Phương pháp sửa lỗi sai cơ bản trong nói và viết tiếng Anh cho
học sinh khi thực hành tại lớp có hiệu quả
PHẦN I- NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Tiếng Anh là môn học ngày càng được coi trọng do tính quốc tế của nó.
Yêu cầu phát triển của xã hội đòi hỏi ngày càng phải sử dụng nhiều tiếng
Anh trong công việc và giao tiếp. Do vậy việc cung cấp cho học sinh phổ
thông những kiến thức cơ bản để nói và viết đúng được những điều các em
đã được học là rất quan trọng.
Về mặt lí luận thì nhất thiết người giáo viên phải dạy học sinh hiểu đúng,
thực hành đúng những kiến thức nền tảng. Nếu không hiểu đúng, thực hành
đúng thì vốn tiếng Anh của các em không có tác dụng trong quá trình học
tập. Từ viết đúng, nói đúng các em dễ phát triển các kĩ năng khác như nghe,
đọc, dịch...
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Trong thực tế, khi học tiếng Anh thì học sinh rất ít khi thực hành đúng
ngay lần đầu và nhìn chung giáo viên không sửa lỗi được hết cho mọi đối
tượng học sinh vì thường là lớp đông, thời gian có hạn. Hơn nữa việc sữa lỗi
cho học sinh khi thực hành tại lớp mỗi giáo viên có những phương pháp
khác nhau. Có người cho rằng không bao giờ để học sinh mắc lỗi, nếu mắc
lỗi thì dừng lại và sửa chữa ngay cho học sinh, có người cho rằng phải liên
tục sửa nhưng chỉ gợi ý hoặc có những người dùng phương pháp lấy chính
học sinh sửa cho học sinh...Có rất nhiều phương pháp nhưng không phương
pháp nào là vạn năng mà trong quá trình dạy học tiếng Anh phải kết hợp
nhiều phương pháp khác nhau ứng với mỗi tình huống và nội dung khác
nhau. Vì theo một nhà giáo dục học nhận xét "Một người thầy giỏi không
phải là người mang chân lí đến cho học sinh mà phải là người đưa học sinh
đi tìm chân lí".
Từ cơ sở lí luận và thực tiễn, cùng với kinh nghiệm trong quá trình
giảng dạy của mình tôi chọn đề tài nghiên cứu "Phương pháp sửa lỗi sai cơ
bản trong nói và viết tiếng Anh cho học sinh khi thực hành tại lớp có hiệu
quả".
II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
1. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI.
Tìm và phát hiện những lỗi sai mà học sinh hay mắc phải khi nói và
viết.
Áp dụng các phương pháp sửa lỗi sai cho học sinh.
Khảo sát thực nghiệm lấy kết quả của đề tài, tìm ra ưu nhược điểm để
khắc phục và hoàn thiện.
2. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.
Nghiên cứu các phương pháp tối ưu để giáo viên có thể áp dụng sửa
lỗi khi cho học sinh thực hành tại lớp có hiệu quả.
Nghiên cứu sửa lỗi sai về ngữ pháp khi nói và viết, chứ không nặng về
cách phát âm và nét chữ vì để phát âm chuẩn thì đòi hỏi phải có một quá
trình lâu dài mới có được.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Học sinh khối THCS
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Áp dụng đúc rút kinh nghiệm thực tế giảng dạy
Tham khảo tài liệu phương pháp thực hành
Tham khảo kinh nghiệm của các đồng nghiệp
PHẦN II- NỘI DUNG
A.CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ.
I. SỬA LỖI SAI KHI HỌC SINH THỰC HÀNH NÓI TIẾNG
ANH TẠI LỚP.
Trong khi thực hành tiếng Anh đặt câu theo mẫu và phát triển ý, điều
quan trọng đối với người giáo viên là hướng dẫn học sinh tìm hiểu, khám
phá và sáng tạo theo ý của mình. Nhưng không phải lúc nào học sinh cũng
làm được ngay. Vì vậy cả khi học sinh còn lúng túng hoặc sai thì giáo viên
phải nhạy cảm nắm bắt, hiểu ý muốn nói của các em, chủ động sửa hoặc gợi
ý cho học sinh tự sửa lỗi.
Dựa vào tình huống vấn đề đặt ra và những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng
mà chúng ta có thể đưa ra những phương pháp khác nhau mà mục đích cuối
cùng là học sinh hiểu, biết vận dụng đúng
Sau đây là một vài ví dụ ứng với các tình huống khác nhau và các
phương pháp sửa lỗi sai cơ bản cho học sinh khi thực hành nói tiếng Anh tại
lớp.
1. PHƯƠNG PHÁP KHI HỌC SINH MẮC LỖI THÌ SỬA NGAY
Ví dụ:
Khi giáo viên hỏi, yêu cầu học sinh trả lời để luyện cách sử dụng động từ
khuyết thiếu "can" để diễn đạt khả năng có thể làm được việc gì đó. Có thể
có trường hợp sau xảy ra:
Teacher: What can you do, Hoa?
Hoa:
I can speaking English
Teacher: Hmm, that's not right, is it?
I can speak, not I can speaking
Minh, what about you?....
Trong trường hợp trên giáo viên không lấy làm hài lòng với học sinh Hoa
mặc dù em đó cố đưa ra câu trả lời đúng nhưng giáo viên đã sửa lại ngay và
gọi em khác, không cho học sinh đó có cơ hội để sửa câu sai của mình thành
câu đúng . Trong khi câu hỏi giáo viên đưa ra rất gần với học sinh , em nào
cũng có thể trả lời được nhưng giáo viên lại tỏ ra không hài lòng và không
khuyến khích các em tự trả lời, tự sửa lỗi mà làm cho học sinh bối rối không
nói ra câu mình cần nói .
Với trường hợp trên, giáo viên có thể sửa lỗi cho học sinh bằng phương
pháp tích cực hơn tạo cho các em có cơ hội và hứng thú để nói đúng. Có thể
tiếp tục như sau:
Teacher: Well, all right, but "I can speak" not " speaking". Please again?
Hoa : I can speak English
Teacher: Good
Hoặc giáo viên có thể giúp học sinh tự sửa lỗi bằng cách chỉ ra chỗ sai
trong câu
Ví dụ:
Teacher: Yes, OK, nearly,"speaking or speak"
Students: speak
Teacher: Now you say again, Hoa
Hoa: I can speak English
Teacher: That's right .Good
Đây là phương pháp tốt giáo viên cần phát huy và áp dụng thường
xuyên. Khi đó giáo viên có thể biết rằng học sinh có thể hiểu bài và tự mình
sửa lỗi . Học sinh sẽ ghi nhớ lâu hơn và có thể không bị sai như lỗi đó nữa.
Sau khi sửa lỗi được ở một học sinh rồi, có thể chuyển câu hỏi đó sang học
sinh khác, sau đó lại hỏi học sinh ban đầu để kiểm tra lại.
Ví dụ:
Teacher: Well, anyone else? What can I do, Tam?
Tam:
I can speak English
Teacher: Yes, well done
Hoa again?
Hoa:
I can speak English
Teacher: Good
Phương pháp này giúp học sinh trong cả lớp chú ý, nhưng giáo viên nên
sử dụng một cách thận trọng. Điều quan trọng là không để học sinh đầu mắc
sai cảm thấy mình là "nạn nhân" hy sinh cho những bạn khác, phải khuyến
khích đúng lúc, kịp thời để tránh cho học sinh đó có cảm giác sợ hoặc ngại
khi lần sau giáo viên hỏi sẽ không dám trả lời, cho nên giáo viên cần phải
biết xử lý tình huống một cách khéo léo.
Tóm lại, với tình huống và dạng thực hành nói như ví dụ trên, để việc sửa
lổi có hiệu quả chúng ta cần áp dụng phương pháp sửa lỗi cơ bản và phải có
được kĩ năng sau:
- Nên động viên khuyến khích học sinh tập trung vào những gì học sinh
đúng nhiều hơn chứ không thiên về những điều sai, chỉ nên lấy cái sai ra để
so sánh và tránh lặp lại lỗi sai đó.
- Khích lệ những câu trả lời đúng của học sinh, thậm chí cả những câu
chưa đúng hoàn toàn bằng phương pháp này học sinh sẽ cảm thấy mình hiểu
và đang hoàn thiện dần.
-Tránh miệt thị học sinh hoặc làm cho học sinh cảm thấy việc đặt câu
hoặc việc trả lời sai là việc rất tồi tệ.
- Giáo viên chủ động điều khiển sửa lỗi nhanh, nếu không sẽ mất nhiều
thời gian mà phần bài trên lớp chưa hết, nhiều học sinh khác sẽ không có cơ
hội thực hành.
2. KẾT HỢP NHIỀU PHƯƠNG PHÁP KHI SỬA LỖI Ở CÁC
TÌNH HUỐNG KHÁC NHAU
Như tôi đã nói ở ban đầu rằng không có một phương pháp nào là vạn
năng, là tối ưu nhất mà điều quan trọng là giáo viên phải biết kết hợp khéo
léo các phương pháp với yêu cầu đặt ra của từng loại, từng đối tượng học
sinh, mức độ hiểu bài và không khí của lớp học.
Dưới đây là một ví dụ khác về sửa lỗi sai cho học sinh:
Giáo viên đưa ra một đoạn văn trích từ một bức thư của Lan viết cho
người bạn của cô ấy. Yêu cầu học sinh đọc và trả lời câu hỏi. Đoạn văn như
sau:
"Dear Minh,
I was very glad to get your letter and to hear about all the things you are
doing
Thank you for sending me the photographs of the dolls. They are very
beautiful and I have added them to my collection.
I am sending you a few photographs of mine. Little doll with curly brown
hair is a new one I have been given on my 15th birthday anniversary. I hope
you will like it love
Lan"
Giáo viên đặt câu hỏi:What does Lan do?
Trong những tình huống sau giáo viên sẽ làm gì?
a. Một học sinh trả lời: Lan collects the photographs of the dolls.
b. Một học sinh khác trả lời: She collects
c. Một học sinh khác không trả lời vì không biết
d. Một trong những học sinh yếu trả lời: She collecting photographs of
the dolls.
e. Một trong những học sinh khá trả lời: She is collecting dolls.
f. Một học sinh trả lời: She writes letter.
Tuy nhiên trong những câu trả lời trên không câu nào đúng. Nhưng để
học sinh tự sửa thảo luận đi đến câu trả lời đúng, giáo viên có thể đưa ra
những gợi ý sau:
Trường hợp a: chấp nhận câu trả lời gần đúng hoặc gợi ý giúp học sinh tự
sửa
Teacher: It's nearly correct
Just"photographs of the dolls" she collects....
Student: She collects photographs of the dolls
Trường hợp b: Giáo viên ra hiệu bằng một cử chỉ để chỉ ra câu đó chưa
hoàn chỉnh hoặc nói:
Teacher: Yes, she collects but she collects what?
Nếu cần thiết giáo viên có thể đặt câu hỏi đó cho học sinh khác trả lời sau
đó học sinh ban đầu nhắc lại câu trả lời đúng của bạn
Trường hợp d:
Giáo viên đồng ý với câu trả lời đó để khích lệ học sinh nhưng sau đó tự
mình sửa lại và yêu cầu học sinh đó nhắc lại câu trả lời;
Ví dụ: Teacher:Yes, good, she collects photograph of the dolls
Student : She collects photograph of the dolls
Trường hợp e: Giáo viên gợi ý giúp học sinh tự sửa vì đó là học sinh khá
chỉ cần đưa ra gợi ý sau:
Teacher:Well, nearly, what does she do ?
"she collects" or " is collects ?''
Student: She collects
Teacher: Very good
Hoặc yêu cầu học sinh khá khác trả lời cho chính xác và yêu cầu học sinh đó
nhắc lại câu trả lời đúng của bạn.
Trường hợp f : Chấp nhận câu trả lời đó sau đó giáo viên có thể đưa ra
câu hỏi lại rõ hơn về mục đích và ngữ pháp để làm sáng tỏ hơn.
Teacher:Well, yes.She is writing a letter. But what does she do in her
free time? What is her hobby ?
Student :Ah, she collects.....
Teacher:Yes, OK
3. GIÁO VIÊN GIÚP HỌC SINH TỰ SỬA
Đây là một phương pháp tốt tạo cơ hội cho học sinh tự sửa lỗi của mình.
Với phương pháp này giáo viên phải biết linh hoạt sử dụng các kĩ năng về cử
chỉ điệu bộ hoặc những quy ước sẵn đối với học sinh của mình. Học sinh tự
nhận biết lỗi sai trong câu và biết được nó thuộc lỗi sai về từ, vị trí hay loại
câu. Nhưng vấn đề là trong những trường hợp sai nào thì sử dụng những cử
chỉ, điệu bộ như thế nào cho phù hợp để học sinh nhìn vào biết tìm ra lỗi sai.
Sau đó học sinh sẽ tự sửa lỗi sai đó.
Ví dụ: sai về thứ tự từ
Teacher:Is it a car ?
Student : Yes, is it/ Yes, it is
Giáo viên có thể dùng hai ngón tay trỏ vòng qua nhau rồi xuôi ngược theo
lời nói học sinh tự sửa.
Yes, it is quay xuôi chiều
Yes, is it quay ngược chiều
Ví dụ sai về thiếu từ (ngữ pháp )
He gets up 6.00 "at" is missing "
Giáo viên giơ bàn tay lên đếm
1
2
He gets
up
3
4
5
6.00
Học sinh sẽ phát hiện ra từ thiếu khi giáo viên cầm ngón tay số 4 lắc lắc. Khi
học sinh sửa được rồi giáo viên nhắc lại và làm cử chỉ điệu bộ rồi yêu cầu
học sinh nhắc lại câu đúng.
1
2
3
He
gets
up
4
at
5
6.00
Ngoài ra giáo viên có thể dùng giọng điệu để giúp học sinh nhận biết ra
chỗ sai và có thể sửa:
Ví dụ:
Teacher:What does Miss White do ?
Student: He is a teacher (He is wrong )
Miss miss...........White
She is a teacher
Một số ví dụ ở dạng sai này:
1.Yesterday I go to school early
2. He live in London
3. An aeroplain is move faster than a car
Giáo viên dùng ngữ điệu của mình vào những từ giúp học sinh nhận biết
chỗ sai trong câu và sửa lỗi sai đó
Trường hợp 1:
Teacher: Yesterday go or.......
Student:I went
Trường hợp 2:
Teacher:He....
Student:He lives.......
Trường hợp 3
Teacher: faster.....
Student:is faster than
Tóm lại để sửa lỗi trong khi học sinh thực hành nói hiệu quả thì giáo viên
cần phải biết kết hợp vận dụng thường xuyên các phương pháp sửa lỗi một
cách linh hoạt phù hợp với tình huống và lỗi sai nhất định, giáo viên cần chủ
động điều chỉnh để học sinh luôn phát huy được tính tích cực của mình trong
học tập.
II. SỬA LỖI SAI KHI HỌC SINH THỰC HÀNH VIẾT TIẾNG
ANH TẠI LỚP
Ở trường phổ thông, với những yêu cầu kiến thức cho học sinh còn ít và
yêu cầu đơn giản nhưng việc viết đúng là rất quan trọng, ở đây tôi không
nặng về đề cập đến vấn đề nét chữ mà sửa lỗi sai cơ bản về ngữ pháp và
chính tả trong câu. Cũng như chữa lỗi trong luyện tập miệng, việc sửa lỗi sai
khi viết cho học sinh nên làm cho có ảnh hưởng tích cực đến việc viết của
các em hơn là mang tính khích lệ song vẫn phải theo hướng động viên. Điều
đó muốn nói rằng sau những lần chữa và được chữa lỗi, học sinh sẽ hạn chế
mắc sai và đồng thời cũng rút ra được bài học và khắc sâu hơn nữa những
điều cần ghi nhớ từ những chỗ sai này.
1. MỘT SỐ CÁCH SỬA LỖI CẦN LƯU Ý
a. Xác định trọng tâm cần sửa trước
Ở chương trình English 8, học sinh có học cấu trúc câu "enjoy+V-ing".
Giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng đặt câu hỏi về em đó hoặc hoặc người
khác thích làm gì dùng "enjoy" .Học sinh lên bảng viết như sau:
My muther injoy to read newspapers
Với câu trên chúng ta nên sửa những lỗi gì và sửa như thế nào để học
sinh dễ nhớ ?
Ta thấy học sinh trên đã mắc phải quá nhiều lỗi, nhưng điều quan trọng là
trong ý nghĩ của học sinh về nhận xét của giáo viên thì câu đó không đến lỗi
quá tồi như ta nhìn thấy, vì bản thân em học sinh đó cũng đã cố gắng viết
những gì em nghĩ để tạo thành câu. Nên với câu này giáo viên có thể hỏi
những học sinh khác xem đúng hay sai và nhắc lại mục đích của yêu cầu viết
câu này để luyện cấu trúc "enjoy+V-ing" vì vậy phần quan trọng cần sửa là
"V-ing" và chia động từ.
My mother+Vs cũng rất quan trọng nên giáo viên có thể gợi ý và giúp
học sinh sửa cả lỗi này
Teacher: enjoy+to V (right or wrong ?)
Student:wrong enjoy+V-ing
Giáo viên gạch chân từ enjoy to read và viết từ sửa ở dưới: enjoys
reading
My muther injoy reading newspapers
Sẽ tốt hơn nếu giáo viên tự sửa từ "injoy " thành từ "enjoy " viết lên thì
học sinh cũng đã tự biết và hiểu chúng đã mắc sai chỗ đó và biết tại sao lại
thế (vì chúng đã học rồi ) và sẽ hạn chế mắc sai ở những lần sau, cũng giống
như thế lỗi về đánh vần và chữ cái như từ "muther" ta cũng không nên sửa
ngay vì điều này sẽ làm phân tán sự tập trung của học sinh vào những điểm
chính. Giáo viên có thể nhớ lỗi sai đó để sửa vào lần sau hoăc tự các học
sinh khác sẽ phát hiện ra ngay
Teacher: Is it correct all ?
Student: Muther
Teacher: Ah, what ?
Student : Mother
b. Nên đưa những yêu cầu viết như thế nào để việc sửa lỗi có hiệu
quả
Vì đó là thời gian trên lớp và tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu, kĩ năng
rèn luyện của từng phần nên khi luyện viết trên lớp giáo viên cũng cần lựa
chọn phần học sinh hay mắc lỗi sai để sửa và nhấn mạnh, yêu cầu học sinh
phải ghi nhớ
Ví dụ: Sử dụng động từ ở thời tiếp diễn thêm " ing " vào sau động từ
nhưng có một số trường hợp đặc biệt mà chính học sinh hay mắc lỗi.
Giáo viên gọi học sinh lên bảng làm bài tập sau: Cho dạng đúng của động
từ trong ngoặc.
She (cut ) flower in the garden now .
-> She is cuting flower in the garden now
Câu trên có thể học sinh không phát hiện ra chỗ sai ngay vì phát âm
giống nhau và quy luật thì chúng nghĩ đơn thuần cứ thêm "ing" vào sau động
từ mặc dù giáo viên đã dạy rồi khi nào thì gấp đôi phụ âm
Giáo viên có thể gạch chân từ "cuting" giúp học sinh nhớ lại và sửa
She is cutting flower in the garden now.
Giáo viên có thể nhắc lại hoặc yêu cầu học sinh nhắc lại những động từ
có cách viết tương tự từ "cutting"
Một ví dụ khác:
They are (write ) the dictation.
Học sinh cũng sẽ dễ mắc "writeing " mặc dù giáo viên dạy trường hợp
động từ kết thúc bằng "e" thì khi thêm "ing " ta phải bỏ " e" .Nhưng cũng
như những ví dụ vừa quen thuộc vừa thực tế này, ta sẽ thấy đựợc hiệu quả là
học sinh sẽ tự nhớ lại nhiều hơn.
Trên đây là những trường hợp câu ngắn, đơn giản, cả giáo viên và học
sinh cùng làm việc nhưng với trường hợp sửa cả đoạn văn hoặc một vài câu,
khi yêu cầu học sinh viết đoạn văn thì giáo viên cần có những kinh nghiệm
sửa như thế nào đẻ giúp học sinh nhận ra chỗ sai một cách nhanh chóng và
hiểu được tại sao lại sai. Ví dụ giáo viên yêu cầu học sinh viết một đoạn văn
nói về một ngày làm việc bình thường của mình. Giáo viên gọi một em học
sinh lên bảng viết bài của mình ra để cả lớp nhận xét. Đây là bài sau khi giáo
viên và cả lớp cùng nhau sửa .
s
have
at
I alway gets up 6 o'clock. I having breakfast at 6.30
foot
I go to school on feet with my friends. I go home at
11.00
And have lunch at home, usually do
my homework on the afternoon. I having dinner at 6 p.m
I going to the bed at 9 o'clok
Trong ví dụ này ta thấy học sinh đã mắc rất nhiều lỗi ở hầu hết các câu
mà giáo viên đã giúp học sinh sửa hết . Nhưng chính việc sửa hết cùng một
lúc và trình bày như trên thì có lẽ sẽ không khích lệ được học sinh mà còn
làm trầm trọng thêm vấn đề vì chúng sẽ thấy hầu như không đúng chút nào,
thậm chí quá tồi để viết lần sau, hơn nữa cũng không rõ ràng , trình bày rối
học sinh khó phát hiện .
Với trường hợp này nên chăng ta chỉ nên chữa những lỗi cơ bản, quan
trọng nhất hoặc những lỗi hiển nhiên học sinh biết và chúng vừa được học.
Đó là những lỗi ngữ pháp cụ thể là biết sử dụng động từ ở thì hiện tại thường
.
Ta có thể giảm bớt phần gạch chân ( chéo hoặc chỉ gạch chân một lần
thôi và viết ra ngoài đầu dòng phần bác bỏ ) làm cho chữ rõ ràng hơn và bài
có vẻ ít lỗi hơn.
Hơn nữa, trong quá trình dạy ta luôn thể hiện vai trò là người thầy điều
khiển đưa học sinh vào tình huống để chúng chủ động lĩnh hội cũng như sửa
sai. Giáo viên có thể làm giảm bớt đi phần lỗi mà học sinh đó vừa mắc bằng
cách gợi ý mở hỏi chính học sinh đó tự sửa. Điều đó cũng khích lệ được học
sinh nhìn lại những gì mình đã biết và ghi nhớ lần sau sẽ không mắc lại lỗi
đó nữa.
Ví dụ sửa đoạn văn trên như sau:
get up..........have I always gets up 6 o'clok then I having
foot
break at 6.30 I go to school on feet
go
with my friends. I going to home at 11.00
And have lunch at home. I usually do my
in.........have
homework on the afternoon. I having
go
dinner at 6 p.m. I going to the bed at 9 o'clock
Nếu đối với học sinh mà giáo viên dạy quen hoặc là những học sinh khá,
giáo viên có thể quy ước các ký hiệu cho từng loại lỗi ra ngoài mác để giúp
học sinh tự sửa lỗi của mình bằng cách đọc kĩ lại những gì mình vừa viết và
suy nghĩ để sửa .
Ví dụ :
Kí hiệu: Sp: cho lỗi chính tả (spelling )
Gr: cho lỗi ngữ pháp (grammar )
Wo: thứ tự từ
(word order )
2. NHỮNG LỖI THÔNG THƯỜNG HỌC SINH HAY MẮC PHẢI
KHI VIẾT TIẾNG ANH
Vì khi được gọi lên bảng học sinh không được cầm sách, hoặc những từ ,
những mẫu câu vừa mới được học, và cũng chính lỗi học sinh vừa mắc phải
đó rất có lợi cho cả lớp hoặc cho một số học sinh hay mắc lỗi rút kinh
nghiệm. Nên khi nhận xét và cùng giáo viên chữa bài thì cả lớp phải tập
trung. Cũng từ đó người thầy sẽ biết được học sinh đã tiếp thu được những
gì và còn yếu ở chỗ nào cần phải nhấn mạnh.
Quay lại ví dụ 1:
My muther injoy to read newpapers
Trường hợp này ta thấy học sinh quá yếu, vậy chúng"hổng " cái gì và nên
dạy lại cái gì. Có thể đưa ra một vài phân tích sau:
a. Lỗi về ngữ pháp
-Cấu trúc cơ bản "enjoy+V-ing " giáo viên sẽ phải đưa ta yêu cầu luyện
tập nhiều hơn nữa mẫu câu này và sử dụng nhiều ví dụ khác nhau giúp
chúng nhớ .
-Chia động từ ở ngôi thứ ba số ít
Học sinh có thể nhớ lại chỉ cần giáo viên nhắc chủ ngữ ngôi thứ mấy,
chia động từ như thế nào là chúng có thể biết và tự sửa.
b. Lỗi sai về từ
Tác dụng của một chữ cái bắt đầu có thể gợi lại cho học sinh nhớ từ này:
Teacher: injoy
"e"/i/ or "i" /ai/?
Student: enjoy
Ngoài ra, ứng với mỗi trường hợp để có hiệu quả giáo viên phải tự đặt ra
các câu hỏi như : những nguyên nhân nào dẫn đến học sinh mắc những lỗi
đó có chỉ ra được những gì mà học sinh đó và học sinh khác chưa hiểu hay
không? Hay chúng hiểu rồi nhưng vẫn mắc theo thói quen. Vậy giáo viên
phải làm thế nào cho phù hợp với mỗi đối tượng học sinh trong lớp.
Với loại lỗi này , ta thấy học sinh hay mắc phải thì chúng sử dụng các
trường hợp đặc biệt của các cách sử dụng từ cấu trúc ngữ pháp.
Ví dụ:
Các từ học sinh hay nhầm
Từ đúng
Học sinh hay nhầm
Swimming
Swiming
Cutting
cuting
Shopping
Shoping
Writing
Writeing
Closing
Closeing
Trên đây là một vài ví dụ thuộc các dạng lỗi cơ bản mà học sinh hay mắc
phải và hướng giải quyết của giáo viên mà tôi thường áp dụng với học sinh
của mình và thấy rằng các phương pháp này rất có hiệu quả.
B. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM.
Khi làm đề tài này tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm ở lớp 8A . Tôi thấy
rằng sau thời gian áp dụng các phương pháp sửa lỗi này học sinh đã tiến bộ
rõ rệt ngay cả khi nói và viết.
Kết quả trước và sau khi áp dụng các phương pháp sửa lỗi trên.
Xếp loại
Luyện nói
Trước
Sau khi áp dụng thường
xuyên
Luyện viết
Trước
Sau khi áp dụng
thường xuyên
Giỏi
32%
40%
34%
39%
Khá
45%
51%
47%
51%
TB
23%
9%
19%
10%
PHẦN III – KẾT LUẬN
I. KẾT LUẬN
1. §¸nh gi¸ kÕt qu¶ thùc hiÖn ®Ò tµi.
®æi míi ph¬ng ph¸p d¹y häc lµ ®iÒu kh«ng thÓ thiÕu. Mçi gi¸o viªn
®øng trªn bôc gi¶ng ®Òu tr¨n trë víi bµi gi¶ng cña m×nh khi cha truyÒn t¶i
hÕt kiÕn thøc cho häc sinh mét c¸ch hiÖu qu¶. Ph¬ng ph¸p söa lçi sai c¬ b¶n
cho häc sinh khi nãi vµ viÕt
gióp t«i cã ®îc thµnh c«ng ®¸ng kÓ, gãp
phÇn n©ng cao chÊt lîng bé m«n nãi riªng vµ chÊt lîng gi¸o dôc nãi chung.
Bíc ®Çu häc sinh ®· h¹n chÕ ®îc nh÷ng lçi sai c¬ b¶n trong khi nãi vµ viÕt.
§iÒu nµy gióp häc sinh tù tin, m¹nh d¹n h¬n khi sö dông thø ng«n ng÷ mang
tÝnh quèc tÕ nµy.
2. HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI
Ở chuyên đề này với kinh nghiệm giảng dạy còn chưa nhiều , thời gian
nghiên cứu còn hạn chế và khó khăn trong việc tìm tài liệu hướng dẫn nên
tôi còn trăn trở một số vấn đề chỉ đề cập được nhưng chưa sâu và đa dạng về
ví dụ. Tuy nhiên những vấn đề đưa ra là phổ thông và sát thực.
Chuyên đề này chưa kết hợp được nhiều phương pháp chữa lỗi đưa học
sinh vào những tình huống có vấn đề.
3. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
Qua quá trình giảng dạy tôi sẽ tích luỹ kinh nghiệm thêm, đồng thời luôn
luôn học hỏi đồng nghiệp , tự học tập rèn luyện bồi dưỡng thường xuyên
bằng cách .
-Tìm tòi nghiên cứu tài liệu tham khảo
-Áp dụng thường xuyên vào các tình huống khác nhau
-Chú ý tới các lỗi sai, thậm chí đôi khi giáo viên có thể tạo ra các lỗi sai
để giúp học sinh sửa và hiểu hơn trong quá trình học tập.
II. KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT.
Trong quá trình giảng dạy cũng như thực hiện đề tài tôi cũng gặp
phải một số khó khăn, vướng mắc, đề nghị các cấp lãnh đạo quan tâm hơn
đó là:
* Đối với tổ chuyên môn.
Tăng cường dự giờ và thảo luận, góp ý xây dựng bài giảng ngày
càng có chất lượng cao hơn.
* Đối với nhà trường.
- Xây dựng phòng chức năng cho bộ môn Tiếng Anh có đủ các
phương tiện dạy học hiện đại như máy vi tính, máy chiếu, tai nghe ...
* Đối với phòng giáo dục.
- Tạo mọi điều kiện cho giáo viên tham gia vào các lớp tin học, hướng
dẫn tra cứu mạng giúp giáo viên tiếp cận với công nghệ thông tin hiện đại
phục vụ cho việc giảng dạy tốt hơn.
- Trong sinh hoạt chuyên môn theo cụm, nên bố trí, sắp xếp các giáo
viên dạy có phương pháp đổi mới và kĩ năng truyền đạt tốt để các giáo viên
khác có nhiều cơ hội học hỏi và buổi sinh hoạt chuyên môn có chất lượng
cao hơn.
Trên đây là những suy nghĩ và việc làm thiết thực của bản thân tôi
trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn tiếng Anh . Thiếu sót là
điều không thể tránh khỏi, tôi mong nhận được sự góp ý của các bạn đồng
nghiệp để bản sáng kiến này được hoàn thiện hơn và được áp dụng
- Xem thêm -