng xuất
hiện ([63], [66]). Ngoài ra, trong công trình [63], Krein đã đưa ra đánh
giá cận dưới của nghiệm. Kết quả này kéo theo tính duy nhất ngược của
nghiệm phương trình parabolic trong không gian Banach Lp (p > 1).
Từ những công trình đầu tiên vừa đề cập ở trên, cho đến nay, hàng
loạt công trình có giá trị nghiên cứu về phương trình parabolic ngược thời
gian đã được công bố. Các công trình này bao gồm:
1) Tính duy nhất ngược (backward uniqueness): [5], [7], [60], [61], [63],
[66], [81], [89].
2) Đánh giá ổn định: [5], [6], [19], [22], [31], [33], [36], [29], [55], [62], [65],
[87].
3) Phương pháp chỉnh hóa, phương pháp số ổn định và hữu hiệu:[4], [10],
[12], [16], [17], [23], [29], [32], [33], [35], [36], [42], [44], [45], [46], [50], [52],
[57], [64], [65], [68], [74], [76], [77], [78], [90], [93].
Nghiên cứu về tính duy nhất ngược nhằm trả lời cho câu hỏi: "Khi nào
nghiệm của phương trình parabolic với thời điểm cuối đã biết được xác
định duy nhất?" Chẳng hạn, tính duy nhất ngược cho nghiệm của phương
11
trình parabolic tuyến tính với hệ số không phụ thuộc thời gian có thể mô
tả như sau: Cho H là một không gian Hilbert với tích vô hướng h·, ·i và
chuẩn k·k, A : D(A) ⊂ H → H là một toán tử không phụ thuộc thời gian,
tự liên hợp, xác định dương sao cho −A sinh ra một nửa nhóm co compact
{S(t)}t>0 trên H . Khi đó, nếu u(t), 0 6 t 6 T là nghiệm của phương trình
ut + Au = 0, 0 < t < T thỏa mãn u(T ) = 0 thì u(t) = 0, ∀t ∈ [0, T ).
Kết quả trên được phát triển theo hai hướng sau đây:
- Hướng thứ nhất nghiên cứu về tính duy nhất ngược và các đánh giá
cận dưới cho các nghiệm của bất phương trình vi phân chứa phương trình
parabolic. Theo hướng này, vào năm 1961, Cohen và Lees ([24]) đã thu
được đánh giá cận dưới cho các nghiệm của bất phương trình vi phân có
dạng
kut − Auk 6 φ(t)ku(t)k
(0.1)
chỉ với giả thiết A là toán tử đối xứng trong không gian Hilbert H . Kết
quả này kéo theo tính duy nhất ngược mà chúng tôi vừa đề cập ở trên.
Trong trường hợp toán tử A tự liên hợp, năm 1963, Agmon và Nirenberg
([5]) đã tìm thấy một cách chứng minh đơn giản hơn kết quả của Cohen
và Lees, cũng như một vài mở rộng của kết quả đó. Đến năm 1965, Ogawa
([81]) đã đơn giản hóa chứng minh của Agmon và Nirenberg với giả thiết
nhẹ hơn A là toán tử đối xứng. Năm 1967, Agmon và Nirenberg ([7]) đã
công bố kết quả về tính duy nhất ngược cho nghiệm của bất phương trình
vi phân có dạng tổng quát hơn
(
)1
°
°
Z T
° du
°
2
2
° − B(t)u(t)° 6 Φ(t) ku(t)k2 +
.
ω(τ
)ku(τ
)k
dτ
° dt
°
t
Ở đây B(t) (với mỗi t) là toán tử tuyến tính trong không gian Hilbert
H với miền xác định DB(t) , u(t) ∈ DB(t) , u ∈ C 1 ([0, T ); H), B(t)u(t) ∈
C([0, T ); H), Φ(t) là hàm đo được không âm bị chặn trên mỗi đoạn hữu
hạn [0, T 0 ] với T 0 < T , ω(t) là hàm liên tục không âm trên [0, T ) và thỏa
R
mãn 0T ω(τ )ku(τ )k2 dτ < +∞.
12
-Hướng thứ hai nghiên cứu tính duy nhất ngược cho phương trình
parabolic có cấu trúc phức tạp hơn hoặc điều kiện áp đặt lên các hệ số của
phương trình yếu hơn. Theo hướng này, năm 2003, Kukavica ([60]) đã công
bố kết quả về tính duy nhất ngược cho phương trình ut −4u = wj ∂j u+vu
với (x, t) ∈ Rn × (T0 , 0]. Năm 2005, Santo và Prizzi ([89]) đã đưa ra kết
quả về tính duy nhất ngược cho phương trình với toán tử parabolic ngược
có dạng
L = ∂t +
n
X
∂xj (ajk (t, x)∂xk ) +
n
X
bj (t, x)∂xj + c(t, x),
j=1
j,k=1
trong đó các hệ số của toán tử L không liên tục Lipschitz theo biến thời
gian. Năm 2007, Kukavica ([61]) đã công bố kết quả về tính duy nhất
ngược cho phương trình phi tuyến có dạng ut + Au = f (u).
Một vấn đề khác được nhiều nhà toán học quan tâm nghiên cứu là tìm
các kết quả đánh giá ổn định. Trong trường hợp phương trình tuyến tính
với hệ số không phụ thuộc thời gian ta có kết quả "Cho T, E, ε là các số
thực dương và A là toán tử tuyến tính không bị chặn tự liên hợp xác
định dương trên không gian Hilbert H , nếu u(t) là nghiệm của phương
trình ut + Au = 0, 0 < t < T với ku(T )k 6 ε và ku(0)k 6 E , thì ta có
t
t
t
t
đánh giá ku(t)k 6 ku(T )k T ku(0)k1− T 6 ε T E 1− T , ∀t ∈ [0, T ]". Đây là kết
quả tối ưu (xem [94]) và có thể đạt được bằng phương pháp lồi logarithm
([6], [9], [14], [27], [55], [62], [65], [77]). Kết quả trên được phát triển theo
ba hướng sau:
Thứ nhất là tìm các đánh giá ổn định nghiệm cho phương trình với hệ
số phụ thuộc thời gian, tức là trường hợp A = A(t). Như đã trình bày ở
trên, kết quả đầu tiên được Krein ([62]) công bố năm 1957. Kết quả này
được Agmon và Nirenberg ([5]) phát triển vào năm 1963. Từ đó tới nay, có
rất nhiều công trình đã trích dẫn kết quả đánh giá ổn định của Agmon và
Nirenberg nhưng chưa có một công trình nào cải tiến kết quả này. Trong
luận án, chúng tôi chứng minh được các kết quả đánh giá ổn định nghiệm
đã nêu trong [5] không tốt hơn kết quả đánh giá ổn định nghiệm trong
13
trường hợp toán tử A không phụ thuộc thời gian.
Thứ hai là tìm các đánh giá ổn định nghiệm cho phương trình phi
tuyến. Hướng nghiên cứu này đến nay vẫn còn ít kết quả mặc dù nhiều
bài toán thực tế dẫn ta đến phương trình phi tuyến. Một vài kết quả đánh
giá ổn định nghiệm cho phương trình Bürgers ngược thời gian - một trong
những phương trình phi tuyến có nhiều ứng dụng nhất có thể tìm thấy
trong các công trình của Carasso ([20]), Ponomarev ([87]) cũng như trong
một số công trình của Payne và cộng sự.
Thứ ba là tìm các đánh giá ổn định trong trường hợp nghiệm của bài
toán được xét trong không gian Banach. Hai phương pháp đã được sử
dụng để thu được các kết quả trong trường hợp này là phương pháp làm
nhuyễn do Đinh Nho Hào đề xuất ([29], [30], [33], [99]) và phương pháp
nửa nhóm ([11]).
Một điểm đáng chú ý là trong rất ít công trình đánh giá ổn định cho
các đạo hàm của nghiệm được thiết lập (xem [19], [33]).
Ngoài phương pháp lồi logarithm, phương pháp làm nhuyễn và phương
pháp nửa nhóm, một phương pháp khác được sử dụng để đánh giá ổn
định nghiệm cho các bài toán đặt không chỉnh là phương pháp đánh giá
Carleman. Hiện tại phương pháp này được xem là công cụ mạnh để chứng
minh các đánh giá ổn định và tính duy nhất của bài toán ngược ([55],
[65]).
Nghiên cứu sự phụ thuộc của lời giải vào miền mà trên đó ta xét phương
trình cũng rất có ý nghĩa vì trên thực tế, miền hình học mà trên đó ta
nghiên cứu phương trình thường chỉ là "gần đúng" (xem [9]). Payne ([82])
là người đầu tiên khởi xướng các nghiên cứu về sự phụ thuộc vào hình học
của lời giải các bài toán ngược. Song đây là bài toán khó. Trong phương
trình parabolic ngược thời gian, cho đến nay chúng tôi chỉ thấy kết quả
của Crooke và Payne cho phương trình truyền nhiệt ([25]).
Bây giờ chúng ta đề cập đến vấn đề chỉnh hóa phương trình parabolic
ngược thời gian. Ta có thể chia thành ba trường hợp như sau
14
A) Chỉnh hóa cho phương trình tuyến tính với hệ số không phụ thuộc
thời gian trong không gian Hilbert.
Xét bài toán tìm một hàm u : [0, T ] → H sao cho
½
ut + Au = 0, 0 < t < T,
ku(T ) − f k 6 ε
(0.2)
với A là toán tử tuyến tính không bị chặn tự liên hợp xác định dương trên
không gian Hilbert H và f thuộc H .
Năm 1967, Lattes và Lions ([64]) đã đưa ra phương pháp tựa đảo
(quasi-reversibility) hay phương pháp QR. Ý tưởng của phương pháp này
là thay thế toán tử A bởi toán tử gα (A), α > 0. Cụ thể, trong [64] Lattes
và Lions đã chọn gα (A) = A − αA2 , dẫn đến bài toán đặt chỉnh
½
vαt + Avα − αA2 vα = 0, 0 < t < T,
vα (T ) = f, α > 0.
và sử dụng vα (0) làm giá trị ban đầu cho bài toán đặt chỉnh
½
uαt + Auα = 0, 0 < t < T,
uα (0) = vα (0), α > 0.
Cuối cùng, họ chứng tỏ rằng uα (T ) → f khi α → 0. Họ đã không xem
xét u(t) với t ∈ [0, T ) và toán tử chuyển f thành vα (0) có chuẩn lớn khi
c
α nhỏ (có bậc e α ). Hơn nữa, việc thay thế toán tử A bởi toán tử có bậc
hai như trên sẽ gây ra nhiều khó khăn trong việc giải số ([16]).
Năm 1972, Gajewski và Zacharias ([44]) đã sử dụng phương pháp QR
với gα (A) = A(I + αA)−1 , α > 0. Phương pháp này còn được gọi là
phương pháp phương trình Sobolev. Ưu điểm của phương pháp này ở chỗ
A(I + αA)−1 là toán tử tuyến tính bị chặn. Điều này dẫn đến tính đặt
chỉnh của bài toán nhiễu theo cả hai hướng thuận và ngược thời gian. Hơn
nữa, phương pháp này cho nghiệm xấp xỉ tốt hơn phương pháp của Lattes
và Lions. Tuy nhiên, toán tử chuyển f thành vα (0) vẫn có chuẩn lớn khi
c
α nhỏ (có bậc e α ). Cũng với phương pháp tương tự như của Gajewski và
Zacharias nhưng Ewing ([42]) sử dụng trực tiếp nghiệm của phương trình
15
Sobolev
½
vαt + αAvαt + αAvα = 0,
vα (T ) = f, α > 0
0 < t < T,
để làm nghiệm xấp xỉ cho bài toán (0.2). Với giả thiết ku(0)k 6 E , bằng
cách chọn α = 1/ ln(E/ε), Ewing đưa ra đánh giá sai số kiểu logarithm
với mọi t ∈ (0; T ]
kvα (t) − u(t)k 6
t
4T (T − t)E
1− Tt
TE
+
ε
= O([− ln(ε/E)]−1 ).
2
t ln(E/ε)
Phương pháp phương trình Sobolev xuất hiện trong các bài báo [13], [42],
[44], [52], [90].
Phát triển ý tưởng của Lattes và Lions, năm 1973, Miller ([77]) đưa ra
phương pháp ổn định tựa đảo (stabilized quasi-reversibility) hay phương
pháp SQR. Đầu tiên giải bài toán đặt chỉnh
½
vt + g(A)v = 0, 0 < t < T,
v(T ) = f,
ở đây g(λ) xấp xỉ λ nếu λ là số dương bé nhưng g(λ) bị chặn trên khi λ
là số dương lớn. Tiếp theo, K. Miller sử dụng v(0) làm giá trị ban đầu cho
bài toán đặt chỉnh
½
ũ + Aũ = 0,
ũ(0) = v(0).
0 < t < T,
Miller cũng đưa ra điều kiện cần và đủ đối với hàm g để có đánh giá sai
số kiểu Hölder
t
t
kũ(t) − u(t)k 6 2ε T E 1− T , ∀t ∈ [0, T ]
nếu u(t) là nghiệm của (0.2) thỏa mãn điều kiện ku(0)k 6 E .
Năm 1973, Buzbee và Carasso ([17]) đề xuất phương pháp phương
trình dầm ngược (the backward beam equation approach) để giải phương
trình parabolic tuyến tính tự liên hợp ngược thời gian. Có thể mô tả
phương pháp này như sau:
Giả sử u(t), 0 6 t 6 T là nghiệm của bài toán (0.2) với ràng buộc
ku(0)k 6 E . Đặt
k=
1 E
ln
T
ε
16
Kí hiệu w(t), 0 6 t 6 T là nghiệm duy nhất của bài toán đặt chỉnh
wtt = Bw, 0 < t < T,
w(0) = 0, w(T ) = ekT f,
trong đó B = (A − kI)2 là toán tử không âm tự liên hợp không bị chặn
trên không gian Hilbert H . Buzbee và Carasso sử dụng e−kt w(t) để xấp
xỉ u(t). Bằng phương pháp hàm lồi, họ chứng minh được đánh giá sai số
t
t
ke−kt w(t) − u(t)k 6 ε T E 1− T , ∀t ∈ [0, T ].
Việc chứng minh đánh giá sai số này khá đơn giản và đánh giá sai số đó là
tối ưu (xem [94]). Trong công trình [70], Manselli và Miller đã có nhận xét
rằng việc giải số phương pháp của Buzbee và Carasso gặp nhiều khó khăn
và đã đưa ra phương pháp giảm số chiều cho tính toán nghiệm số hữu hiệu
cho trường hợp hệ số biến thiên. Các phương pháp số khác như phương
pháp phần tử hữu hạn, phương pháp phần tử biên và phương pháp rời rạc
hóa thời gian cũng được ứng dụng để giải phương trình parabolic ngược
thời gian ([39], [40], [45], [50], [76]). Một phương pháp số để giải bài toán
parabolic ngược thời gian với toán tử elliptic không tự liên hợp có thể tìm
thấy trong [46].
Tiếp theo, chúng tôi thảo luận về phương pháp bài toán giá trị biên
không địa phương. Nó có tên khác là phương pháp tựa giá trị biên hay
phương pháp QBV. Theo chúng tôi, Vabishchevich ([101]) là một trong
những người đầu tiên sử dụng phương pháp này vào năm 1981. Sau đó
vào năm 1994, Clark và Oppenheimer ([23]) cũng sử dụng phương pháp
này bằng cách xấp xỉ bài toán (0.2) bởi
½
vαt + Avα = 0, 0 < t < T,
αvα (0) + vα (T ) = f, α > 0,
và đề xuất một số đánh giá sai số. Tuy nhiên, hai tác giả trên không
nghiên cứu tính hội tụ của phương pháp. Phương pháp bài toán giá trị
biên không địa phương ứng dụng cho phương trình parabolic ngược thời
17
gian có thể tìm thấy trong các bài báo [10], [26], [32], [74], [91]. Gần đây,
chúng tôi còn ứng dụng thành công phương pháp này tới bài toán Cauchy
cho phương trình elliptic ([34]).
Một phương pháp khác được ứng dụng rộng rãi cho nhiều bài toán
đặt không chỉnh khác nhau là phương pháp chỉnh hóa Tikhonov [98].
Tikhonov đã đề xuất phương án chỉnh hóa bài toán giải phương trình
Au = f trong không gian Hilbert H bằng cách lấy tối thiểu hóa phiếm
hàm
kAu − f k2H + αl2 (u)
theo u. Ở đây, phiếm hàm l xác định không âm: l(u) > 0, thuần nhất,
l(λu) = |λ|l(u) sao cho tập {u ∈ H|l(u) 6 m} với số dương m tuỳ ý là
tập compact. Phiếm hàm l được gọi là phiếm hàm hiệu chỉnh, còn α > 0
được gọi là tham số hiệu chỉnh. Có thể chứng minh được rằng bài toán tối
thiểu hóa này có nghiệm ổn định và với cách chọn α hợp lý thì nghiệm của
nó xấp xỉ nghiệm của phương trình toán tử. Ngoài ra, sử dụng các đánh
giá ổn định, ta có thể tìm được sai số của lời giải xấp xỉ này với lời giải
chính xác. Cần chú ý rằng, xác định tham số hiệu chỉnh α là vấn đề mấu
chốt của phương pháp chỉnh Tikhonov và hiện tại có khá nhiều phương
pháp để tìm nó, chẳng hạn như phương pháp tiên nghiệm, phương pháp
dựa trên nguyên lý sai số của Morozov (Morozov discripancy principle),
phương pháp L−đường (L− curve) ([14]),... Về ứng dụng phương pháp
chỉnh Tikhonov cho phương trình parabolic ngược thời gian có thể tìm
thấy trong công trình [43].
Ngoài các phương pháp trên, nhiều tác giả còn sử dụng phương pháp
lặp, phương pháp biểu diễn nghiệm ở dạng chuỗi, phương pháp sai phân,
và phương pháp làm nhuyễn (mollification method)... cho phương trình
parabolic ngược thời gian. Tuy nhiên, không có một phương pháp nào là
đa năng và có thể giải quyết thấu đáo tất cả các loại bài toán.
Chẳng hạn như phương pháp Tikhonov hoặc phương pháp tựa đảo đòi
hỏi phải giải một phương trình bậc cao gấp đôi phương trình đã có và
18
việc tìm tham số hiệu chỉnh là không dễ dàng. Ngoài ra, rất khó sử dụng
phương pháp của Tikhonov trong không gian Banach, hay nói chung là
việc nghiên cứu phương pháp chỉnh hóa trong không gian Banach chưa
được phát triển.
B) Chỉnh hóa cho phương trình tuyến tính với hệ số không phụ thuộc
thời gian trong không gian Banach.
Để chỉnh hóa bài toán trong không gian Banach, ta có thể dùng phương
pháp làm nhuyễn. Một trong những người đầu tiên ứng dụng phương
pháp làm nhuyễn cho bài toán đặt không chỉnh là Vasin ([102]), tiếp đó là
Miller, Manselli ([71]). Murio và các học trò ([79]) đã phát triển phương
pháp này cho nhiều bài toán khác nhau. Tuy nhiên, do chỉ sử dụng biến
đổi Fourier nên các tác giả này chỉ nghiên cứu được các bài toán trong
không gian Hilbert L2 . Vào năm 1994, Đinh Nho Hào ([29]) đã đề xuất
một phương pháp làm nhuyễn cho các bài toán đặt không chỉnh trong
không gian Banach. Phương pháp này cho ta cách giải quyết bài toán
trong trường hợp tổng quát, ứng dụng được cho hầu hết các bài toán đặt
không chỉnh truyền thống, trong đó có phương trình parabolic ngược thời
gian. Hơn nữa, phương pháp này cho ta đánh giá sai số dạng Hölder và
có thể triển khai dễ dàng trên máy tính.
Ngoài ra, ta có thể chỉnh hóa bài toán trong không gian Banach bằng
phương pháp nửa nhóm ([11], [47], [51], [53], [52], [54], [86]). Theo hướng
nghiên cứu này, vào năm 1998, Piskarev ([86]) đã dựa trên lý thuyết nửa
nhóm của các toán tử và xấp xỉ rời rạc để giải bài toán
ut = −Au(t), t ∈ [0, ∞), u(0) = x0 ,
trong một không gian Banach E với toán tử đóng A có miền D(A) trù
mật trong E và có tập giải ρ(−A) 6= ∅. Các đánh giá sai số kiểu logarithm
cũng được Piskarev đề xuất và chứng minh. Đến năm 2004, Huang và
Zheng ([51]) đã xem xét bài toán
ut = Au(t) (0 < t 6 T ), u(0) = x,
(0.3)
19
với −A là toán tử sinh của một nửa nhóm giải tích góc α (0 < α < π2 )
trên một không gian Banach X . Tuy nhiên, họ đã không đưa ra được
tốc độ hội tụ và các phương pháp hữu hiệu để giải số. Năm 2005, Ames
và Hughes ([11]) đã chứng minh được các kết quả phụ thuộc liên tục
kiểu Hölder giữa nghiệm của bài toán xấp xỉ đặt chỉnh với nghiệm của
bài toán đặt không chỉnh trong cả không gian Hilbert và không gian
Banach. Trong không gian Banach, bài toán không chỉnh được xét đến là
ut = Au(t), u(0) = x, (0 6 t < T ), với −A là toán tử sinh của nửa nhóm
giải tích (holomorphic). Năm 2006, Huang và Zheng ([54]) xem xét bài toán
(0.3) với A là một toán tử xác định trù mật trong một không gian Banach
và phổ của A được chứa trong miền hình quạt (sector) thuộc nửa phải
của mặt phẳng phức còn giải thức của A bị chặn đa thức (polynomially
bounded). Năm 2007, Hetrick và Hughes ([47]) đã mở rộng kết quả của
Ames và Hughes ([11]) cho trường hợp phương trình không thuần nhất
có dạng ut = Au(t) + h(t), u(0) = x, (0 6 t < T ). Năm 2008, Huang
([53]) đã đề xuất phương pháp chỉnh hóa cho bài toán đặt không chỉnh
ut + Au(t) = 0, (0 6 t < T ), u(T ) = x, với A là toán tử không bị chặn
thỏa mãn −A sinh ra một nửa nhóm giải tích bị chặn đều trên một không
gian Banach X và x ∈ X . Các đánh giá sai số kiểu Hölder giữa nghiệm
của bài toán xấp xỉ với nghiệm của bài toán đặt không chỉnh cũng được
đề xuất và chứng minh.
C) Chỉnh hóa cho phương trình phi tuyến.
Trong luận án tiến sỹ của mình ([42]), Ewing đã đề xuất chỉnh hóa một
số phương trình parabolic ngược thời gian bằng phương trình Sobolev. Ý
tưởng này đã được nhiều nhà khoa học phát triển. Một trong những mở
rộng thú vị nhất có thể kể ra đó là việc dùng phương trình Sobolev để
chỉnh hóa các phương trình phi tuyến ngược thời gian ([13], [67], [83],
[84]). Việc nghiên cứu các phương trình Sobolev phi tuyến là một lĩnh vực
hết sức sôi động trong lý thuyết phương trình đạo hàm riêng ([13]). Hơn
nữa, việc dùng các phương trình Sobolev để chỉnh hóa các phương trình
20
parabolic phi tuyến ngược thời gian là một điều thú vị và quan trọng, vì
ngoài việc cho ta một phương pháp chỉnh, ta còn có thể chứng minh được
tính tồn tại nghiệm của một số phương trình parabolic ngược thời gian,
hoặc thuận nghịch thời gian - vấn đề mở hết sức quan trọng và có ý nghĩa
trong xử lý ảnh ([20], [28], [49], [58]).
Mặc dù phương pháp phương trình Sobolev vừa đề cập ở trên có rất
nhiều ưu điểm trong việc chỉnh hóa bài toán phi tuyến, nó cũng có nhược
điểm là đánh giá sai số giữa nghiệm xấp xỉ và nghiệm chính xác thường
có dạng logarithm. Để tăng tốc độ hội tụ, các nhà toán học còn sử dụng
phương pháp phương trình tích phân ([100]) hoặc phương pháp nửa nhóm
([48]). Ngoài ra, hai phương pháp lặp để xấp xỉ nghiệm của phương trình
Bürgers ngược thời gian cũng được đề xuất bởi Kozlov và các cộng sự
([69]).
7.3. Tổng quan luận án.
Trong luận án này, chúng tôi chỉnh hóa bài toán (0.2) bằng cách sử
dụng phương pháp bài toán giá trị biên không địa phương
½
vαt + Avα = 0, 0 < t < aT
αvα (0) + vα (aT ) = f
(0.4)
với a > 1 và tham số chỉnh hóa α > 0. Chúng tôi đưa ra cách chọn tham
số hiệu chỉnh tiên nghiệm và hậu nghiệm để các phương pháp chỉnh hóa
bậc tối ưu. Ngoài ra, chúng tôi còn thử nghiệm các phương pháp này trên
máy tính để minh chứng cho sự hữu hiệu của chúng.
Trong [101], Vabishchevich đã đề xuất một phương pháp tiên nghiệm
cho bài toán (0.2) nhưng không đưa ra tốc độ hội tụ như chúng tôi đã làm
trong luận án. Ngoài ra, ông cũng đã đề xuất phương pháp hậu nghiệm
cho bài toán (0.2) như sau:
Giải bài toán đặt chỉnh
½
uαt + Auα = 0, 0 < t < T,
αuα (0) + uα (T ) = f, α > 0
và chọn α sao cho
kuα (T ) − f k = ε.
- Xem thêm -