Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phương pháp tách tạp chất trong rượu...

Tài liệu Phương pháp tách tạp chất trong rượu

.PDF
58
290
79

Mô tả:

Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Ngọc Bích LỜI MỞ ĐẦU Cồn rượu là sản phẩm thực phẩm nhưng cũng là sản phẩm có nguy cơ độc hại đối với cơ thể con người. Tuy nhiên, hàm lượng cồn rượu trong nước ta và trên thế giới sản xuất ngày càng tăng. Bởi lẽ, cồn rượu không chỉ để pha rượu mà nó cồn được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực: y tế, sản xuất cao su, dung môi, nguyên liệu cho các ngành công nghiệp khác. Gần đây ứng dụng quan trọng nhất đó là cồn trở thành nhiên liệu sinh học. Cồn – nhiên liệu sinh học có ý nghĩa thực tế vô cùng quan trọng. Sản xuất pin sử dụng cồn, cồn được thay thế cho xăng khi nguồn dầu mỏ ngày càng cạn kiệt. Công nghệ sản xuất cồn rượu ở nước ta thì như thế nào? Tiêu chuẩn về cồn rượu ở nước ta là tiêu chuẩn còn thấp so với thế giới. Chúng ta có thể làm tốt giai đoạn lên men nhưng quá trình chưng cất, tinh chế để thu hồi thì đòi hỏi công nghệ cao. Để làm giảm hàm lượng tạp chất trong cồn rượu chúng ta cần nghiên cứu rõ các điều kiện ảnh hưởng để tạo thành rượu hoàn toàn. Các điều kiện ảnh hưởng: nguyên liệu, nấm men, thời gian chưng cất, nhiệt độ chưng cất, thời gian lên men. Nghiên cứu các điều kiện trên để giảm hàm lượng tạp chất trong rượu etylic. Đó chính là lí do tôi chọn đề tài này “NGHIÊN CỨU CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ GIẢM HÀM LƯỢNG TẠP CHẤT TRONG RƯỢU ETYLIC” SVTH: Lê Thị Tuyết Ngân Lớp 05HH – Khoa Hoá 1 Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Chương I: TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU ĐIỀU KIỆN ĐỂ GIẢM HÀM LƯỢNG TẠP CHẤT TRONG RƯỢU ETYILC. 1.1 Giới thiệu chung về rượu etylic 1.1.1 Giới thiệu về tình hình sản xuất và sử dụng rượu etylic 1.1.1.1 Sơ lược về tình hình sản xuất rượu etylic Ở nước ta, nghề nấu rượu thủ công đã có từ ngàn xưa và chưa có tài liệu nào cho biết thời điểm khởi đầu. Theo kinh nghiệm cổ truyền, nghề nấu rượu thủ công thực hiện như sau: Gạo tẻ hay nếp được nấu chín thành cơm, cho ra nong sạch, để nguội, tiếp đó trộn men giống đã giả nhỏ với số lượng từ 1,5 đền 2,5% so với gạo. Sau khi trộn đều, cơm được đưa vào rổ rá sạch, lót lá chuối, đậy kín bằng lá ở phía trên rồi phủ vải sạch hoặc bao tải, đặt vào chỗ thoáng mát khi trời nóng và chỗ ấm vào mùa đông. Sau 2 đến 3 ngày ta nhận được cơm ủ có mùi thơm dễ chịu, ăn ngon, có vị cay và mềm. Tiếp đó cho cơm ủ vào chum hoặc vại sạch rồi thêm nước với số lượng 2 đến 3 lit nước cho 1 kg gạo đem nấu, nhiệt độ của nước tốt nhất là 30 0C, khuấy đều và để cho lên men tiếp 2,5 đến 3 ngày nữa. Nếu ủ men tốt thì đa số các hạt gạo nấu vẫn giữ nguyên dạng bề ngoài nhưng nổi trên mặt chum vại. Dịch lên men này gọi là “cơm hèm”. Đổ cơm hèm vào nồi, đậy vung trát kín, chỉ để một lỗ hở thông với hệ thống làm lạnh rồi đun cho tới sôi, hơi bay ra ngưng tụ lại ta sẽ thu được rượu. Chất lượng rượu thu được phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như nguyên liệu gạo nếp hay tẻ, cơm nấu khô hoặc nhão, men tốt hay xấu, nhiệt độ khi ủ hay lên men, cũng như cách tiến hành chưng cất, lấy sản phẩm. Quan trọng nhất là men giống, nguyên liệu và cách làm men giống rất đa dạng. Mỗi nơi mỗi vùng đều có các bài thuốc làm men khác nhau. Cồn của các cơ sở thủ công làm ra phần lớn chưa đạt tiêu chuẩn TCVN-71, nhưng bản thân TCVN-71 về cồn rượu cũng thuộc loại thấp so với các nước tiên tiến trên thế giới. Hiện tại trên lãnh thổ Việt Nam chỉ có ba cơ sở làm ra cồn loại I thoả mãn SVTH: Lê Thị Tuyết Ngân Lớp 05HH – Khoa Hoá 2 Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Ngọc Bích TCVN-71. Đó là Công ty Rượu Bia Đồng Xuân Phú Thọ, Hà Nội và Bình Tây. Tỉ lệ đạt loại I cũng còn chưa nhiều, riêng rượu Đồng Xuân đạt 70-80%. Ngoài ba cơ sở trên, các cơ sở sản xuất còn lại chỉ làm ra được cồn loại II hoặc thấp hơn và hầu hết là cồn từ rỉ đường. Muốn có cồn tinh khiết chất lượng cao cần phải có hệ thống chưng luyện tốt và biết sử dụng nó. Mặt khác nên có thêm cồn sản xuất từ gạo, ngô và sắn. Bảng 1 - Tiêu chuẩn TCVN-71 là: Chỉ tiêu chất lượng - Nồng độ rượu etylic, %V - Hàm lượng anđehit tính theo anđehit Cồn loại I ≥ 95 Cồn loại II 95 8 20 ≤ 30 50 30 60 ≤ 0,06 0,1 ≤9 18 Không Không được có được có ≥ 50 20 axetic, mg/l. - Hàm lượng este tính theo axetat etyl, mg/l - Hàm lượng dầu fusel tính theo ancol isoamylic và isobutylic, hỗn hợp 3:1, mg/l - Hàm lượng ancol metylic, %V - Hàm lượng axit tính theo axit axetic, mg/l - Hàm lượng furfurrol - Thời gian oxy hoá, phút - Màu sắc Trong suốt và không màu Cồn tốt mới chỉ là điều kiện cần để pha được rượu ngon. Muốn pha rượu ngon cần phải hiểu biết phương pháp và công thức pha chế. Từ trước tới nay nhiều người quan niệm rượu chỉ là cồn pha thêm nước. Tuy nhiên để bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, nước đem pha rượu phải là nước sạch được xử lý để đạt các chỉ tiêu lí hoá và sinh học nhất định và quan trọng hơn cả là muốn có rượu ngon thì phải bổ sung các chất điều hương vị phù hợp với từng loại rượu. SVTH: Lê Thị Tuyết Ngân Lớp 05HH – Khoa Hoá 3 Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Sản xuất cồn rượu theo kiểu công nghiệp ở nước ta chỉ bắt đầu năm 1898 do người pháp thiết kế và xây dựng. Trước cách mạng tháng Tám, ở nước ta có ít nhà máy rượu. Tất cả đều sản xuất từ ngô, gạo và theo phương pháp amylo. - Sau ngày lập lại hoà bình (1955), các nhà máy không còn thiết bị nguyên vẹn, do đó chính phủ ta tập trung cải tạo, sữa chữa với năng suất đạt 6 triệu lit/năm. Đến năm 1960, chúng ta có thêm 2 nhà máy cồn từ rỉ đường. Năng suất mỗi nhà máy là 1 triệu lit cồn qui 100 0/năm. Trong những năm chống Mĩ cứu nước, các tỉnh và địa phương xây dựng thêm hàng loạy các nhà máy rượu cỡ 1 triệu lit/năm. Ngoài ra, ở các tỉnh cũng có xây dựng các phân xưởng cỡ nhỏ 100.000 lit/năm. Tổng năng suất của tất cả các nhà máy lớn nhỏ vào khoảng 15 triệu lit/năm. Sau năm 1975, chúng ta tiếp quản và xây thêm các nhà máy rỉ đường và một số cơ sở tư nhân khác. Nếu cộng tất cả các cơ sở sản xuất cồn rượu của nước ta ở thời điểm 1980-1985 thì hàng năm ta có thể sản xuất trên 30 triệu lit cồn. Có thể nói, thời gian này cồn rượu trong cả nước đạt cao nhất, vừa xuất khẩu vừa tiêu dùng trong nước. Vào những năm 1986-1987, do đổi mới cơ chế quản lý, nhiều xí nghiệp làm ăn thua lỗ, sản phẩm làm ra tiêu thụ chậm nên hàng loạt các phân xưởng nhà máy bị phá sản. Lúc này các cơ sở sản xuất cồn rượu đa quốc doanh quản lý còn rất ít. Các nhà máy lớn chỉ sản xuất cầm chừng vì không còn thị trường xuất khẩu như trước đây. Thị trường trong nước cũng bị thu hẹp và rượu quốc doanh không cạnh tranh nổi với rượu thủ công. Theo ông Nguyễn Văn Hùng - Phó Chủ tịch thường trực kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam, Giai doạn 2000-2007, ngành rượu đạt mức tăng trưởng cao, bình quân trên 14%/năm. Sản lượng rượu sản xuất công nghiệp những năm qua tăng nhanh nhưng còn chiếm tỷ trọng nhỏ, năng lực sản xuất rượu công nghiệp khoảng 100 triệu lít/năm. Sản lượng rượu do dân tự nấu chiếm tỷ trọng gần 80%. Mức độ tiêu thụ tại thị trường rượu có tỷ lệ không đồng đều, vẫn chủ yếu là rượu SVTH: Lê Thị Tuyết Ngân Lớp 05HH – Khoa Hoá 4 Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Ngọc Bích do dân tự nấu, còn dòng rượu cao cấp, chủ yếu là các sản phẩm whisky, brandy, cognac, rum, vang, champagne nhập khẩu chiếm khoảng 4,09%. Xuất khẩu rượu của Việt Nam tăng từ 5,1 triệu USD năm 2000 tăng lên 7,5 triệu USD năm 2007 với tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 7,4%/năm. Sản phẩm rượu xuất khẩu chủ yếu là rượu mạnh. Thị trường xuất khẩu chủ yếu là thị trường châu Á, lớn nhất là thị trường Nhật Bản. Theo ông Hùng, sở dĩ sản xuất rượu của Việt Nam vẫn chưa phát triển tương xứng là vì công nghệ, thiết bị sản xuất rượu thủ công và truyền thống còn đơn giản, lạc hậu. Rượu công nghiệp cũng chưa có thiết bị đồng bộ. Về định hướng phát triển ngành rượu trong thời gian tới, ông Hùng cho biết: ngành tập trung phát triển rượu qui mô công nghiệp chất lượng cao, giảm rượu thủ công do dân tự nấu. Kết hợp nấu rượu thủ công, làng nghề theo hình thức thu gom, xử lý theo qui mô công nghiệp, công nghệ hiện đại của các đơn vị lớn để tạo ra sản phẩm chất lượng. Thực tế, nhiều thương hiệu như rượu Bó Nặm, rượu Mẫu Sơn đã và đang áp dụng thành công mô hình này. 1.1.1.2 Tình hình sản xuất cồn nhiên liệu sinh học ở nước ta 1) Sản xuất cồn từ mật rỉ Năm 2007, Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có nguồn nguyên liệu là 550.000 tấn rỉ mật. có thể sản xuất được 155 triệu lít cồn/năm. Các cơ sở sản xuất cồn nhiên liệu từ rỉ mật có tổng công suất là 60 triệu lít/năm, bao gồm: Lam Sơn công suất 6 triệu lít/năm, Quảng Ngãi công suất 3 triệu lít/năm, Tuy Hòa công suất 6 triệu lít/năm, Hiệp Hòa công suất 6 triệu lít/năm, Long Mỹ Phát công suất 6 triệu lít/năm, Sơn Hà công suất 6 triệu lít/năm, … Các nhà máy cồn Lam Sơn và Tuy Hòa có công nghệ thiết bị hiện đại, hệ thống chưng cất bao gồm 5 tháp, sản xuất cồn thực phẩm, còn các nhà máy khác tùy theo yêu cầu thị trường cung ứng các loại cồn thực phẩm, nhiên liệu hoặc làm nguyên liệu để sản xuất cồn thực phẩm. Nhà máy có công suất lớn nhất là nhà máy cồn Lam Sơn SVTH: Lê Thị Tuyết Ngân Lớp 05HH – Khoa Hoá 5 Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Ngọc Bích thuộc công ty Cp mía đường Lam Sơn có công suất 25 triệu lít/năm, phát huy 60% công suất, do thiếu nguyên liệu. Mặt khác, việc sử lý môi trường do sản xuất cồn từ dích hèm, bã hèm cũng rất tốn kém và triệt để cũng là khó khăn cho nhà sản xuất. Về giá, Giá thành sản xuất cồn tại các nhà máy sản xuất đường cũng thường xuyên biến động phụ thuộc vào giá mật rỉ và chi phí nhiên vật liệu. Tuy nhiên, nếu sản xuất cồn tinh luyện giá thành bình quân khoảng 6.000 đ/lít và cồn thô khoảng 3.500 đ/lít. Có năm giá bán cồn nâng lên khoảng 7.900 đ/lít cồn tinh luyện và cồn thô vào khoảng 5.000 đ/lít. Có những năm giá bán cồn nâng lên khoảng 10.000 - 11.000 đ/lít (năm 2005) và sản lượng do các nhà máy sản xuất ra không đáp ứng nhu cầu (chủ yếu là nhập khầu). Việc xuất khẩu cồn tập trung vào các thị trường như Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan. Việc xuất khẩu cồn đã đem lại việc làm cho các đơn vị sản xuất thùng phi, lực lượng vận tại, cho thuê kho xitec tại các cảng biển. Đối với tiêu dùng nội địa, lượng cồn sản xuất đã dáp ứng các nhu cầu cho y tế, phục vụ công nghiệp bảo quản, chế biến gỗ… 2) Sản xuất cồn từ tinh bột. Ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn hiện có nhà mày cồn tinh luyện Xuân Lộc thuộc Tổng công ty mía đường II, công suất 6 triệu lít/năm, công nghệ thiết bị của Hãng Tomsa (Tây Ban Nha) nguyên liệu từ Sắn của, sắn lát, ngô và thóc gạo. Tuy nhiên, hiện nay nhu cầu thị trường tiêu dùng các loại cồn thực phẩm nhiều nhưng sản xuất chưa đáp ứng do nhiều nước có nhu cầu nhập khẩu tinh bột sắn, vì vậy nguồn nguyên liệu cũng vì thế mà rất khó khăn nên gia mua nguyên liệu cho sản xuất cồn còn cao. Cả nước hiện nay ngoại nhà máy cồn Xuân Lộc có hai nhà máy rượu Hà Nội và Bình Tây là sản xuất cồn thực phẳm nguyên liệu từ tinh bột. Công ty Cổ phần sinh học Việt Nam đã đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất cồn công nghiệp với công suất 66.000m3 cồn/năm tại tỉnh Đăk Lăk. Để đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định, công ty đã có kế hoạch triển khai trồng cây tinh bột Tiboca trên 4.000 ha đất dự án. SVTH: Lê Thị Tuyết Ngân Lớp 05HH – Khoa Hoá 6 Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Công ty đường Biên Hòa và công ty Fair Energy Asia Ltd của Singapo đã ký kết bản ghi nhớ ngày 15-8 hợp tác đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất cồn sinh học, công suất 50.000 tấn cồn nguyên liệu/năm. Nhà máy sẽ được xây dựng tại cụm công nghiệp phía Tây sông Vàm Cỏ Đông thuộc huyện Châu Thành tỉnh Tây Ninh. Công ty Petrosetco (Việt Nam) và Itochu (Nhật Bản) đang tiến hành dự án khoảng 80-100 triệu SUD để xây dựng nhà máy cồn có công xuất 100 triệu lít ethanol mỗi năm từ nguồng nguyên liệu sắn lát. Nhà máy dự định sẽ được đặt tại Khu công nghiệp Hiệp Phước, TP HCM. Dự kiến 99,8% sản phẩm sẽ được cung cấp cho thị trường để pha vào xăng sinh học. 3) Sản xuất cồn từ trái điều Cồn điều đạt 80 độ. Qui trình sản xuất ra cồn điều khô này rất đơn giản và dễ làm. Trái điều sau khi tách lấy hạt được đem rửa sạch để ráo nước và được vắt hoặc ép để lấy nước điều. Sau đó cho dung dịch gelantine vào nước ép điều (với liều lượng 2 gam/lít) rồi đun sôi và lọc để lấy dịch điều. Cho thêm men vào dịch điều (với tỉ lệ 5 gam men/1lít dịch điều) để 5 ngày sau thì chưng cất 2 lần sẽ thu được cồn 80 - 85 độ. Cuối cùng là bỏ thêm chất phụ gia vào thành cồn khô. Tính ra chi phí để sản xuất được 11kg cồn khô từ 150 kg trái điều chỉ mất khoảng 25 ngàn đồng, so với giá thị trường hiện nay trên 20 ngàn đồng/kg cồn khô thì nông dân thu lãi khá cao. Chính vì vậy, sản xuất cồn khô từ trái điều đã mở ra cho người nông dân trồng điều ở Tân Phú một cơ hội mới để tăng thêm thu nhập. 1.1.2 Thành phần hoá học của rượu etylic Thành phần hoá học chính của rượu etylic là ancol etylic và các thành phần khác như axit hữu cơ, anđehit, este, hợp chất chứa nitơ. Ngoài ra còn chứa các thành phần như ancol cao phân tử, metanol, furfurol thì rượu không đạt chuẩn. Cồn thô nhận được sau khi chưng cất còn chứa rát nhiều tạp chất (trên 50 chất) có cấu tạo và tính chất khác nhau. Trong đó gồm các nhóm chát sau: anđehit, este, SVTH: Lê Thị Tuyết Ngân Lớp 05HH – Khoa Hoá 7 Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Ngọc Bích ancol cao phân tử và các axit hữu cơ. Hàm lượng chung của các tạp chất không vượt quá 0,5% so với khối lượng cồn etylic. Thành phần tạp chất thay đổi theo nguyên liệu Bảng 2 – Thành phần tạp chất thay đổi và theo nguyên liệu Số mẫu Este đem mg/l cồn Khoai tây 18 416,6 0,0047 0,28 78,8 Khoai tây + hạt 30 306,7 0,011 0,21 32,1 Hạt 36 242,5 0,040 0,41 86,4 Dạng nguyên liệu Anđehit Dầu fusel % so với rượu Từ mật rỉ 34 376,7 0,116 0,32 113,9 Theo số liệu của Viện nghiên cứu Ucrain, hàm lượng tạp chất trong cồn thô nhận từ mật rỉ dao động trong giới hạn khá lớn. Axit từ 20 đến 200 mg/l, este từ 150 đến 550 mg/l, anđehit từ 90 đến 900 mg/l, ancol cao phân tử từ 0,2 đến 0,5% khối lượng và hợp chất chứa nitơ tính theo amoniac từ 8 đến 18 mg/l. Bằng phương pháp phân tích sắc kí khí người ta thấy rằng, trong thành phần của axit gồm: axit axetic 75-85%, axit butyric 5-10% và còn lại 5-10% là các axit khác. Trong số các anđehit thì anđehit axetic chiếm 75-90%, còn lại 5-10% anđehit propylic, 2-8% anđehit butyric. Trong số các este thì 75-85% là este của axit axetic, 5-10% gồm este của axit propylic, valeric… Hàm lượng ancol cao phân tử cũng rất khác nhau nhưng chứa chủ yếu là ancol amylic và ancol isobutylic. Một số các tạp chất mang tính đặc thù của từng nguyên liệu. Ví dụ cồn nhận được từ mật rỉ ít chứa furfurol nhưng lại chứa các tạp chất gây mùi mía, nhất là cồn nhận được từ mật rỉ mới sản xuất. Mùi này là do các hợp chất nitơ hoặc este của axit butyric. Cồn nhận được từ tinh bột thường chứa furfurol và các tạp chất gây vị đắng, đó là các tecpen. Chất này rất khó phát hiện bằng các phân tích thông thường nhưng lại cảm nhận bằng vị giác. SVTH: Lê Thị Tuyết Ngân Lớp 05HH – Khoa Hoá 8 Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Ngọc Bích * Phân loại tạp chất: gồm 3 loại tạp chất đầu, tạp chất trung gian và tạp chất cuối. phân loại như vậy chỉ là tương đối và qui ước, vì tính chất của tạp chất có thể thay đổi theo nồng độ cồn. - Tạp chất đầu gồm các chất dễ bay hơi hơn ancol etylic ở nông đôh bất kì, nghĩa là hệ số bay hơi lớn hơn hệ số bay hơi của rượu. Các chất có nhiệt độ sôi thấp hơn nhiệt độ sôi của ancol etylic gồm: anđehit axetic, axetat etyl, formiat etyl, anđehit butyric. - Tạp chất cuối gồm các ancol cao phân tử như ancol amylic, ancol isoamylic, isobutyric, propylic, isopropylic. Ở khu vực nồng độ cao của ancol etylic, các tạp chất cuối có độ bay hơi kém hơn so với độ bay hơi của ancol etylic. Ở khu vực nồng dộ etylic thấp, độ bay hơi của tạp chất cuối có thể nhiều hơn so với ancol etylic. Tạp chất cuối điển hình là axit axetic, vì độ bay hơi của nó kém hơn ancol etylic ở mọi nồng độ. - Tạp chất trung gian có hai tính chất, vừa có thể là tạp chất đầu vừa có thể là tạp chất cuối. Ở nồng độ cao của ancol etylic nó là tạp chất cuối. Ở nồng đô ancol thấp chúng có thể trở thành tạp chất đầu. Đó là các chất isobutyrat etyl, isovalerat etyl, isovalerat isoamyl và axetat isoamyl. Độ bay hơi của các tạp chất phụ thuộc vào nồng độ ancol etylic trong dung dịch. Nếu hàm lượng tạp chất không lớn thì có thể xem như độ bay hơi của từng tạp chất riêng biệt không phụ thuộc vào hàm lượng của các tạp chất khác trong dung dịch. Thực nghiệm cho biết khi tăng nồng độ ancol etylic thì hệ số bay hơi của tất cả các tạp chất đều giảm và trong khoảng nồng độ ancol nhỏ hơn 55%, hệ số bay hơi của tất cả các tạp chất đều lớn hơn 1; trong đó có một số tạp chất luôn có hệ số bay hơi lớn hơn 1 ởp nồng độ rượu bất kỳ. Đó là những tạp chất đầu như anđehit axetic, axetat etyl, axetat metyl. Khác với tạp chất đầu, tạp chất cuối mà điển hình là ancol amylic có hệ số bay hơi luôn nhỏ hơn 1 khi nồng độ ancol lớn hơn 55%; hệ số bay hơi của amylic bằng 1 khi nồng độ ancol bằng 55% và ở nồng độ nhỏ hơn 55% hệ số bay hơi của ancol SVTH: Lê Thị Tuyết Ngân Lớp 05HH – Khoa Hoá 9 Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Ngọc Bích amylic lớn hơn 1. Người ta dựa vào tính chất này tách dầu fusel ra khỏi ancol etylic ở dạng hơi hoặc lỏng. Tạp chất đầu và tạp chất cuối tương đối dễ tách, còn tạp chất trung gian rất khó tách. Bảng 3 – Tính chất các tạp chất trong cồn thô Công thức Phân tử Nhiệt ddộ hoá học lượng sôi (0C) - axetic C2H4O 44,05 20,2 - acroleic C3H4O 56,08 52,5 - furfurol C5H4O2 96,08 161,7 - formiat etyl C3H6O2 74,08 54,4 - axeta etyl C4H8O2 88,10 77,1 - axetat metyl C3H6O2 74,08 56,0 - isobutyrat etyl C6H12O2 116,16 110,1 - butyrrat etyl C6H12O2 116,16 121,0 - axetat isoamyl C7H14O2 130,18 142,0 - isovalơrat etyl C7H14O2 130,18 134,8 - isovalơrat isoamyl C10H20O2 172,26 194,0 - axetal C6H14O2 118,17 102,4 - isopropylic C3H8O 60,09 82,4 - propylic C3H8O 60,09 97,2 - isobutyrric C4H10O 74,12 108,1 - butyric C4H10O 74,12 117,9 - isoamylic C5H12O 88,15 132,1 Các tạp chất trong cồn thô Anđehit Este Ancol SVTH: Lê Thị Tuyết Ngân Lớp 05HH – Khoa Hoá 10 Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Ngọc Bích - amylic C5H12O 88,15 137,8 - metylic CH4O 32,04 64,7 - hexilovic C6H14O 102,17 155,7 - formic CH2O2 46,03 100,8 - axetic C2H4O2 66,05 118,1 - butyric C4H8O2 88,10 163,6 C10H16 136,23 167 – 170 C10H18O 154,24 206 – 210 Axit Hợp chất khác - tecpen - hydat tecpen 1.1.3 Nguyên liệu sản xuất rượu etylic: 1.1.3.1 Nguyên liệu chính: Để sản xuất cồn etylic, về nguyên tắc ta có thể dùng bất kí nguyên liệu nào chứa đường hoặc polisaccarit nhưng sau thuỷ phân sẽ biến thành đường lên men được. Do đó, chúng ta có thể dùng cả nguyên liệu giàu xenluloza để thuỷ phân thành đường. Tuy nhiên, dùng nguyên liệu này kém hiệu quả kinh tế. Yêu cầu đối với nguyên liệu phải thoả mãn là hàm lượng tinh bột cao, có khả năng đem lại hiệu quả kinh tế. Nguyên liệu có 2 loại chính: nguyên liệu chứa tinh bột và nguyên liệu chứa đường mật rỉ. + Nguyên liệu chứa tinh bột chủ yếu là sắn, ngô, gạo và tấm. + Nguyên liệu chứa đường mật rỉ là thứ phẩm của sản xuất đường. 1) Nguyên liệu chứa tinh bột: Thành phần quan trọng và chủ yếu đối với nguyên liệu chứa tinh bột dùng trong sản xuất rượu. SVTH: Lê Thị Tuyết Ngân Lớp 05HH – Khoa Hoá 11 Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Ngọc Bích + Đối với sản xuất rượu thì thành phần quan trọng nhất là gluxit lên men được, gồm tinh bột và một số đường. Trong đa số glũit nói chung thì tỉ lệ giữa H và O đều tương tự như nước - Cn(H2O)m. + Gluxit trong tự nhiên chia làm 3 nhóm chính là mono, oligo và monosaccarit. Monosaccarit là những gluxit đơn giản không thể thuỷ phân được. Trong thiên nhiên phổ biến nhất là hexoza và pentza. Hexoza là gluxit lên men được, dưới tác dụng của nấm men đa số hexoza sẽ biến thành rượu và CO2. Pentoza thuộc gluxit không len men được, không có khả năng chuyển hoá thành rượu và CO2 dưói tác dụng của nấm men. + Oligosaccarit là những gluxit chứa từ 2 đến 10 gốc monosaccarit. Trong thiên nhiên phổ biến nhất là đisaccarit và trisaccarit. Đisaccarit phổ biến là mantoza và saccaroza, trisaccarit phố biến là rafinoza. Marltoza và saccaroza dễ dàng chuyển hoá thành rượu và CO2 dưới tác dụng hệ zymaza của nấm men, còn rafinoza chỉ lên men được 1/3. Tuỳ theo nguyên liệu để sản xuất cồn etylic mà chúng ta thu được số lượng cồn etylic khác nhau. Trong đó, nguyên liệu chứa tinh bột thu được cồn etylic nhiều nhất. Bảng 4 Nguồn gluxit Tinh bột Lượng cồn thu được từ 100 kg Theo lít Theo kg 71,998 56,818 Đường đôi 68,20 53,83 Đường đơn 64,794 51,14 2) Nguyên liệu chứa đường mật rỉ: Mật rỉ hay rỉ đường là thứ phẩm của công nghệ sản xuất đường, thường chiếm từ 3 đến 5% so với lượng mái đưa vào sản xuất. Đến năm 2000, có khoảng 40 nhà máy đường đi vào sản xuất với tổng công suất khoảng 12 triệu tấn mía. Nếu tỉ lệ mật rỉ chiếm 3,5% thì lúc đó các nhà máy đường thải ramột lượng mật rỉ là 420000 tấn. SVTH: Lê Thị Tuyết Ngân Lớp 05HH – Khoa Hoá 12 Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Từ 1 tấn mật rỉ chúng ta có thể thu được: 300 lit cồn 1000, 50 kg nấm men; 160 kg CO2 lỏng; 14 kg glixerol; 14,2 kg mì chính và một số sản phẩm khác. a) Thành phần hoá học của đường mật rỉ Thành phần mật rỉ phụ thuộc vào giống mía, đất đai trồng trọt và điều kiện canh tcá cũng như công nghệ sản xuất đường. Bình thường lượng chất khô trong mật rỉ chiếm 80 đến 85%, nước chiếm 15 đến 20%. Có nhà máy rửa nhiếu nước sau khi li tâm đường nên lượng chất khô giảm còn 70-75%. Trong số các chất khô thì đường chiếm tới 60%, gồm 35-40% là saccaroza và 20-25% là đường khử. Số chất khô còn lại gọi chung là chất phi đường và gồm 30-32% là hợp chất hữu cơ và 8-10% là chất vô cơ. Hàm lượng trung bình của các chất vô cơ trong chất khô vào khoảng sau: Chất vô cơ % K2O 76,4 Na2O 11,1 CaO 3,5 MgO 0,4 SO3 2,8 Cl– 5,0 Các oxit khác 0,8 Hợp chất hữu cơ gồm các chất chứa nitơ, cacbon, oxy và hyđro. Chất hữu cơ không chứa nitơ gồm có pectin, chất nhầy furfurol và oxymetyl furfurol, axit… Ngoài ra còn chứa các chất khử nhưng không lên men được như caramen, chất màu… Hợp chất hữu cơ chứa nitơ phần lớn ở dạng amin như glutamic, lơxin, alanin… Lượng nitơ trong rỉ đường mía chỉ khoảng 0,5 đến 1%, ít ơn so với rỉ đường củ cải (1,2-2,2%). Do chứa ít nitơ nên khi lên men dịch rỉ đường chúng ta phải bổ sung nguồn nitơ từ ure hoặc amoni sunfat. Ngoài bổ sung nguồn nitơ, chúng ta cần thêm nguồn photpho để giúp cho sự phát triển bình thường của nấm men SVTH: Lê Thị Tuyết Ngân Lớp 05HH – Khoa Hoá 13 Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Trong rỉ đường mía thường chứa nhiều vitamin với hàm lượng khác nhau Vitamin mg/g mật rỉ B1 0,2  Tiamin B2 0,04  Riboflavin B3 0,13  Axit pantotenoviv B6 0,54  Pirigokxin PP 5,1  Axit nicotinovic 0,02  Axit folievic 6,0  Mezoinozit b) pH và độ đệm của mật rỉ Bình thường pH của mật rỉ từ 6,8 đến 7,2. Rỉ mới sản xuất ra có thể có pH= 7,28,9. Hiện nay hầu hết các nhà máy đường đều xử lý bằng lưu huỳnh nên pH của rỉ đường thường thấp hơn và vào khoảng 5,6-6. Độ kiềm của rỉ vào khoảng 0,5-2 0. Độ kiềm gây bởi các muối canxi của axit cacbonic và các axit hữu cơ khác. Độ đệm được biểu thị bằng thể tích dung dịch H2SO4 1N cần thiết để điều chỉnh dung dịch gồm 100 g rỉ + 100 g nước tới pH = 4,5. Tuỳ theo pH của mật rỉ, độ đệm của mật rỉ, độ đệm có thể từ 14 đến 45. c) Vi sinh vật trong mật rỉ Mật rỉ nhận được từ sản xuất luôn chứa một lượng vi sinh vật. Trong đó nguy hiểm nhất là vi khuẩn lactic và axetic. Mức độ nhiễm khuẩn được xác định bằng sự tăng độ chua khi để mật rỉ “tự lên men”. Mức tăng độ chua (khi tự lên men 24 giờ) trong phạm vi 0,2 đến 0,30 được xem là bình thường. Thực tế trong 1 gam mật rỉ chứa tới 100000 vi sinh vật không nha bào và 15000 có khả năg tạo bào tử. Ở mật rỉ bị nhiễm nặng, con số vi sinh vật có thể đạt 500000 và 50000. Tuy nhiên, đối với mật rỉ đường có nồng độ trên 70%, hầu hết vi sinh vật trong mật rỉ đều chịu nằm yên, nhưng khi pha loãng chúng sẽ bắt đầu hoạt động và làm giảm SVTH: Lê Thị Tuyết Ngân Lớp 05HH – Khoa Hoá 14 Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Ngọc Bích hàm lượng đường, dẫn đến tăng tổn thất. Trong quá trình sản xuất cần có biện pháp xử lý phù hợp ngằm diệt bớt và hạn chế hoạt động của tạp khuẩn. 1.1.3.2 Nấm men: 1) Thành phần hoá học của nấm men: Thành phần hoá học và dinh dưỡng của nấm men phụ thuộc vào chủng giống, môi trường, trạng thái sinh lí cũng như điều kiện nuôi vấy. Men ép chứa trung bình 75% nước và 25% chất khô. Các chất khô của nẩm men bao gồm các thành phần sau: + Protic 30 50%, trung bình 40% + Gluxit 24-40%, trung bình 30% + Chất béo 2-5%, trung bình 4% + Chất khoáng 5-11%, trung bình 9% Gluxit của nấm men chủ yếu là glucogen (C 6H10O5)n, đây là chất dự trữ của tế bào. Hàm lượng của nó trong tế bào men có thể từ 0 đến 40% và tuỳ thuộc trước hết vào môi trường dinh dưỡng. Trong môi trường dư đường, lượng glucogen tăng đáng kể. Trong giai đoạn đầu của lên men nồng độ đường còn cao, nên nấm men chứa nhiều glucogen để duy trì sự sống. Dưới tác dụng của – amylaza, glucogen biến thành mantoza và destrin. Protit chứa trong nấm men rượu thường vào khoảng 35 đến 40% và có đủ các axit amin không thay thế được. Về giá trị dinh dưỡng thì protit nấm men tương đương protit động vật nhưng giá trị hơn protit thực vật. Ở nhiệt độ cao và bình thường, dưới tác dụng của proteaza có sẵn trong nấm men, protit biến thành pepton, peptic và axit amin. Chất béo là thức ăn dự trữ của nấm men và chứa chủ yếu trong nguyên sinh chất, hàm lượng khoảng 2 đến 5% khối lượng chất khô. Trong nấm men còn chứa các chất tương tự chất béo như loxitin và sterin. Trong số đó quan trọng hơn cả là ecgosterin, chất này dễ biến thành vitamin D dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời, hàm lượng vào khoảng từ 0,3 đến 1.4% chất khô của nấm men. SVTH: Lê Thị Tuyết Ngân Lớp 05HH – Khoa Hoá 15 Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Chất khoáng chiếm từ 5 đến 11%. Tuy với số lượng ít nhưng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động của nấm men, đặc biệt là photpho. Photpho thường nằm dưới dạng liên kết hữu cơvà có trong thành phần của photphatit, nucleoprotic cũng như ãit nuclêic. Trong tế bào nấm men còn chứa các ion kali, magie, sắt, lưu huỳnh và axit silicic. Lưu huỳnh có trong thành phần protit ở dạng –SH hoặc –S-S-. Lưu huỳnh và sắt đều tham gia phản ứng oxi hoá khử. Sắt cùng với các chất vô cơ khác như Zn, Mn, Cu, Mg… là những chất không thể thiếu đối với nhiều enzim oxi hoá. Magie cũng như lưu huỳnh và photpho còn có tác dụng làm hoạt hoá photphotaza trong quá trình lên men. Canxi giúp và loại bỏ các chất độc thải ra khi lên men, đồng thời giúp cho tổng hợp protit, làm tăng quá trình oxi hoá và có tác dụng tạo thành 1 số vitamin. Để đảm bảo cho sự sống, nấm men cần các vitamin B1, B2. Biotin và axit paraaminobenzoic là những chất kích thích cho sinh trưởng của nấm men. Trong tế bào nấm men chứa nhiều loại vitamin và với hàm lượng khá lớn nên hiện nay nấm men được xem là nguồn nguyên liệu quí trong sản xuất 1 số vitamin. Trong điều kiện sản xuất rượu, nguồn thức ăn của nấm men như gluxit và và chất khoáng thường có sẳn và đủ trong môi trường. Vitamin với số lượng rất ít thướng được cung cấp từ chế phẩm amylaza đưa vào khi đường hoá. 2) Nấm men được dùng trong sản xuất cồn etylic: Trong sản xuất cồn, rượu vang và bia người ta hay dùng chủng saccharomyces và chia thành: Lên men nổi mà đặc điểm của nó là trong giai đoạn lên men chính chúng tạo trên bề mặt một lớp bọt tương đối dày, trạng thái này được duy trì cho tới khi lên men gần kết thúc. Sau đó nấm men lắng dần nhưng chậm và không tạo thành lớp men xít bám chắc ở đáy thùng. Theo cấu trúc thì nấm men nổi thuộc dạng hạt, chúng ít liên kết thành chuỗi, dạng bóng như nấm men chìm. Nấm men chìm chỉ phát triển trong môi trường lên SVTH: Lê Thị Tuyết Ngân Lớp 05HH – Khoa Hoá 16 Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Ngọc Bích men, chúng không tạo thành bọt dày trên bề mạt, lắng nhanh khi lên men kết thúc và tạo thành một lớp men xít, bám chắc ở đáy thùng. Đặc điểm nổi bật của men chìm là một số chủng có chứa enzym α galactozidaza nên lên men hoàn toàn đường rafinoza, còn đối với nấm men nổi thì chỉ một số ít chủng có khả năng chuyển hoá đường rafinoza thành rượu và cacbonic và chỉ 1/3. Đa số nấm men bia, rượu vang đều thuộc nấm men chìm. Còn men rượu, men bánh mì và một số ít men bia thuộc nấm men nổi. Ban đầu chúng ta chỉ biết loại nấm men nôit do lên men tất cả các dịch ở nhiệt độ thường. Người ta làm nấm men thành nắm. Khi lên men, giã nhuyễn thành bột. Ngoài tính chất chung là nấm men có khả năng biến đường thành rượu và khí cacbonic, trong mỗi ngành sản xuất đều có ngững đòi hỏi đặc thù. Ví dụ nấm men dùng trong sản xuất cồn phải có khả năng lên men các đường nhanh và càng triệt để càng tốt; đồng thời tạo ít các sản phẩm trung gian và phụ. Nấm men dùng trong sản xuất bia và rượu vang phải cho sản phẩm mùi đặc trưng thơm ngon; đồng thời phải lắng tốt và giúp cho dịch lên men nhanh trong. Nấm men dùng trong sản xuất nấm men bánh mì phải có khả năng sinh khối lớn, khi lên men làm nở, xốp bánh và tạo hương vị thơm ngon. Nấm men dùng trong chăn nuôi gia súc phải có khả năng sinh khối lớn, đồng hoá được nhiều chất đường, axit hữu cơ, glixerol và phải chứa nhiều protein… Yêu cầu chung của nấm men dùng trong sản xuất cồn etylic là phải có lực lên men mạnh, biến đường thành rượu nhanh và hoàn toàn. Đồng thời phải ổn định và chịu được những biến đổi của môi trường. Có nhiều loại nấm men để sản xuất cồn etylic, trong điều kiện của nước ta chủng nấm men XII để lên men dịch đường tinh bột và chủng IA để lên men rỉ đường. Khi đem lên men cho chỉ tiêu của giấm chín và lượng CO 2 thoát ra là cao, đem lại hiệu quả cho sản xuất. 1.1.3.3 Nước SVTH: Lê Thị Tuyết Ngân Lớp 05HH – Khoa Hoá 17 Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Cuộc sống trên Trái Đất bắt nguồn từ trong nước. Tất cả các sự sống trên Trái Đất đều phụ thuộc vào nước và vòng tuần hoàn nước. Nước là thành phần quan trọng của các tế bào sinh học và là môi trường của các quá trình sinh hóa cơ bản như quang. Hơn 70% diện tích của Trái Đất được bao phủ bởi nước. Lượng nước trên Trái Đất có vào khoảng 1,38 tỉ km³. Trong đó 97,4% là nước mặn trong các đại dương trên thế giới, phần còn lại, 2,6%, là nước ngọt, tồn tại chủ yếu dưới dạng băng tuyết đóng ở hai cực và trên các ngọn núi, chỉ có 0,3% nước trên toàn thế giới (hay 3,6 triệu km³) là có thể sử dụng làm nước uống. Việc cung cấp nước uống sẽ là một trong những thử thách lớn nhất của loài người trong vài thập niên tới đây. Nước ủ rượu và nấu rượu phải là nguồn nước đảm bảo vì đây là nhân tố quyết định độ ngon của rượu. Rượu Đồng Xuân có hương vị thơm ngon mà không nơi nào có được là do người nấu rượu có kinh nghiệm lâu năm, giống men tốt thì nước ủ rượu và nấu rượu cũng rất quan trọng. Nhiều cơ sở có chất lượng rượu không cao, bị nhiễm độc là do nguồn nước không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. 1.1.4 Các ứng dụng của rượu etylic Cồn rượu được con người xem là sản phẩm thực phẩm nhưng cũng lại là sản phẩm có nguy cơ độc hại đói với cơ thể con người. Tuy nhiên, sản lượng cồn rượu mà thế giới sản xuất hàng năm vẫn ngày càng tăng thêm. Cồn không chỉ để pha chế rượu mà còn được dùng cho các nhu cầu khác như: y tế, nhiên liệu, dung môi, cao su tổng hợp và nguyên liệu cho các ngành công nghiệp khác... Một trong những tiến bộ khoa học được báo cáo tại Hội nghị thường niên lần thứ 225 của Hội Hoá học Mỹ là nghiên cứu phát triển pin nhiên liệu sử dụng cồn. Sử dụng cồn làm nhiên liệu, nhất là etanol, sẽ tạo được các ưu thế về kinh tế vsà hiệu suất. Sử dụng etanol làm giảm trực tiếp chi phí công nghệ. Hơn nữa, etanol chứa 34% năng lượng nhiều hơn so với năng lượng sử dụng để trồng, thu hoạch ngô và chưng cất thành etanol. Etanol là chất lỏng dễ cháy, tuy nhiên etanol khó bay hơi hơn SVTH: Lê Thị Tuyết Ngân Lớp 05HH – Khoa Hoá 18 Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Ngọc Bích xăng rất nhiều. Điều này có ý nghĩa là vấn đề tồn trữ etanol ít trở ngại hơn so với trữ và vận chuyển hydro và các loại xăng khác hiện nay. Theo PGS. TS hoá học Shelley Minteer, hầu hết các nghiên cứu pin nhiên liệu sinh học trong quá khứ đã sử dụng metanol làm nhiên liệu nhiều hơn là etanol. Sự lựa chọn etanol của nhóm nghiên cứu của Minteer dựa trên cơ sở phân tích cho thấy etanol nhiều hơn, sản xuất rẻ hơn và có khả năng phản ứng cao hơn đối với enzym đã lựa chọn. hầu hết các nghiên cứu pin nhiên liệu sinh học trong quá khứ đã sử dụng metanol làm nhiên liệu nhiều hơn là etanol. Sự lựa chọn etanol của nhóm nghiên cứu của Minteer dựa trên cơ sở phân tích cho thấy etanol nhiều hơn, sản xuất rẻ hơn và có khả năng phản ứng cao hơn đối với enzym đã lựa chọn. Rượu cồn là một loại nhiên liệu sinh học mà con người đã sản xuất từ hàng nghìn năm nay. Những năm 30 của thế kỷ trước, ở Mỹ người ta cũng đã có ý định dùng rượu cồn làm nhiên liệu ô-tô. Tuy nhiên, nguồn dầu mỏ dồi dào và giá rẻ lúc đó khiến các quốc gia công nghiệp phương Tây chấp nhận lệ thuộc vào việc nhập khẩu loại nhiên liệu này. Brazil là quốc gia duy nhất đi theo con đường riêng của mình và sử dụng cồn làm nhiên liệu cho các loại ô-tô. Khoảng 40% nhu cầu nhiên liệu của nước này được đáp ứng bằng bioethanol, một dạng cồn được điều chế từ đường mía. Trong khi đó ở châu Âu và Bắc Mỹ người ta điều chế ethanol chủ yếu từ cây trồng. Chính phủ Mỹ cũng coi bioethanol là một loại nhiên liệu của tương lai. Một loạt công nghệ mới, đang trong quá trình phát triển, hứa hẹn nhiều triển vọng, đó là "sundiesel". Trong năm tới, một hệ thống sản xuất "sundiesel" sẽ đi vào hoạt động với năng suất 15.000 tấn/năm. Sundiesel hoàn toàn không độc hại và không có chất aromat. Theo dự báo, trữ lượng dầu thô của thế giới sẽ cạn kiệt vào khoảng từ năm 2050 - 2060. Vấn đề an toàn nguồn năng lượng và đa dạng hóa nguồn cung cấp nhiên liệu; tình trạng hiệu ứng nhà kính do khí thải; sự bất ổn về chính trị và chủ nghĩa khủng bố thế giới; những tiến bộ của khoa học và công nghệ của nhân loại đang đặt ra cho các SVTH: Lê Thị Tuyết Ngân Lớp 05HH – Khoa Hoá 19 Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Ngọc Bích nước trên thế giới phải quan tâm đến việc sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh học. Thế giới hiện có khoảng 800 triệu xe ô-tô các loại, tiêu thụ mỗi ngày 10 triệu tấn dầu mỏ, bằng một phần hai sản lượng dầu mỏ khai thác mỗi ngày. Việc sản xuất và sử dụng nhiên liệu bền vững đang là một nhiệm vụ vô cùng to lớn, trong khi ngành công nghiệp lại đang bước sang một bước ngoặt quan trọng. Theo nhiều chuyên gia thì chỉ có những loại nhiên liệu phối trộn có nhiều triển vọng để áp dụng rộng rãi. Ethanol và sundiesel đáp ứng được yêu cầu này. Với mục tiêu ứng dụng công nghệ sinh học để xử lý phế thải của công nghiệp chế biến đường, cồn, rượu…để tạo ra phân bón, dùng bã rượu làm thức ăn cho cá chép, lợn. Bã rượu- thức ăn tốt cho cá chép. Bã rượu khô (DDGS) đã được các nhà nghiên cứu thực hiện thí nghiệm và kết quả cho thấy có thể tận dụng chúng làm thức ăn cho cá. Trong thành phần của DDGS có 26-32% đạm, 10% chất xơ, 10% chất béo và có độ ẩm cao nhất là 12%. Thí nghiệm này được tiến hành ở hồ nuôi cá xã Đông Xuân, huyện Lương Sơn, Hòa Bình. Thí nghiệm được tiến hành như sau: dùng DDGS thay thế một lượng nhỏ thức ăn thông thường trong khẩu phần ăn hàng ngày của cá chép. Những con cá chép nặng 26-51g được nuôi trong những chiếc lồng nổi với thời gian 3 tháng với 4 chế độ ăn khác nhau: Khẩu phần ăn không chứa DDGS, chỉ có protein từ thực vật. Khẩu phẩn ăn chứa 5% DDGS. Khẩu phần ăn chứa 10% DDGS. Khẩu phần ăn chứa 15% DDGS. Sau 3 tháng, kết quả cho thấy những con cá được ăn 10-15% DDGS có tốc độ phát triển 28g/tháng, trong khi những con cá ăn 0-5% DDGS chỉ tăng 28 g/tháng.Việc thay thế DDGS trong khẩu phần ăn không làm ảnh hưởng đến tốc độ phát triển trước đây của cá cũng như thành phần protein, chết béo, độ ẩm và màu sắc thịt cá.Như vậy ngoài việc làm thành phần cho thức ăn gia cầm thì DDGS còn làm thức ăn trong nuôi cá chép. SVTH: Lê Thị Tuyết Ngân Lớp 05HH – Khoa Hoá 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất