Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phương thức hoằng pháp tại một số đạo tràng phật giáo ở tỉnh bà rịa vũng tàu h...

Tài liệu Phương thức hoằng pháp tại một số đạo tràng phật giáo ở tỉnh bà rịa vũng tàu hiện nay (nghiên cứu trường hợp ba đạo tràng viện chuyên tu, chùa phước duyên và chùa vạn phước

.PDF
112
132
64

Mô tả:

DANH MỤC VIẾT TẮT HT : Hòa thượng TT : Thượng tọa GHPGVN : Giáo hội Phật giáo Việt Nam GHPG : Giáo hội Phật giáo BR-VT : Bà Rịa - Vũng Tàu BTS : Ban Trị sự HĐTS : Hội Đồng Trị sự BHP : Ban hoằng pháp PGVN : Phật giáo Việt Nam ĐTKVN : Đại Tạng Kinh Việt Nam VNCPHVN : Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam Nxb : Nhà xuất bản tr : trang MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẰNG PHÁP 12 1.1. Cơ sở lý thuyết 12 1.2. Phương thức hoằng pháp và yếu tố ảnh hưởng đến phương thức hoằng pháp tại các đạo tràng hiện nay 1.3. Một số khái niệm cơ bản 17 22 Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH CÓ LIÊN QUAN VÀ THỰC TRẠNG HOẰNG PHÁP TẠI BA ĐẠO TRÀNG VIỆN CHUYÊN TU, CHÙA PHƢỚC DUYÊN, CHÙA VẠN PHƢỚC CỦA TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU HIỆN NAY 27 2.1. Đặc điểm, tình hình có liên quan đến phương thức hoằng pháp tại ba đạo tràng Phật giáo tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay 27 2.2. Thực trạng phương thức hoằng pháp tại ba đạo tràng được khảo sát ở tỉnh BR-VT hiện nay 2.3. Nhận xét, đánh giá 32 63 Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHƢƠNG THỨC HOẰNG PHÁP TẠI CÁC ĐẠO TRÀNG TẠI TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU HIỆN NAY 3.1. Định hướng 69 69 3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao phương thức hoằng pháp tại các đạo tràng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay 72 KẾT LUẬN 79 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Sau ngày Đức Thế Tôn thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề, "vì lợi ích cho số đông, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc và an lạc cho chư thiên và loài người", Ngài đã tìm đến độ cho năm anh em Kiều-Trần-Như tại vườn Lộc Uyển. Theo lịch sử Phật giáo ghi lại, sau khi ngộ thực tướng của vạn pháp, trở thành bậc Toàn Giác (Buddha), Đức Phật không có ý định truyền bá giáo pháp, nhưng do vị Phạm Thiên ba lần cung thỉnh, Đức Phật quán sát mà nhận thấy, chúng sinh căn cơ, chủng tính khác biệt, kẻ ngu người trí, kẻ xấu người tốt… nếu truyền bá giáo pháp như mưa đều khắp, mọi vật đều được hưởng tuy sự sai biệt có khác. Vậy nên, sau khi tế độ cho sáu mươi vị đệ tử thành đạt đạo quả A-la-hán, Đức Phật quyết định gửi các Ngài đi truyền bá giáo pháp mới mẻ ấy cho tất cả, không có bất luận một sự phân biệt nào [81; tr.117]. Đức Phật đã dạy rằng: "Hãy phất lên ngọn cờ của bậc thiện trí. Hãy truyền dạy giáo pháp cao siêu. Hãy mang lại sự tốt đẹp cho người khác" [81; tr.118]. Tam bảo ra đời từ đó. Tam bảo là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Phật bảo là Đức Phật, Pháp bảo là giáo pháp của Phật nói, Tăng bảo là đệ tử của Đức Phật, thay Phật hoằng pháp lợi sanh. Như thế, Đức Phật là vị giáo chủ đầu tiên thành lập Giáo hội tăng già để đi truyền bá giáo lý, vì lòng từ bi, vì tình thương người khác. Tất cả các vị trong tăng đoàn đều đã chứng ngộ, chỉ có trọng trách duy nhất là truyền dạy giáo pháp và công bố đời sống thiêng liêng phạm hạnh [81; tr.118]. Hoằng pháp là một trách nhiệm thiêng liêng, thượng cầu Phật đạo hạ hoá chúng sanh là hoài bão không thể thiếu được của người tăng sĩ. Tăng sĩ là người nối tiếp truyền thừa sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh của Đức Thế Tôn, theo phương châm "Hoằng pháp vi gia vụ, lợi sanh vi bản hoài". Vì vậy “Phật pháp xương minh do tăng già hoằng hóa”, nhờ vào nỗ lực chung của chúng tăng Phật pháp được gieo truyền từ đó, đến nay đã trải qua hơn hai ngàn năm. 1 Từ ngày giáo pháp của Đức Thế Tôn xuất hiện trên nhân gian, Phật giáo lấy việc tế thế độ nhân làm mục đích, đó là nguyên tắc bất di bất dịch. Nhưng về phương pháp, sách lược có thể thay đổi linh hoạt, miễn là không vi phạm nguyên tắc. Do đó, tùy theo xứ hay thời mà Phật giáo khi du nhập vào Việt Nam khi thì mang dấu ấn Đạo gia, lúc thì màu sắc của Nho gia, với tinh thần “tùy duyên bất biến”. Xét đến cùng, dù trong cảnh duyên nào thì tất cả đều được xem như phương tiện để tăng đoàn hoằng truyền chánh pháp của Phật Đà. Ở thời kỳ đầu, cả Đức Phật và tăng đoàn đi về tất cả các nẻo để hoằng pháp, độ sanh. Sau dần để thuận tiện cho việc hoằng pháp thì những phương tiện như tinh xá Trúc Lâm, tinh xá Kỳ Viên, giảng đường Lộc Mẫu… được lập ra để làm nơi hướng dẫn tăng chúng và tín đồ tu học; các chùa chiền, đạo tràng, tự viện… tiếp tục theo đó được dựng lên cũng không ngoài mục tiêu ấy. Tại Việt Nam từ buổi đầu khi Phật giáo du nhập vào, cho đến các thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần,… chùa là nơi an trí tượng Phật, tu hành của tăng, ni và hướng đạo cho tín đồ. Đặc biệt vào thời Lý, Trần, chùa không những là nơi hướng dẫn cho tín đồ mà còn có sự tham gia tu học của các vị Vua, Quan trong triều. Nhìn chung, mỗi giai đoạn lịch sử Việt Nam, mỗi ngôi chùa có những phương thức hướng dẫn tín đồ tu học khác nhau, được hình thành từ nhiều thế kỷ và kế thừa cho đến ngày nay. Đầu thế kỷ XX, trong phong trào chấn hưng Phật giáo, có nhiều hội, đoàn được thành lập vì thế mô hình tu tập được mở rộng khắp ba miền, Nam, Trung, Bắc. Theo đó, những thập niên cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI cho đến hiện nay, nhiều khóa tu học dành cho tín đồ được mở ra, với nhiều nội dung tu học khác nhau, được tổ chức ở các tỉnh thành trong cả nước, trong đó có tỉnh BR-VT. Cũng như các đạo tràng trong cả nước, tại BR-VT, việc đến chùa tu học và tham gia các khóa tu được tổ chức thường kỳ, một mặt do nhu cầu của 2 phần đông các tín đồ, mặt khác do mục tiêu của BHP, nhằm hoằng truyền chánh pháp và giúp cho các tín đồ có những hành vi chuẩn mực, và phương cách đối mặt với cuộc sống đời thường. Tuy nhiên, các tổ chức tu học tại BR-VT không được thống nhất, có đạo tràng chỉ mang tính tự phát, có đạo tràng chưa được hoạch định rõ ràng, nên chưa đạt quy chuẩn, mô phạm phù hợp cho tín đồ nương theo tu học. Vì, mỗi đạo tràng có phương thức hướng dẫn riêng biệt, dẫn đến tình trạng tín đồ tu học tại đạo tràng A khi đến đạo tràng B bị bỡ ngỡ khó hòa nhập cũng như bắt nhịp kịp tu học. Tình trạng này dẫn đến mục tiêu của tín đồ và của đạo tràng bị ảnh hưởng, nếu không nói là không hiệu quả. Vì vậy, cần có những khảo sát, thống kê về thực trạng phương thức tu học của các đạo tràng nhằm đưa ra những nhận xét, đánh giá xác thực, và giải pháp hiệu quả cho hoạt động hoằng pháp tại đây. Hơn nữa, trong công tác quản lý của GHPGVN nói chung, GHPGVN tỉnh BR-VT nói riêng, việc tổ chức, sinh hoạt tại các đạo tràng là một hoạt động nằm trong ngành hoằng pháp của GHPG và BHP. Do đó, rất cần có những khảo cứu chuyên sâu về thực trạng tổ chức, sinh hoạt tại đây nhằm rút ra những bài học đem lại hiệu quả cao nhất trong công tác hoằng pháp và quản lý hoằng pháp. Với những lý do trên, chúng tôi chọn “Phương thức hoằng pháp tại một số đạo tràng Phật giáo ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay” (chúng tôi chọn ra 3 mẫu nghiệm là đạo tràng Viện Chuyên Tu, chùa Phước Duyên và chùa Vạn Phước) làm đề tài nghiên cứu của bản luận văn này. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Có nhiều công trình tìm hiểu về Phật giáo nói chung, các hoạt động hoằng pháp Phật giáo nói riêng, những công trình này đã đạt được những thành quả đáng trân trọng. Có thể liệt kê như sau về Phật giáo và về hoạt động hoằng pháp: Một trong những công trình được đánh giá cao và trích dẫn nhiều khi nghiên cứu về Phật giáo là Đức Phật và Phật pháp [81] của Đại đức Narada 3 Maha Thera. Tác phẩm được xem là cuốn sách xuất sắc, căn bản cho những ai muốn tìm hiểu về Phật giáo Nguyên Thủy. Đại đức Narada “được liệt vào hàng sứ giả tiền phong của đạo Phật, mở đường, dọn lối cho những sứ giả khác”. Có thể vì lẽ đó, tác phẩm đã cô đọng được hai phần: cuộc đời của Đức Phật và Giáo pháp của Người. Trong tác phẩm này, mục đích và phương thức hoằng pháp của Đức Thế Tôn và tăng già cũng được đề cập đến. Đàm đạo với Phật Đà [53] của Lý Giác Minh, Lâm Thấm cũng là tác phẩm đưa lại cách nhìn mới mẻ về Phật giáo, bằng cách tước đi màu sắc thần bí, truyền thuyết về cuộc đời Đức Phật và con đường hoằng pháp của Ngài. Song không vì thế mà câu chuyện mất đi “tính thiêng” vốn có, mà ngược lại, làm sinh động và rõ nét, chân thực hơn về Đấng Giác Ngộ tối cao, Đấng đem lại hạnh phúc cho tất cả muôn loài. Trong tác phẩm Lịch sử đức Phật Thích Ca [18], Thích Minh Châu cũng giới thiệu về quá trình hoằng pháp của Phật Thích Ca và hàng đệ tử đầu tiên của Phật cũng như bài thuyết pháp đầu tiên. Theo đó, lớp đệ tử đầu tiên là năm tu sĩ, bạn đồng tu khổ hạnh với Thái Tử-Tất-Đạt Đa ở Uruvela, bài thuyết pháp đầu tiên là Tứ-diệu-đế. Tiếp theo là thuyết pháp cho Yasa con trai một triệu phú, sau đó Yasa xin Phật xuất gia và chứng quả A-la-hán. Năm vị tu sĩ đắc quả A-la-hán cùng với Yasa. Tiếp đến, cha của Yasa nghe Phật thuyết pháp xin quy y và trở thành người Phật tử tại gia đầu tiên trong cuộc đời hoằng pháp của Đức Phật. Sau này, hơn năm mươi người bạn của Yasa xin xuất gia đắc quả vị Ala-hán. Tổng cộng, Phật có sáu mươi vị A-la-hán và hình thành Tăng đoàn. Cuốn sách đã cho thấy, hoằng pháp hình thành từ thời Đức Phật với hai cấp độ tu sĩ xuất gia và Phật tử tại gia. Thích Ca Mâu Ni của Tinh Vân Đại sư nói về đoàn Giáo hội sơ chuyển pháp luân, cư sĩ và tín nữ đầu tiên. Nhìn chung, cuốn sách đưa lại kiến thức cơ bản về thời kỳ đầu hoằng pháp của Đức Phật và tăng già. 4 Quan điểm của tôi về cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni [25] của Daisaku Ikeda là cuốn sách nói về cuộc đời Thích Ca Mâu Ni. Sách chú trọng vào khoảng thời gian tu hành đắc đạo và hoằng pháp của Đức Phật cùng các nghi thức và việc hình thành Tam bảo. Nói về hoằng pháp còn có Phật Pháp khái luận [79] của Thích Ấn Thuận. Cuốn sách gồm 20 chương, trong đó có nhiều chương liên quan đến vấn đề hoằng pháp, cụ thể như mục đích hình thành tăng đoàn, bản chất và trách nhiệm hoằng pháp của tăng đoàn. Ý nghĩa của việc thành lập tăng đoàn là để hoằng truyền Phật pháp, giữ vững đạo pháp. Tác giả đưa ra 10 định chế giới luật của Đức Thế Tôn và tác giả cho rằng việc hoằng pháp của tăng đoàn dựa trên cơ sở những định chế giới luật này. Việc đầu tiên hoằng pháp tăng đoàn phải lấy sự hòa hợp với tư tưởng lục hòa1 làm cơ sở. Tư tưởng lục hòa mà cuốn sách có đề cập cho tăng đoàn trong việc hoằng pháp cũng chính là tư tưởng đã được BHP GHPGVN tiếp thu khi thành lập tổ chức này. Ngoài ra các chương XV, XVI, XII của cuốn sách còn trình bày những vấn đề cụ thể về tín đồ như phân loại tín đồ để hoằng pháp cho phù hợp. Trong thập niên 90, trước nhu cầu học Phật của nhiều tăng, ni Phật tử, cũng như trước bối cảnh thuận lợi cho việc đào tạo hoặc nâng cao trình độ giảng sư trong cả nước. BHP đã tổ chức các khóa huấn luyện, bồi dưỡng giảng sư cho khắp ba miền Nam, Trung, Bắc. Qua các khóa học này HT. Thích Trí Quảng đã truyền đạt một số kinh nghiệm về việc truyền bá chánh pháp cho các tăng, ni cùng mang chí hướng phục vụ trong ngành hoằng pháp. Những ý tưởng mà HT đưa ra đã được đa số học viên đồng tình và đạt kết quả tốt. Trên cơ sở đó, HT cho ra cuốn sách Những bài giảng về hoằng pháp và trụ trì [61]. Cuốn sách là tập hợp một số bài giảng mẫu đã giảng dạy trong các khóa bồi dưỡng giảng sư để có tư liệu tham khảo dễ dàng hơn và những tăng, ni không có điều kiện tham dự cũng có thể dựa vào đây rút ra những kinh nghiệm cho việc 1 Lục hòa: Thân hòa đồng trụ; Khẩu hòa vô tránh; Ý hòa đồng duyệt; Giới hòa đồng tu; Kiến hòa đồng giải; Lợi hòa đồng quân. Đây được coi như bản hiến pháp đầu tiên trong Phật giáo. 5 hoằng pháp lợi sanh tại địa phương mình. Ngoài ra, HT đã đưa ra một số ý về nếp sinh hoạt cần có của vị trụ trì sống trong Phật pháp. Vì vậy, trong tập sách này cũng tập hợp một số bài nói về tư cách và vai trò của người trụ trì, cũng như đã bổ sung thêm vài bài nói về ý nghĩa thọ giới tại những giới đàn lớn nhằm ôn lại tư chất cần thiết của hàng tăng sĩ đứng đầu trong bốn chúng của Đức Phật, cũng như nhắc nhở tăng, ni trẻ tư cách cao thượng của người tu sĩ theo Phật cần được giữ gìn nghiêm cẩn. Suy nghĩ về quan hệ quốc tế của GHPGVN [30] của Thích Gia Quang bàn về vấn đề quan hệ giao lưu quốc tế của Giáo hội từ khi thành lập. Tác giả đưa ra những kiến nghị để thúc đẩy hoạt động hoằng pháp phát triển hơn nữa trong thời gian tới. Những kiến nghị đó gồm: Thứ nhất, GHPGVN phải có kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trong việc đối tác với các tổ chức Phật giáo tại nhiều nước. Thứ hai, đào tạo những tăng, ni trẻ đủ trình độ Phật học và ngoại ngữ để gánh vác những công việc hợp tác quốc tế mà Giáo hội giao phó. Thứ ba, đẩy mạnh việc mở rộng internet để phổ biến PGVN ra nước ngoài nhằm thúc đẩy mối quan hệ giao lưu quốc tế. Bài viết này đã bổ sung thêm các giải pháp nhằm hoằng pháp hiệu quả cho luận văn. GHPGVN cần phát huy những thành tựu đã đạt được và tiếp tục củng cố để không ngừng phát triển của TT. Thích Viên Thành đã tập trung nêu lên những điểm chưa làm được của GHPGVN trong thời gian qua. Bài viết gợi ý về vấn đề hoằng pháp là: Giáo hội cần có chính sách giúp đỡ tăng, ni các tỉnh miền núi, vùng sâu vùng xa còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn về vật chất, tài liệu, kinh điển; cần đào tạo khẩn trương và phân bố giảng sư tới các địa bàn còn thiếu giảng sư [69]. Bài Vai trò hoằng pháp hiện nay của Thích Thiện Bảo đã khẳng định: nhiệm vụ chính của những người con Phật là đem giáo pháp của Đức Phật truyền bá rộng khắp. Đó cũng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của PGVN nói chung hay GHPGVN nói riêng. Bài viết đưa ra một số kiến nghị xoay 6 quanh hai vấn đề chính: một là tạo dựng đội ngũ lãnh đạo Giáo hội, đội ngũ giảng sư trẻ có năng khiếu, có trình độ chuyên môn cao; nên mở một số lớp chính thức dành cho Phật tử đào tạo theo cấp và giáo trình thống nhất của Giáo hội. Hai là, thúc đẩy công tác hoằng pháp tại vùng sâu vùng xa [10]. Thích Thiện Hữu trong bài viết Về đường hướng phát triển PGVN trong thế kỷ XXI [34] đề cập đến những vấn đề GHPGVN cần thực hiện trong sự nghiệp hoằng pháp và phát triển Giáo hội trong thế kỷ XXI, như: cần có chương trình dài hạn giáo dục đào tạo tăng, ni, đối với Phật tử cũng nên có những chương trình đào tạo dài hạn, mở rộng mạng lưới Phật pháp và PGVN trên siêu xa lộ thông tin; thành lập thêm các tờ báo Phật giáo; mở rộng phạm vi xã hội của đạo Phật; truyền bá Phật giáo vào các vùng sâu, vùng xa và cuối cùng là phát động một đạo Phật xanh. Thích Nữ Tịnh Thường với bài viết Phát triển GHPGVN trong thế kỷ XXI [87] lại nhấn mạnh vào công tác đào tạo tăng tài, giáo dục tăng, ni và cách sử dụng những tăng, ni được đào tạo căn bản như thế nào để có thể phát huy được hoạt động hoằng pháp thiết thực của GHPGVN. Tác giả cho rằng, đào tạo tăng, ni tài đức, đáp ứng được lợi ích thiết thực của quần chúng, tạo được lòng tin yêu mến đến mọi người, là sức mạnh đầu tiên của GHPGVN và tạo tiền đề cho tương lai Giáo hội. Niềm tin tôn giáo của tín đồ Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh [4] của Thái Văn Anh tìm hiểu và phân tích nội dung, cấu trúc, ảnh hưởng của niềm tin tôn giáo đến đời sống Phật tử, trong đó có nói về niềm tin đối với Tăng bảo của Phật tử Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Đặc điểm và vai trò Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX [85] của Nguyễn Quốc Tuấn đã đề cập đến nhiều vấn đề liên quan đến hoằng pháp về nhập thế tích cực. Tác giả đưa ra các đặc điểm: tính bình dân - đại chúng (hay lối sống Phật giáo) và vùng- tộc ít người; tính phức hợp và thống nhất. Luận án tiến sĩ của Lê Văn Đính đã đề cập đến một vấn đề không thể thiếu trong hoạt động hoằng pháp Phật giáo là Gia đình Phật tử. Công tác 7 đoàn kết, tập hợp thanh thiếu niên Phật tử là điều rất cần thiết trong hoạt động hoằng pháp hiện nay. Luận án đã phân tích bản chất, đặc điểm và phương thức hoạt động của Gia đình Phật tử qua đó xem xét ảnh hưởng của nó đối với thanh thiếu niên tín đồ Phật giáo. Kỷ yếu hội thảo hoằng pháp toàn quốc năm 2015: Sứ mạng hoằng pháp hội nhập và phát triển, BHP Trung ương tổ chức tại BR-VT, (Nxb. Hồng Đức Hà Nội, 2016). Kỷ yếu Hội thảo gồm 735 trang với trên 60 bài tham luận, hơn 13 đề mục của chư tôn đức tăng, ni trên toàn quốc đã phản ánh một cách sâu sắc đến các hoạt động thuộc lãnh vực hoằng pháp của đệ tử Phật đã và đang hóa thân giữa dòng đời trong thời đại công nghệ bùng nổ bên những nỗi đau cùng cực của kiếp người [47; tr.252]. Đây là công trình tổng hợp đến nhiều khía cạnh khác nhau về hoằng pháp, y cứ vào đó chúng tôi có thể tham khảo cho luận văn. Có thể nói, những công trình nghiên cứu trên đều thống nhất ở một số điểm: Phật giáo đã thích ứng với mọi hoàn cảnh lịch sử và văn hóa của dân tộc, hòa nhập cùng dân tộc để trở thành một tôn giáo gần gũi với dân tộc và con người Việt Nam. Những công trình nghiên cứu nói trên, trực tiếp hoặc gián tiếp, ở các mức độ và khía cạnh khác nhau, đều nêu lên những giá trị của Phật giáo, cũng như các hoạt động hoằng pháp và ảnh hưởng của nó đối với đời sống xã hội Việt Nam nói riêng, thế giới nói chung. Tuy nhiên, từ việc thống kê các công trình nghiên cứu trên đây chúng tôi nhận thấy: * Chưa có một khung lý thuyết nào về các phương thức hoằng pháp hiện nay ở Việt Nam. Nếu có, chỉ mới dừng lại ở việc mô tả những phương tiện hoằng pháp của từng địa phương. Mặc dù, xét về cơ cấu tổ chức của GHPGVN, với 13 Ban, ngành và 1 viện có chức năng cụ thể, riêng biệt nhằm mục tiêu cuối cùng là hoằng pháp. * Chưa có công trình nào đưa ra đường hướng chỉ đạo sát thực, rõ ràng cho hoạt động hoằng pháp. 8 Thực tiễn nghiên cứu cho thấy cần có những nghiên cứu chuyên biệt về các phương thức hoằng pháp hiện nay, nhằm hướng tới sự thống nhất chung trong công tác quản lý hoằng pháp trên cả nước. * Với tỉnh BR-VT, hiện cũng chưa có khảo cứu về thực trạng hoằng pháp tại đây trên cả phương diện tổ chức và thực tiễn tu học. Vì vậy, luận văn chọn ba mẫu nghiệm là Viện Chuyên Tu, chùa Phước Duyên và chùa Vạn Phước ở BR-VT để khảo sát nhằm hướng tới nỗ lực giải quyết những nội dung trên cũng như góp phần đẩy mạnh công tác hoằng pháp tại đây. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: Trên cơ sở phân tích thực trạng phương thức hoằng pháp tại 3 đạo tràng là Viện Chuyên Tu, chùa Phước Duyên và chùa Vạn Phước ở tỉnh BR-VT, luận văn đề xuất giải pháp hoằng pháp phù hợp, hiệu quả đối với việc tu học ở BRVT hiện nay. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau: + Khái quát các kinh, luật nói về hoằng pháp; + Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hoằng pháp ở BR-VT; + Phân tích, khảo sát và đánh giá thực trạng phương thức hoằng pháp tại ba đạo tràng ở tỉnh BR-VT hiện nay; + Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoằng pháp tại các đạo tràng tỉnh BR-VT. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phương thức hoằng pháp tại ba đạo tràng ở tỉnh BR-VT, (Viện Chuyên Tu (huyện Tân Thành), chùa Phước Duyên (huyện Châu Đức), chùa Vạn Phước (thành phố Vũng Tàu))”. Phạm vi nghiên cứu về không gian: 9 Nghiên cứu về người dạy, người học và cơ sở vật chất tại ba đạo tràng: Viện Chuyên Tu (huyện Tân Thành), chùa Phước Duyên (huyện Châu Đức), chùa Vạn Phước (thành phố Vũng Tàu)”. - Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Nghiên cứu 5 năm từ 2012 - 2017. 5. Lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu - Lý thuyết nghiên cứu: Trong luận văn người viết sẽ vận dụng Lý thuyết thực thể Tôn giáo thông qua 3 yếu tố: niềm tin tôn giáo, thực hành tôn giáo và cộng đồng tôn giáo. Luận văn cũng vận dụng Lý thuyết cấu trúc để tìm ra ý nghĩa của hoạt động tu tập tại các đạo tràng, các nghi thức, nghi lễ, lễ hội đặc trưng … Luận văn sử dụng Lý thuyết chức năng dựa trên cơ sở: mỗi một hoạt động tu tập tại các đạo tràng đều có vai trò quan trọng để góp phần vào việc duy trì những nét đặc trưng truyền thống. - Phương pháp nghiên cứu: Đề tài cũng là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau (Xã hội học, Văn hoá học, Tôn giáo học, Lịch sử,…) vì vậy, trong quá trình thực hiện luận văn chúng tôi sẽ sử dụng phương pháp liên ngành. Ngoài ra còn phương pháp khảo sát thực địa: - Quan sát tham dự: Người viết quan sát và trực tiếp tham gia những hoạt động của các đạo tràng, nắm bắt và ghi chép làm tư liệu cho luận văn. - Phỏng vấn sâu: Chúng tôi sẽ thực hiện những cuộc phỏng vấn những vị trong BTS, Ban tổ chức (tăng, ni) khóa tu học cũng như điều tra xã hội học tín đồ Phật tử tham gia các khóa tu tại các đạo tràng. Từ đó, làm căn cứ khách quan cho đề tài, nhằm sáng tỏ hơn những nhận định của người viết. - Thu thập và xử lí tài liệu, số liệu, thu âm: Người viết sẽ hệ thống hoá các tư liệu thu thập được để sử dụng trong đề tài nghiên cứu. 10 - Phương pháp so sánh: người viết sử dụng so sánh để thấy được nét khác biệt giữa các đạo tràng tu học, về cách tổ chức, hướng dẫn khóa tu, nội quy... 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài - Ý nghĩa khoa học: Dựa vào dữ liệu thực tế tại các đạo tràng qua khảo sát và phân tích dưới góc độ khoa học, chúng tôi hy vọng luận văn này là nguồn tài liệu khoa học căn bản hữu ích cho những ai muốn chuyên khảo về những hoạt động tu tập của các đạo tràng tu học tại tỉnh BR-VT. - Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là những giải pháp, kiến nghị để việc tổ chức các phương thức hoằng pháp tại các đạo tràng được hoàn thiện và đạt hiệu quả thiết thực, góp phần xây dựng đạo đức cho tín đồ và xã hội. Đồng thời, đề tài cũng là nguồn tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về phương thức hoằng pháp tại các đạo tràng ở tỉnh BR-VT hiện nay nói riêng và các đạo tràng nói chung. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được chia thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý thuyết và thực tiễn về hoằng pháp. Chương 2: Đặc điểm, tình hình có liên quan và thực trạng hoằng pháp tại ba đạo tràng Viện Chuyên Tu, Chùa Phước Duyên, Chùa Vạn Phước của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay. Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả phương thức hoằng pháp tại các đạo tràng tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay. 11 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẰNG PHÁP 1.1. Cơ sở lý thuyết 1.1.1. Kinh tạng đề cập đến hoằng pháp Lịch sử Phật giáo ghi lại, sau ngày thành đạo, lúc còn ngự tại gốc cây Bồ đề, bên bờ sông Ni-liên-thiền Đức Phật nhận thấy, “Giáo pháp của Ngài đã khó khăn lắm mới chứng ngộ được, nay chúng sinh nặng về tham ái càng không thể phổ biến giáo pháp sâu kín, thậm thâm, khó nhận thức và rất tế nhị”; vì vậy, Đức Phật muốn nhập Niết-bàn. Song vị Phạm Thiên đã ba lần khẩn cầu Đức Phật, dẫn dụ rằng tất cả các Chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai đều vì chúng sinh mà thương xót và gieo mầm từ ái, trí tuệ để giải thoát. Giờ Đức Phật cũng vậy, tiếp nối con đường đó để “ai muốn tìm trạng thái an lành cho mình và mong chờ sự trưởng thành của mình, chắc chắn phải tôn kính giáo pháp cao quý và ghi nhớ nằm lòng bức thông điệp của chư Phật. Vì những bậc Chánh-biến-tri trong quá khứ, vị lai và hiện tại, những vị ấy đã giúp cho nhiều vị được thoát khổ. Đó là đặc tính của chư Phật”. Nghe lời thỉnh cầu như vậy của Phạm Thiên, với trí tuệ và tâm từ bi vô lượng quán sát thế gian, Đức Phật nhận thấy tất cả đều do nghiệp quả chi phối mà chúng sanh luân hồi sanh tử. Tuy nhiên, Ngài cũng thấy có những chúng sanh trưởng thành từ trong nước, vươn lên khỏi mặt nước, không vướng chút bùn nhơ. Ngài tuyên bố: “Cửa Vô sanh Bất diệt đã rộng mở cho chúng sanh. Hãy để cho ai có tai muốn nghe đặt trọn niềm tin tưởng. Vì biết có sự mệt mỏi dã dượi trong thế gian nên trước kia Như Lai phân vân, chưa quyết định truyền dạy giáo pháp vinh quang và hoàn hảo” [81; tr.79]. Sứ mạng hoằng pháp của Đức Thế Tôn bắt đầu từ đó. 12 Bài thuyết pháp đầu tiên dành cho năm vị đạo sĩ đắc quả A-La-Hán, tiếp đó không lâu sáu mươi vị đệ tử thành đạt đạo quả A-La-Hán, Đức Phật thành lập tăng già và khuyến khích các đệ tử đi truyền bá giáo pháp: “Hỡi các Tỷ kheo! Như Lai đã thoát ra khỏi mọi trói buộc, dầu ở cảnh người hay các cảnh Trời, Các con cũng vậy, này hỡi các Tỳ khưu, các con cũng đã thoát ra khỏi mọi trói buộc, dầu ở cảnh người hay các cảnh Trời. Hãy ra đi, các Tỳ khưu, đem sự tốt đẹp lại cho nhiều người, đem hạnh phúc đến nhiều người. Vì lòng từ bi, hãy đem sự tốt đẹp, lợi ích và hạnh phúc lại cho chư Thiên và nhân loại. Mỗi người hãy đi một ngả. Này hỡi các Tỳ khưu, hãy hoằng dương giáo pháp, toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, toàn hảo ở đoạn cuối cùng, toàn hảo trong cả hai, tinh thần và văn tự. Hãy công bố đời sống thiêng liêng cao thượng, vừa toàn thiện, vừa trong sạch. Những chúng sanh còn vướng ít nhiều cát bụi trong mắt và nếu không nghe được giáo pháp sẽ sa đọa. Cũng có những người sẽ am hiểu giáo pháp. Chính Như Lai cũng đi. Như Lai sẽ đi về hướng Uruvela để hoằng dương giáo pháp. Hãy cất lên ngọn cờ của bậc thiện trí. Hãy truyền dạy giáo pháp cao siêu. Hãy mang lại sự tốt đẹp cho người khác. Được vậy, là các con đã hoàn tất nhiệm vụ” [16; tr.79]. Đây được xem như tuyên ngôn của Đức Phật về mục đích của hoằng pháp: Truyền dạy giáo pháp và công bố đời sống thiêng liêng phạm hạnh. Chức vụ của chư vị A-la-hán, những người đã thành tựu mục tiêu giải thoát, là nâng cao đời sống đạo đức của người khác bằng cách nêu gương lành trong sạch và nghiêm túc trì giới [81; tr.118]. Từ đó, Ngài và chúng tăng đã dạo khắp các vùng Ấn Độ, dù là chốn đô hội thị thành hay các miền thôn dã, tuỳ phương tiện mà hoá độ khắp tất cả chúng sanh bình đẳng, dù cao sang quyền quí hay nghèo cùng khốn khổ, 13 không phân biệt giai cấp hay chủng tộc, già hay trẻ, tất cả đều được chấp nhận vào trong đoàn thể, tất cả đều được hưởng cơn mưa Pháp vị. Đây cũng là điểm đặc thù nhất trong Phật giáo:“Giáo pháp của Ngài như trận mưa lớn, tất cả các loại cỏ cây đều được thấm nhuần” [17; tr.289]. Hơn hai ngàn năm trôi qua, những người con Phật vẫn tiếp tục đi trên con đường đó, mang ánh đạo đến với những cuộc đời đau khổ trong nhân gian. Đức Phật đã chỉ ra thế nào là một vị trưởng lão được ái mộ, ưa thích, tôn trọng, noi gương để hoằng pháp, vị đó phải: “Đạt được nghĩa vô ngại pháp, pháp vô ngại giải, đối với các sự việc, các vị đồng phạm hạnh cần phải làm, hoặc lớn, hoặc nhỏ vị ấy thiện xảo, không có biếng nhác, thành tựu trí phương tiện, ở đây vừa đủ để làm để khiến người làm” [17; tr.148]. Trong kinh điển đại thừa đặc biệt kinh Pháp Hoa chỉ rõ, Đức Phật thị hiện vào đời là nhằm “Khai Thị chúng sanh Ngộ Nhập Phật tri kiến”. Cũng vậy, tinh thần này được minh họa cụ thể trong kinh Tương Ưng, đề cập đến mục tiêu, tinh thần hoằng pháp: Thưa hiền giả, những ai là những vị thuyết pháp ở đời? Những ai là những vị khéo thực hành ở đời? Những ai là những vị khéo đến ở đời?” Tôn giả Sàriputra (Xá-Lợi-Phất) đáp lời du sĩ ngoại đạo: “Này Hiền giả, những ai thuyết pháp để đoạn tận Tham, những ai thuyết pháp để đoạn tận Sân, những ai thuyết pháp để đoạn tận Si; những vị ấy là những vị thuyết thuận pháp ở đời. Này Hiền giả, những ai thực hành đoạn tận Tham, thực hành đoạn tận Sân, thực hành đoạn tận Si; những vị ấy khéo thực hành ở đời. Này Hiền giả, những ai đoạn tận Tham, Sân, Si cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây Sa La, làm cho không thể tái sanh, làm không thể sanh khởi trong tương lai; những vị ấy là những vị Tỷ kheo đến ở đời” [17; tr.821]. 14 Trong kinh Tăng Chi, Đức Phật chỉ ra những điều căn bản đối với hai đối tượng cơ bản của hoằng pháp là người hoằng pháp và người được hoằng pháp. Với người giảng pháp, đức Phật dạy rằng, với tinh thần hoằng pháp, cần phải có và thông hiểu năm phận sự của mình (dhammadesakadhamma): - Thuyết tuần tự thứ lớp, có nghĩa là từ thấp lên cao. - Thuyết y cứ theo pháp môn và kinh điển. - Thuyết vì lòng từ bi, muốn cho người khác được lợi ích. - Thuyết không vì lợi lộc, không muốn được lợi hay được đền đáp. - Thuyết không đụng chạm mình và người khác, không cố ý châm chích, khen mình chê người. Người giảng pháp thiếu một trong năm chi phần này xem như nhiệm vụ người hoằng pháp không hoàn hảo. Cũng trong Tăng Chi bộ kinh (quyển ba), Đức Phật chỉ ra năm lợi ích của người nghe pháp (Dhammassavanànisamsa): - Nghe được Pháp chưa từng nghe - Thông suốt Pháp đã nghe - Đoạn trừ được nghi hoặc - Giúp tri kiến đúng đắn - Nội tâm trong sáng. Về phương tiện hoằng pháp, Đức Phật thường sử dụng hai phương tiện đó là: đi bộ và thần thông. Trong Tăng Chi bộ kinh, chúng ta thấy lịch sinh hoạt của Đức Phật mỗi ngày: - Buổi sáng đi trì bình khất thực - Buổi chiều thuyết pháp độ chúng sinh - Buổi tối dạy đạo chư tăng - Khuya giải đáp thắc mắc của chư thiên - Rạng đông nhập từ bi quán để tìm chúng sinh hữu duyên tiếp độ. 15 Thực tế, để hóa độ chúng sanh, Đức Phật đã phải tự mình đi trên con đường đau khổ, tự mình tu luyện, rèn giũa thân tâm, tự mình chứng ngộ. Vì vậy, để đi trên con đường hoằng pháp, trước tiên người hoằng pháp phải văn-tư-tu. Đó là hành trình dài gian khổ của sự tu luyện thân giáo, khẩu giáo, ý giáo, sau đến Đức Phật vận dụng khéo léo tứ khế (lý, cơ, thời, xứ) để hoằng pháp. Ngài như vị lương y tùy bệnh mà cho thuốc, như người cha lành tùy căn cơ chúng sinh, dùng sức phương tiện nơi một Phật thừa mà nói thành ba [17; tr.117]. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng khẳng định, Chư Phật đời quá khứ dùng vô lượng vô số phương tiện, hết thảy nhân duyên, lời lẽ thí dụ mà vì chúng sinh diễn nói các pháp [17; tr.61], như một trận mưa xuống thấm ướt khắp cả cây cối, rừng rậm, cây lớn, nhỏ, tùy theo hạng mà hấp thụ có sai khác… nhưng tựu chung, tất cả đều đạt đến quả vị giải thoát, Niết-bàn, tịnh tịch [17; tr.178]. Để trang bị khả năng hoằng pháp, trong kinh điển đức Phật còn dạy cho chúng đệ tử Tỷ kheo về giáo lý Ngũ minh: 1. Nội minh, 2. Nhân minh, 3. Y phương minh, 4. Công xảo minh, 5. Thanh minh. Đây là giáo lý được xem như một trong những phương pháp tối ưu nhằm hoàn thiện những nhà hoằng pháp cả hai phương diện Phật học và thế học. Bên cạnh đó giáo lý Ngũ minh còn đề cao ba yếu tố quan trọng cho việc hoằng truyền chánh pháp: 1. Con người hoằng pháp; 2. Phương tiện hoằng pháp; 3. Nội dung hoằng pháp. Như vậy, mẫu người tu sĩ có đầy đủ Ngũ minh là mẫu người lý tưởng nhất trong việc truyền bá Phật giáo, thuyết pháp, độ sinh và cả về phần tự tu tập [77; tr.538]. Trên tinh thần Kinh và Luật như vậy, trải qua các kỳ kiết tập lớn, các giáo đoàn tăng già tiếp tục mang giáo pháp của Đức Phật đi hoằng pháp khắp nơi, trong đó có Việt Nam. Theo sách Đại Sử Ký (Mahavamsa) của Tích Lan, năm 325 trước Công nguyên, Đại hội kết tập kinh điển lần thứ ba diễn ra tại thành Pataliputta (Hoa Thị), nước Mahada (Ma Kiệt Đà), do Hoàng đế Asoka (A Dục) đề xướng bảo trợ, Đại lão HT. Moggaliputta Tissa (Mục Kiền Liên Tử Đế Tu) làm chủ tọa. 16 Sau Đại hội này, có 9 phái đoàn đi hoằng pháp khắp các nơi trong nước Ấn Độ và các nước bên ngoài Ấn Độ, diễn ra trong khoảng thời gian từ năm 325 đến năm 258 trước Công nguyên, tương ứng với thời Hùng Vương ở nước ta và trùng hợp với các sử liệu về Phật giáo ghi trong ngọc phả Hùng Vương, chuyện Chử Đồng Tử, Giao Châu Ký của Lưu Hân Kỳ và Thủy Kinh Chú của Lệ Đạo Nguyên [11; tr.30-31]. 1.2. Phƣơng thức hoằng pháp và yếu tố ảnh hƣởng đến phƣơng thức hoằng pháp tại các đạo tràng hiện nay 1.2.1. Phương thức hoằng pháp 1.2.1.1. Hoằng pháp Hoằng pháp là truyền bá đạo pháp, là một ngành tối quan trọng trong Phật giáo. Phật giáo thịnh hay suy đều do Hoằng pháp [36, tr.41]. Đạo Phật sáng tỏ hay lu mờ cũng do Hoằng pháp. Tín đồ hiểu được đạo lý sâu hay cạn cũng do Hoằng pháp. Hoằng pháp là hình thức thuyết giảng chánh pháp (dhammaṃ desetha), mang lời Phật dạy truyền bá đến mọi chúng sinh. Kinh Đại bổn ghi lại: "Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến dạy các ngươi: "Này các Tỷ-kheo, hãy đi cùng khắp, vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì an lạc cho loài Người, loài Trời. Chớ có đi hai người cùng một chỗ. Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết giảng chánh pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa lý đầy đủ, văn cú vẹn toàn. Hãy nêu rõ đời sống phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh. Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe giảng chánh pháp sẽ bị nguy hại. (Nếu được nghe), sẽ thâm hiểu chánh pháp" [20, tr.502]. Hoằng pháp mang ý nghĩa quan trọng trong Phật giáo. Vì vậy người hoằng pháp cần có những đức tính tốt từ thân hành, khẩu hành và ý hành, mới có thể mang giáo pháp truyền bá đến chúng sinh. 17 Qua một số dẫn luận trên, Hoằng pháp mà người viết hướng đến ở đây được hiểu là một hệ thống bao gồm các lời dạy của đức Phật, tập hợp trong Kinh, Luật,… cụ thể hóa qua 3 tiêu chí: 1. Các kỹ năng truyền bá lời Phật dạy. 2. Các phương thức rèn luyện con người một cách đúng đắn để chuyển hóa, thanh tịnh thân và tâm. 3. Trở thành các chuẩn mực phổ biến áp dụng vào cộng đồng tu sĩ, cư sĩ cũng như xã hội. 1.2.1.2. Mục đích hoằng pháp Hoằng pháp là chức năng quan trọng hàng đầu của Giáo hội. Giáo hội lập ra BHP nhằm truyền bá giáo lý Phật Đà đến quần chúng nhân dân, thực thi sứ mạng hoằng dương Phật pháp và tuyên truyền các chủ trương của Giáo hội. Theo Điều 2 BHP Trung ương quy định rõ, hoằng pháp là hoạt động nhằm mục đích: Hộ trì chánh pháp, lợi lạc chúng hữu tình. Đồng thời hướng dẫn tăng, ni, Phật tử phát huy tư tưởng trong sáng, tích cực và đa dạng của giáo lý Đạo Phật, làm cho ý nghĩa đích thực của Đạo Phật được thể hiện trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, mang lại hạnh phúc an vui cho con người. 1.2.1.3. Phương thức hoằng pháp Phương thức là con đường, là cách thức, phương pháp thực hiện để đạt mục tiêu. Có mục tiêu đúng nhưng cách thức/phương pháp không tương thích thì không đạt được mục tiêu hoặc không hiệu quả. Phương thức được đề ra dựa trên các yếu tố sau: mục đích, nội dung, chủ thể thực hiện, đối tượng/khách thể được thực hiện, và hoàn cảnh tác nhân bên ngoài. Trong đó, yếu tố được tác động đóng vai trò quyết định đến phương thức tác động. Nghĩa là, nếu tác động đến những đối tượng/khách thể khác nhau thì phương thức đưa ra cũng phải khác nhau. Vì thế các hình thức hoằng pháp khác nhau cũng do yếu tố này. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan