Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phương thức láy trong tiếng tày...

Tài liệu Phương thức láy trong tiếng tày

.PDF
127
371
99

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ========== HÀ THỊ BẠCH PHƯƠNG THỨC LÁY TRONG TIẾNG TÀY LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Thái Nguyên - 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ========== HÀ THỊ BẠCH NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ NGUYỄN XUÂN KHÁNH Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60.22.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Thái Nguyên - 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỤC LỤC MỞ ĐẦU Trang 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Lịch sử nghiên cứu 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 7 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7 5. Phương pháp nghiên cứu 8 6. Đóng góp mới 9 7. Bố cục của luận văn 9 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN 11 1.1. Khái niệm về từ và hình vị 11 1.2. Nghĩa của từ và hình vị 16 1.3. Cấu tạo từ 19 1.4. Dân tộc Tày và tiếng Tày 31 TIỂU KẾT 43 CHƯƠNG 2: PHƯƠNG THỨC LÁY TRONG TIẾNG TÀY 44 2.1. Điều kiện chung của phương thức láy 44 2.2. Sự hoạt động của phương thức láy trong tiếng Tày 45 TIỂU KẾT CHƯƠNG3: SỰ SỬ DỤNG TỪ LÁY TRONG “TRUYỆN 59 61 KIỀU” - BẢN DỊCH TIẾNG TÀY 3.1.Vài nét về Nguyễn Du và “Truyện Kiều”, về dịch giả và bản dịch 61 3.2. Từ láy tiếng Tày trong “Truyện Kiều” - bản dịch tiếng Tày 68 TIỂU KẾT 88 KẾT LUẬN 89 TÀI LIỆU THAM KHẢO 91 PHỤ LỤC 95 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Phụ lục 1: Danh sách các từ láy tiếng Tày được sưu tập Phụ lục 2: Danh sách các từ láy trong “Truyện Kiều” - bản dịch tiếng 102 Tày Phụ lục 3: Trang bìa và một số trang của “Truyện Kiều” - bản dịch 115 tiếng Tày Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI  Trong số các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, dân tộc Tày là một cộng đồng tộc ngƣời có số dân đông nhất - khoảng 1,5 triệu ngƣời (theo thống kê năm 1989), đứng thứ 2 sau ngƣời Kinh. Địa bàn cƣ trú của ngƣời Tày thƣờng tập trung chủ yếu ở vùng Đông Bắc của Tổ quốc nhƣ Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn... Từ năm 1954 và nhất là sau năm 1975, có một bộ phận ngƣời Tày di cƣ vào các tỉnh phía Nam nhƣ Lâm Đồng, Đắc Lắc, Kon Tum... Đối với mỗi ngƣời Tày, tiếng Tày là tiếng mẹ đẻ, là ngôn ngữ thứ nhất trong cộng đồng mình. Đó là công cụ giao tiếp và tƣ duy quan trọng nhất, thân thiết nhất, giúp ngƣời Tày gần gũi và cố kết với nhau trong một cộng đồng dân tộc. Đây cũng là phƣơng tiện để bảo tồn và phát triển nhiều hình thái văn hóa quan trọng khác của dân tộc Tày. Chính vì vậy, ngƣời Tày mong muốn con em mình sẽ không quên tiếng nói ông cha mình, phải nắm đƣợc và sử dụng tiếng Tày thuần thục trong đời sống. Mong muốn này chỉ đƣợc thực hiện với sự tìm hiểu kĩ lƣỡng về tiếng Tày trên mọi phƣơng diện, trong đó có các phƣơng thức cấu tạo từ.  Trƣớc thực tế nói trên, đồng thời nhằm giữ gìn và phát triển ngôn ngữ các dân tộc, sử dụng các ngôn ngữ này tốt hơn trong đời sống, sau quyết định 53/CP (2/ 1980), Thủ tƣớng Chính phủ đã ra Chỉ thị 38/ 2004/ CT -TTg (ngày 09/ 11/ 2004), yêu cầu cán bộ, công chức công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải biết và sử dụng đƣợc tiếng nói của đồng bào ở các tỉnh có đồng bào dân tộc thiểu số (trong đó có các tỉnh Thái nguyên, Cao Bằng, Bắc Cạn, Bắc Giang …là nơi cƣ trú của đồng bào Tày), yêu cầu phải tổ chức dạy và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 học tiếng dân tộc thiểu số đối với đối tƣợng trên. Một trong những ngôn ngữ đƣợc chú ý trong dạy và học này là tiếng Tày. Để việc dạy và học tiếng Tày đạt hiệu quả, ngoài chƣơng trình, phƣơng pháp dạy và học, thì còn cần có sự hiểu biết sâu sắc về tiếng Tày ở nhiều mặt khác nhau. Một trong số các khía cạnh cần đƣợc nghiên cứu tìm hiểu, là làm rõ đặc điểm các phƣơng thức cấu tạo từ của tiếng Tày. Trong số các phƣơng thức cấu tạo từ của tiếng Tày có phƣơng thức láy.  Là ngƣời con của dân tộc Tày, tác giả luận văn luôn tha thiết với tiếng nói và văn hoá của dân tộc mình, muốn bày tỏ tình yêu dân tộc và tiếng mẹ đẻ của mình bằng việc tìm hiểu về tiếng Tày nói chung và phƣơng thức láy trong tiếng Tày nói riêng. Tác giả xem đây là cơ hội để đƣợc tìm hiểu đầy đủ và sâu sắc hơn về tiếng nói dân tộc mình, nhằm góp phần giới thiệu, tôn vinh tiếng mẹ đẻ, đồng thời góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phƣơng, đem lí luận khoa học phục vụ đời sống xã hội. Đó là những lí do để tác giả chọn “ Phương thức láy trong tiếng Tày” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn này. 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU 2.1. Về hiện tƣợng láy nói chung “Láy” là một phƣơng thức cấu tạo từ quan trọng và là một hiện tƣợng ngôn ngữ phức tạp, đa dạng. Lịch sử ngôn ngữ học cho thấy nhiều cách tiếp cận, nhiều cách nhìn khác nhau đối với hiện tƣợng này. Có thể kể đến tên tuổi các nhà nghiên cứu nhƣ: A.G. Haudricourt, M.B Emneau, A.N. Barinova, Hoàng Văn Hành, Đào Thản, Nguyễn Phú Phong … Ở Việt Nam sự nghiên cứu về láy, chủ yếu đƣợc dành cho tiếng Việt. Trong hệ thống từ vựng tiếng Việt, từ láy chiếm một số lƣợng khá lớn. Mấy thập kỉ qua, từ láy tiếng Việt luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong nƣớc và nƣớc ngoài bởi tính đa dạng và phức tạp nhƣng cũng đầy lí thú của nó. Đối với các sáng tác văn chƣơng bằng tiếng Việt, sự Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 sử dụng các từ láy có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi giá trị tƣợng thanh, tƣợng hình, cũng nhƣ giá trị biểu cảm rõ rệt. Trong cuốn “Hoạt động của từ tiếng Việt” (1978), tác giả Đái Xuân Ninh cho rằng: cách láy tiếng Việt xuất hiện từ thế kỷ thứ XVII sau khi hệ thống thanh điệu đƣợc hình thành. Nhờ có hệ thống thanh điệu phong phú của tiếng Việt nên phép láy dễ dàng phát triển. Nó phát triển đỉnh cao ở thế kỷ XVII XVIII trong nhiều tác phẩm tiêu biểu viết bằng chữ Nôm của nền văn học cổ điển Việt Nam nhƣ: “Truyện Kiều” (Nguyễn Du), “Chinh phụ ngâm” (Đoàn Thị Điểm), “Cung oán ngâm khúc” (Nguyễn Gia Thiều), “Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hƣơng ”… Đến giai đoạn sau, cách láy phát triển với nhịp độ chậm hơn, nhƣờng bƣớc cho các phƣơng pháp tạo từ mới đáp ứng sự phát triển của khoa học kĩ thuật, phù hợp với cách biểu đạt những khái niệm chính xác là cách ghép. Tuy nhiên, cho đến nay láy vẫn là một phƣơng pháp cấu tạo từ cơ bản và có vai trò quan trọng trong việc tạo ra các giá trị về nghĩa… Khi nghiên cứu về “láy”, các tác giả Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Tài Cẩn, Hoàng Tuệ, Hoàng Văn Hành, Đái Xuân Ninh, Hà Quang Năng, Hoàng Cao Cƣơng, Diệp Quang Ban, Nguyễn Thiện Giáp, Phi Tuyết Hinh, Đào Thản, Nguyễn Thị Hai, Nguyễn Đức Tồn … đã rất chú ý đến các đặc điểm chung của cách láy nhƣ: đặc điểm cấu tạo, đặc trƣng ngữ nghĩa, giá trị biểu trƣng, giá trị gợi tả âm thanh, giá trị biểu cảm của từ láy. Những công trình nghiên cứu về từ láy trong các ngôn ngữ ở Việt Nam, bao gồm các sách nghiên cứu về tiếng Việt nói chung trong đó có từ láy, những chuyên khảo, tập bài, các bài nghiên cứu và luận án khoa học về từ láy trong tiếng Việt và các ngôn ngữ dân tộc thiểu số. Đó là: Cách xử lý những hiện tượng trung gian trong ngôn ngữ của Đỗ Hữu Châu trong tạp chí Ngôn ngữ số 1, 1971; Từ láy trong tiếng Việt của Hoàng Văn Hành (Nxb Khoa học xã hội, 1985); Về một hiện tượng láy trong tiếng Việt của Hoàng Văn Hành, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 đăng trong tạp chí Ngôn ngữ số 2, 1979; Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại của Hồ Lê (Nxb Khoa học xã hội, 1976); Về từ lấp láy của văn học thế kỉ XVII, đăng trong cuốn “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ” tập 2 (Nxb Khoa học xã hội, 1981); Các bài viết: Vấn đề từ láy trong tiếng Việt của Hà Quang Năng; Từ láy đôi trong tiếng Mường của Hoàng Văn Hành; Phương thức láy trong tiếng Kơho của Tạ Văn Thông; Từ láy Bru – Vân kiều của Hồ Xuân Kiểu; Một số vấn đề về từ láy tiếng Ê đê của Phan Văn Phức, in trong cuốn Từ láy những vấn đề còn bỏ ngỏ (Nxb Khoa học xã hội, 1988) … và một số đề tài nghiên cứu về từ láy trong các luận văn, luận án. Các công trình nghiên cứu của các tác giả nói trên đã khảo sát, miêu tả để tìm ra các quy luật cấu tạo và giá trị của “láy” trong ngôn ngữ, chủ yếu trên cơ sở tiếng Việt và một số ít là trên tƣ liệu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số. Đây chính là cơ sở lí luận, là nguồn tƣ liệu quí giá, là tiền đề khoa học cho việc tiếp tục nghiên cứu về từ láy trong tiếng Tày. 2. 2. Về tiếng Tày và phƣơng thức láy trong tiếng Tày  Các nghiên cứu về tiếng nói, chữ viết Tày Tiếng Tày đã và đang thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Đã có không ít các công trình nghiên cứu của các tác giả về tiếng Tày nhƣ: Tác giả Lạc Dƣơng có bài viết “Tính phong phú của tiếng Tày - Nùng” in trên báo Việt Nam độc lập, năm 1969; Tác giả Nguyễn Hàm Dƣơng có bài viết “Xây dựng và phát triển hệ thống từ vựng Tày - Nùng” in trên báo Việt Nam độc lập, năm 1969; “Quan hệ giữa tiếng Tày Nùng và tiếng Việt về vấn đề ngôn ngữ”, đăng trong tạp chí Việt Nam độc lập, số 17, năm 1969; “Ngôn ngữ Tày Nùng” và “ Các chức năng xã hội của tiếng Tày Nùng”, đăng trong tạp chí Ngôn ngữ, số 1 năm 1970. Nguyễn Thiện Giáp, với bài “ Hiện tƣợng từ mƣợn trong tiếng Tày Nùng”, đăng trong tạp chí Việt Nam độc lập, ngày Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 5/3 năm 1970; “Cách làm giàu vốn từ vựng Tày Nùng”, đăng trong tạp chí Việt Nam độc lập, ngày 12 tháng 3 năm 1970. “Một vài ý kiến về các từ mƣợn trong tiếng Tày - Nùng”; “Vài nét về sự phát triển của tiếng Tày - Nùng sau Cách mạng tháng tám”, của các tác giả Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo in trên tạp chí Ngôn ngữ, năm 1970; Đoàn Thiện Thuật, với bài "Hệ thống ngữ âm tiếng Tày - Nùng", trong Tìm hiểu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, tập I, Viện Ngôn ngữ học, 1972; Các tác giả Hoàng Văn Ma - Hoàng Văn Sán -Mông Ký Slay, Sách học tiếng Tày Nùng, Nxb VHDT, HN, 2002; Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo, Hoàng Chí, Ngữ pháp tiếng Tày - Nùng, Nxb Khoa học xã hội, HN, 1971; Nguyễn Minh Thuyết, Lƣơng Bèn, Nguyễn Văn Chiến, Góp ý về việc cải tiến chữ Tày - Nùng, Ngôn ngữ, số 2, HN, 1971; Cung Văn Lƣợc, Chữ Nôm Tày qua so sánh với chữ Hán và chữ Việt Nôm, Luận án PTS Khoa học Ngữ văn, HN, 1992; Lƣơng Bèn, Tình hình phát triển của chữ Tày - Nùng, trong: Những vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam, Nxb KHXH, HN, 1993; Slon phuối Tày (dùng cho cán bộ công tác tại vùng dân tộc), TN, 2007; Hoàng Văn Ma, Vấn đề tiếng và chữ Tày - Nùng, trong Những vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam, Nxb KHXH, HN. 1993; Nguyễn Thị Lƣơng, Tiếng Tày ở Na Hang, Khóa luận tốt nghiệp Đại học Tổng hợp, HN, 1994; Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo, Từ điển Việt - Tày Nùng”, “Từ điển Tày - Nùng - Việt, Nxb Từ điển bách khoa, HN, 2005... Điểm lại các công trình nghiên cứu trên cho thấy các tác giả đã tập trung chú ý đến một số khía cạnh cụ thể của tiếng Tày nhƣ: nguồn gốc lịch sử; vị trí của tiếng Tày; mối quan hệ giữa tiếng Tày - Nùng với nhau và với tiếng Việt; các chức năng xã hội của tiếng Tày; tính đa dạng ở các địa phƣơng của tiếng Tày Nùng; về tình hình từ mƣợn trong tiếng Tày Nùng; sự phát triển về vốn từ; về nghĩa của từ tiếng Tày Nùng sau Cách mạng Tháng Tám; hệ thống ngữ âm, chữ viết và xây dựng quy tắc chính tả; miêu tả ngữ pháp và biên soạn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 các từ điển đối chiếu song ngữ; giới thiệu những nét khái quát về tiếng Tày ở các khía cạnh: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp; nghiên cứu về sự tƣơng ứng ngữ âm giữa những từ tiếng Tày và tiếng Việt, từ đó góp phần làm sáng tỏ quá trình tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ… Về chữ viết, các nhà nghiên cứu cho biết: Ở giai đoạn Cổ đại ngƣời Tày chƣa có chữ viết. Đến giai đoạn Cận đại có sự xuất hiện của chữ Nôm Tày. Điều này đƣợc minh chứng bằng các truyện thơ Nôm in trong Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb KHXH, nhƣ: “Bioóc Lả ” do Hoàng Triều Ân giới thiệu - phiên âm - dịch nghĩa - chú giải, in năm 2008, Nxb KHXH, HN; “ Nho Hương”, “Chiêu Đức” do Hoàng Triều Ân - Hoàng Quyết giới thiệu - phiên âm - dịch nghĩa - chú giải, in năm 2008, Nxb KHXH, HN; “ Lý Thế Khanh”, “Nhân Lăng” do Hoàng Triều Ân - Hoàng Quyết phiên âm - dịch nghĩa - chú thích, in năm 2008, Nxb KHXH, HN; “Toọng Tương” do Trần Thu Hƣờng giới thiệu - phiên âm - dịch nghĩa - chú giải, in năm 2008, Nxb KHXH, HN; “ Pác Dảo” do Hoàng Phƣơng Mai giới thiệu – phiên âm - dịch nghĩa – chú giải, in năm 2008, Nxb KHXH, HN… Có thể nói, các tác phẩm viết bằng chữ Nôm Tày đã góp phần quan trọng trong bảo lƣu và gìn giữ kho tàng tri thức của ngƣời Tày bằng tiếng Tày, đồng thời góp phần bảo tồn và phát triển tiếng nói, chữ viết Tày. Năm 1961, Nhà nƣớc ta đã tổ chức xây dựng và ban hành hệ thống chữ viết cho dân tộc Tày trên cơ sở hệ chữ cái Latinh. Từ đó đến nay, chữ này đã đƣợc sử dụng trong các văn bản phát thanh, tài liệu tuyên truyền, văn học nghệ thuật…, ở vùng đồng bào Tày.  Các nghiên cứu về phƣơng thức láy trong tiếng Tày Nhƣ đã nói ở trên, "láy" đã trở thành đối tƣợng quan tâm của nhiều nhà khoa học, trên tƣ liệu các ngôn ngữ phƣơng Đông. Tuy nhiên, “ láy” nói chung vẫn là một trong những phƣơng thức ít đƣợc nghiên cứu nhất và càng ít Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 hơn đối với các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam, đặc biệt đối với tiếng Tày. Cho đến nay, với những tƣ liệu hiện có, chƣa thấy có công trình, bài viết nào nghiên cứu, xem xét riêng về phƣơng thức láy trong tiếng Tày. Vì vậy, việc nghiên cứu về phƣơng thức láy trong tiếng Tày ở luận văn này chỉ là bƣớc đầu, nhƣng là sự thể hiện mong muốn có một số phát hiện về những biểu hiện của láy và cách sử dụng từ láy của tiếng Tày. 3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 3.1. Mục đích nghiên cứu Miêu tả láy của tiếng Tày nhƣ một phƣơng thức cấu tạo từ đang hoạt động trong ngôn ngữ này để tạo ra hàng loạt từ mới (từ láy) nhằm thỏa mãn nhu cầu giao tiếp và tƣ duy của ngƣời Tày. 3. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu  Xác lập cơ sở lí thuyết và thực tế của luận văn.  Sƣu tập các từ láy trong giao tiếp xã hội của ngƣời Tày và qua các văn bản đã in ấn bằng tiếng Tày.  Phát hiện và miêu tả các đặc điểm của phƣơng thức láy trong tiếng Tày, qua các từ láy khác nhau - kết quả của phƣơng thức láy.  Thử tìm hiểu sự sử dụng từ láy (với các vai trò khác nhau) tiếng Tày trong một tác phẩm văn học đƣợc dịch ra tiếng Tày - “ Truyện Kiều”. 4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những biểu hiện đa dạng của hiện tƣợng láy trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của ngƣời Tày, trong tác phẩm văn nghệ dân gian, các sáng tác mới, các từ điển. Cụ thể, tƣ liệu về láy đƣợc sử dụng trong luận văn đƣợc sƣu tập từ các nguồn sau:  Trong lời ăn tiếng nói của ngƣời Tày ở huyện Bạch Thông và Ba Bể tỉnh Bắc Kạn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7  Trong “Truyện Kiều” – bản dịch tiếng Tày của dịch giả Thân Văn Lƣ (2006), Sở KH&CN, Cao Bằng.  Trong các sáng tác mới: 1. Dƣơng Khâu Luông (2008),“Co nghịu hưa cần”, Nxb VHDT, HN. 2. Ma Phƣơng Tân (2005), “Tiểng roọng tềnh nhọt pù” (Tiếng gọi nơi đỉnh núi)), Nxb VHDT, HN.  Trong từ điển song ngữ Hoàng Văn Ma - Lục Văn Pảo - Hoàng Chí (2006),“Từ điển Tày Nùng - Việt”, Nxb TĐBK, HN. Khi tìm hiểu về sự sử dụng từ láy trong các sáng tác của ngƣời Tày, luận văn sẽ tập trung khảo sát bản dịch “Truyện Kiều” ra tiếng Tày của dịch giả Thân Văn Lƣ (2006) đã nói ở trên. 4. 2. Phạm vi nghiên cứu Do khuôn khổ của luận văn, những khía cạnh sau sẽ đƣợc tập trung chú ý: - Các quy tắc (hình thức ngữ âm; ngữ nghĩa) đƣợc sử dụng trong phƣơng thức láy, qua những biểu hiện đa dạng của láy trong tiếng Tày. - Sự sử dụng các từ láy - kết quả của phƣơng thức láy với các vai trò khác nhau trong bản dịch “Truyện Kiều” bằng tiếng Tày của dịch giả Thân Văn Lƣ (2006), Sở KH&CN, Cao Bằng. 5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Phƣơng pháp miêu tả: Phƣơng pháp chủ yếu đƣợc dùng trong luận văn là miêu tả ở diện đồng đại. Với phƣơng pháp này, luận văn sẽ đi sâu vào việc phân tích, tổng hợp để chỉ ra các đặc điểm riêng biệt và tìm ra quy luật chung của phƣơng thức láy, các kiểu láy trong tiếng Tày.  Phƣơng pháp thống kê, phân loại: Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để khảo sát, thống kê tần số xuất hiện các kiểu láy trong tác phẩm “Truyện Kiều” đƣợc dịch ra tiếng Tày. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8  Phƣơng pháp ngôn ngữ học điền dã: là phƣơng pháp đƣợc sử dụng để thu thập tƣ liệu về từ láy tiếng Tày trong lời ăn tiếng nói, giao tiếp hàng ngày của ngƣời Tày. 6. ĐÓNG GÓP MỚI - Về mặt lí luận: Các kết quả của luận văn có thể bổ sung tƣ liệu và cách nhìn nhận về phƣơng thức láy trong một ngôn ngữ cụ thể (tiếng Tày), đối với việc nghiên cứu về các phƣơng thức cấu tạo từ trong ngôn ngữ học cũng nhƣ trong nghiên cứu phƣơng thức láy ở các ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập mà tiếng Tày là một thành viên. - Về mặt thực tiễn: Đây có thể đƣợc coi là đề tài nghiên cứu có hệ thống và tƣơng đối đầy đủ đầu tiên về phƣơng thức láy trong tiếng Tày. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể giúp cho việc biên soạn các sách phục vụ dạy và học, giúp cho việc dạy và học tiếng Tày đƣợc thuận lợi hơn, đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo đối với những ai (ngƣời Tày cũng nhƣ ngƣời các dân tộc khác) muốn tìm hiểu về tiếng Tày. 7. BỐ CỤC LUẬN VĂN Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thƣ mục tham khảo, nội dung chính của luận văn đƣợc thể hiện trong 3 chƣơng: CHƢƠNG 1: Cơ sở lí thuyết và thực tiễn CHƢƠNG 2: Phƣơng thức láy trong tiếng Tày CHƢƠNG 3: Sự sử dụng từ láy trong “Truyện Kiều” - bản dịch tiếng Tày. Ở phần Phụ lục có: - Tài liệu tham khảo - Danh sách các từ láy tiếng Tày đƣợc sƣu tập - Danh sách các từ láy trong “Truyện Kiều” - bản dịch tiếng Tày - Bìa và một số trang của “Truyện Kiều” - bản dịch tiếng Tày - Một số hình ảnh ở vùng đồng bào Tày Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TẾ 1.1. KHÁI NIỆM VỀ TỪ VÀ HÌNH VỊ 1.1.1. Từ Từ là một trong những khái niệm cơ bản của ngôn ngữ học. Đây là đơn vị cấu trúc - ngữ nghĩa cơ bản của ngôn ngữ, đƣợc quan niệm là dùng để gọi tên các sự vật, hiện tƣợng của đời sống, mang các thuộc tính tiêu biểu về ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp của một ngôn ngữ. Từ những góc nhìn khác nhau về từ của ngôn ngữ, đã có rất nhiều định nghĩa về từ. Cụ thể: - Là đơn vị có kích thƣớc nhất định về vật chất - âm thanh (trong ngôn ngữ thành tiếng), là mặt biểu thị, mặt hình thức, hay còn gọi đó là “từ ngữ âm - âm vị học”; - Là đơn vị có ý nghĩa biểu thị các sự vật, hiện tƣợng … nhất định, là mặt đƣợc biểu thị, nội dung; - Là đơn vị có cấu trúc nội tại tƣơng đối vững chắc, ổn định, không thể phân tách thành đơn vị nhỏ hơn mà không có phƣơng hại đến ý nghĩa; - Là đơn vị có chức phận khi hoạt động trong lời nói, để kiến tạo nên câu nói… Qua khảo sát nhiều ngôn ngữ, các nhà ngôn ngữ học cho rằng từ có thể đƣợc hiện thực hoá bằng những hình thái rất đa dạng. Đồng thời, có thể thấy cái đơn vị đƣợc hiểu là một tổ hợp âm thanh có ý nghĩa, là sự thống nhất giữa hình thức và khái niệm đƣợc hàm chứa trong hình thức ấy, là đơn vị tiềm năng để cấu tạo nên câu, là sự kiện tâm lí - ngôn ngữ học … ấy, vừa không dễ xác định, vừa thể hiện theo cách này cách khác. Tính phức tạp của việc định nghĩa từ xuất phát từ chính bản thân từ trong các ngôn ngữ. Viện sĩ L.V Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 Sherba đã viết: “Trong thực tế, từ là gì? Thiết nghĩ rằng trong các ngôn ngữ khác nhau, từ sẽ khác nhau. Do đó không có khái niệm từ nói chung”. Vì vậy, việc xác định khái niệm “từ” cho đến nay, chƣa đi đến đƣợc sự thống nhất và thực tế đã có quá nhiều định nghĩa về từ. Lại có ý kiến cho rằng trong các ngôn ngữ chúng ta đã biết, “không có khái niệm từ nói chung”, nhƣng cũng có ý kiến cho rằng: “Từ nói chung dẫu sao vẫn tồn tại” [ 11, tr13]. Xuất phát từ những định nghĩa nêu trên, có thể thấy “từ” là một thực thể, tồn tại trong mỗi hệ thống ngôn ngữ với những đặc điểm hình thức, cấu trúc nội tại và có thể có cách biểu thị nội dung (ý nghĩa) khác nhau. Để có cơ sở lí luận chắc chắn, thuận lợi cho việc nghiên cứu đề tài về từ láy - một loại “từ” trong tiếng Tày, với luận văn này, việc lựa chọn khái niệm về “từ” đƣợc cụ thể nhƣ sau: “Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ, đƣợc vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để xây dựng nên câu”. Định nghĩa trên cho thấy từ có hai đặc điểm đáng chú ý: - Là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa: Từ có hình thức phổ biến là một chiết đoạn âm thanh hoàn chỉnh nhỏ nhất và có ý nghĩa (dùng để gọi tên các sự vật, hiện tƣợng, các thuộc tính, các quan hệ … trong thực tiễn đời sống). Ví dụ trong tiếng Tày: đét ( nắng); slâu (cái cột); khẩu (cơm); lục (con)… - Đƣợc sử dụng độc lập, tự do trong lời nói để tạo nên câu. Có thể tách biệt ra khỏi các đơn vị khác ( khác với các từ khác, cụm từ …) và đƣợc dùng theo các quy tắc nhất định để tạo nên câu. Ví dụ trong tiếng Tày: kin (ăn) đƣợc sử dụng trong câu: Lục kin khẩu dân. (Con ăn cơm nguội); kin (uống) đƣợc sử dụng trong câu: Lục kin nặm. (Con uống nƣớc)... Với những đặc điểm đó, dễ dàng phân biệt đƣợc từ với các đơn vị khác: phân biệt với yếu tố cấu tạo nên từ (đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, nhƣng không Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 đƣợc dùng trực tiếp để “đặt nên câu”); phân biệt với cụm từ và câu (các đơn vị có nghĩa, nhƣng không “nhỏ nhất”)… 1.1.2. Hình vị Trong ngôn ngữ đại cƣơng, “hình vị” đã đƣợc xác định là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ. Cách xác định này cho thấy hai đặc điểm chính của hình vị: - Là đơn vị có nghĩa - Không thể chia thành đơn vị có nghĩa nhỏ hơn. Nhƣ vậy hình vị là đơn vị (hay thành tố, yếu tố) gốc, đơn vị tế bào của ngữ pháp, là đơn vị có tổ chức tối đơn giản, trực tiếp hoặc gián tiếp gắn liền với một ý nghĩa nhất định. Đặc biệt đƣợc chú ý là giá trị ngữ pháp của nó, với tƣ cách là yếu tố cấu tạo từ. Ngoài tên gọi là “hình vị” đơn vị này còn đƣợc gọi là “mooc - phem” (morpheem), “từ tố”, “nguyên vị”, “hình tố”… Hình tố và từ tố đƣợc coi là những dạng thức cụ thể của hình vị trong những hoàn cảnh nhất định với vai trò cấu tạo nên các đơn vị lớn hơn nó (thƣờng đƣợc hiểu là từ). Nguyên vị đƣợc hiểu là hình vị, đƣợc xét ở dạng tĩnh (nguyên), tức là trừu tƣợng khỏi các mối quan hệ mà nó đang chi phối và bị chi phối và đƣợc xem xét nhƣ một đơn vị vốn có (tự nhiên). Ngoài ra ngƣời ta còn phân biệt “căn tố” và “phụ tố” (với các dạng khác nhau của phụ tố nhƣ: tiền tố, trung tố, hậu tố) trong cấu trúc của từ ở nhiều ngôn ngữ thuộc loại hình chắp dính và hoà kết. Trên thực tế, các về đặc tính chung của hình vị ít đƣợc các nhà ngôn ngữ học thảo luận. Tuy vậy, những dạng thức cụ thể của một hình vị trong một ngôn ngữ cụ thể là thế nào, hiểu ra sao về “nghĩa” của hình vị trong ngôn ngữ ấy thì lại đƣợc bàn luận rất nhiều. Chẳng hạn, trong tiếng Việt đã có nhiều ý kiến thảo luận xoay quanh “khuôn vần” của từ láy tiếng Việt (ví dụ: “siếc” trong sách siếc, giáo sư giáo siếc hay ấp trong lấp ló, ngấp nghé, thập Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 thò, lập loè, mấp mô... hay ăn trong vuông vắn, đỏ đắn, nhỏ nhắn, xinh xắn, thẳng thắn, may mắn … và thậm chí cả nhắn, vắn, xắn… trong các từ này nữa) có nghĩa không, nếu có nghĩa thì đó là nghĩa gì. Hay chính sự tổ hợp giữa “khuôn” với các thành tố (hoặc bộ phận thành tố ) trƣớc và sau nó mới là hình thức biểu đạt nghĩa… Bên cạnh những ý kiến trên còn có những ý kiến tranh luận về bản chất các đơn vị đƣợc gọi là “tiếng” (với vai trò nhất thể ba ngôi, vừa là “âm tiết”, vừa là “từ”, vừa là “hình vị”) trong tiếng Việt (và cũng có thể gặp trong tiếng Tày). Từ những lí do đó, hình vị cũng có nhiều định nghĩa khác nhau: - “Hình vị là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất, có nghĩa, có chức năng làm thành tố trực tiếp tạo nên từ” [11, tr 40] - “Hình vị cũng là đơn vị có nghĩa, cũng đƣợc tái hiện nhƣ các từ, nhƣng hình vị chỉ đƣợc phân xuất ra nhờ phân tích bản thân các từ, chúng không tồn tại độc lập mà nhập hẳn vào từ, không tách rời khỏi từ” [7, tr 13]. - “Hình vị là những đơn vị có nghĩa nhỏ nhất có thể kết hợp với nhau để tạo các từ ” [5, tr 8]. - “Hình vị là đơn vị hình thái học không thể phân chia thành những đơn vị hình thái học nhỏ hơn, nó là yếu tố cấu tạo từ” [2, tr 23]. - “Một yếu tố có nghĩa đƣợc xác định là hình vị chỉ khi làm thành phần của từ và chỉ trong quan hệ với từ” [21, tr 66]. Từ những định nghĩa trên, ta thấy “hình vị” có một số đặc điểm sau: - Là đơn vị có nghĩa nhất định, là mặt đƣợc biểu thị, nội dung; - Là đơn vị có kích thƣớc vật chất - âm thanh nhất định, là mặt biểu thị, hình thức; - Là đơn vị có cấu trúc nội tại tƣơng đối ổn định, vững chắc, không thể chia thành các đơn vị có nghĩa nhỏ hơn; Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 - Là đơn vị có chức năng cấu tạo nên các đơn vị lớn hơn nó, chủ yếu để cấu tạo nên từ. Trên thực tế, hình vị trong các ngôn ngữ cụ thể (với tất cả các dạng thức của nó), kể cả với tiếng Tày, không phải là đơn vị có thể nhận thức dễ dàng. Hình vị là kết quả của sự phân tích và tổng hợp của nhà nghiên cứu, nhằm mục đích để hiểu rõ bản chất, chức năng của các đơn vị lớn hơn nó hoặc chính nó trong các mối quan hệ với các đơn vị cùng loại và khác loại. Các đơn vị này thƣờng không hiển nhiên đối với ngƣời bản ngữ. Với những đặc điểm nêu trên, thì cần có sự phân biệt giữa hai khái niệm: “hình vị ” và “thành tố cấu tạo từ”. Cụ thể là: - “Hình vị” có thể trực tiếp cấu tạo nên từ (một mình nó hoặc kết hợp với các hình vị khác) hoặc không trực tiếp cấu tạo nên từ, mà gián tiếp, bằng cách kết hợp với các hình vị khác để tạo thành một thành tố có nghĩa lớn hơn hình vị. Thành tố này mới đƣợc dùng để trực tiếp cấu tạo nên từ. - “Thành tố cấu tạo từ” đƣợc hiểu là yếu tố bên trong từ, yếu tố hợp thành nên từ, có thể trùng hoặc không trùng khớp với hình vị. Điều đó, giúp chúng ta giải thích có logic đối với những trƣờng hợp các hình vị kết hợp với nhau, nhƣng sản phẩm của sự kết hợp này không thể đƣợc đánh giá là từ (không tái hiện đƣợc tự do trong lời nói để tạo nên câu), mà chỉ nên xem là thành tố cấu tạo từ. Từ những cách nhìn nhận về hình vị nói ở trên, ta thấy có thể chấp thuận quan niệm: “Hình vị là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ đƣợc sử dụng (trực tiếp hoặc gián tiếp) cấu tạo nên từ”. Những đơn vị đƣợc coi là hình vị đều thoả mãn hai đặc điểm: có nghĩa và không thể chia thành đơn vị có nghĩa nhỏ hơn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 1.2. NGHĨA CỦA TỪ VÀ HÌNH VỊ 1.2.1. Nghĩa Đặc tính quan trọng nhất của từ và hình vị là “có nghĩa”. Khi nói về nghĩa của từ (và hình vị), ngƣời ta phân biệt các thành phần nhƣ: nghĩa biểu vật (là liên hệ giữa “hình thức âm thanh” với sự vật hiện tƣợng cụ thể mà nó chỉ ra); nghĩa biểu niệm (là liên hệ giữa “hình thức âm thanh” với ý niệm - cái đƣợc biểu hiện, bao gồm các sự vật hiện tƣợng với các thuộc tính đƣợc phản ánh vào ý thức con ngƣời)… Ngoài ra, ngƣời ta còn phân biệt nghĩa cấu trúc - là mối liên hệ giữa các đơn vị khác nhau trong hệ thống, nghĩa ngữ dụng - là mối liên hệ giữa các đơn vị đang xét với tình cảm, thái độ của ngƣời sử dụng. Về mặt lí thuyết, căn cứ để hiểu nghĩa là: các đơn vị đang xét (từ và hình vị) đƣợc sử dụng trong sự quy chiếu về một sự vật hiện tƣợng nào đó, với yêu cầu ngƣời nói và ngƣời nghe đều phải cùng nghĩ về sự vật hiện tƣợng ấy, khi nhắc đến đơn vị đang xét. Nhờ sự quy chiếu nhƣ vậy, sự sử dụng các đơn vị này trong cấu tạo nên các đơn vị lớn hơn nó mới không gây nên sự lẫn lộn. Khi đi vào phân tích nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ (từ và hình vị), phải đặt vào ngữ cảnh để đơn vị này bộc lộ ý nghĩa. Ngữ cảnh đƣợc hiểu là chuỗi các đơn vị ngôn ngữ kết hợp với các đơn vị đang xét hoặc bao xung quanh nó, làm cho nó đƣợc cụ thể hoá hơn và đƣợc đƣợc xác định về nghĩa. Ngữ cảnh, có thể là tối thiểu (đơn giản nhất) và tối đa (mở rộng đến mức có thể). Mặt khác, phải xem xét trong quá trình hành chức của nó (là cấu tạo từ và đƣợc nghĩa này thể hiện ở cơ cấu nghĩa của từ). Đối với từ cũng vậy, không thể tách rời nó khỏi hoạt động ngôn ngữ, và chỉ trong sự hành chức, nghĩa mới đƣợc hiện thực hoá và xác định. Hơn thế Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 nữa, trong hoạt động của ngôn ngữ, nghĩa của đơn vị ngôn ngữ có thể bị giảm thiểu hoặc gia tăng so với các yếu tố cấu thành nó (các nét nghĩa), đồng thời ngƣời nói cũng có thể tạo nên hàng loạt các quan hệ về nghĩa khác trong hệ thống ngôn ngữ của mình: đồng âm, đồng nghĩa và trái nghĩa. Nhƣ vậy, nghĩa của từ và hình vị mang tính quy ƣớc, đƣợc ngƣời nói và ngƣời nghe ƣớc định với nhau: âm thanh này thì biểu thị sự loạt vật này, âm thanh kia thì biểu thị loạt sự vật kia …, tức là mặt vật chất và ý nghĩa có liên hệ ,mật thiết, quy định ràng buộc và là điều kiện tồn tại của nhau. Đồng thời, cũng nhƣ các đơn vị ngôn ngữ, nghĩa của các đơn vị này (từ và hình vị) cũng chỉ tồn tại trong hệ thống ngôn ngữ. Tách ra khỏi hệ thống, chúng không tồn tại nữa. Từ sự phân tích ở trên có thể chấp nhận quan niệm chung: Hiện thực đƣợc phản ánh vào trong nhận thức, tạo nên một mối liên hệ thƣờng trực, liên tục với một hình thức âm thanh nhất định, nhờ đó sự phản ánh này đƣợc hiện thức hoá bằng ngôn ngữ. Mối liên hệ này đƣợc hiểu là “nghĩa”. 1.2.2. Ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp Thông thƣờng khái niệm “ý nghĩa” đƣợc hiểu là gồm nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp. Cũng nhƣ từ, hình vị có thể có ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp, hoặc chỉ đơn thuần có ý nghĩa ngữ pháp. Xét về nghĩa thì hình vị và từ không khác nhau (đều là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa). Sự khác biệt giữa hai đơn vị (hình vị và từ) này chỉ là ở chức phận của chúng. Tuy nhiên, vì từ là đơn vị trực tiếp cấu thành lời nói, và là sự kiện tâm lí - ngôn ngữ học tƣơng đối hiển nhiên, thƣờng trực đối với ngƣời bản ngữ (và hình vị thƣờng là không). Hơn nữa, từ là đơn vị gắn liền với sự tƣờng giải nghĩa và đƣợc đƣa vào từ điển dƣới dạng các “mục từ”. Vì vậy, trong các tài Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất