Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phương pháp quy nạp và vai trò của nó trong nhận thức khoa học...

Tài liệu Phương pháp quy nạp và vai trò của nó trong nhận thức khoa học

.PDF
98
60
146

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐẶNG THỊ HUỆ PHƢƠNG PHÁP QUY NẠP VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG NHẬN THỨC KHOA HỌC LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Triết học Hà Nội, 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐẶNG THỊ HUỆ PHƢƠNG PHÁP QUY NẠP VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG NHẬN THỨC KHOA HỌC Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học Mã số: 60220301 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Gia Thơ Hà Nội, 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của bản thân tôi. Các tài liệu đƣợc trích dẫn trung thực. Nội dung đã trình bày trong luận văn chƣa đƣợc công bố ở bất kì công trình khoa học nào. Hà nội, ngày 23 tháng 9 năm 2015 Ngƣời cam đoan Đặng Thị Huệ MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………………….….…… tr.1 Chƣơng 1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHƢƠNG PHÁP QUY NẠP …………………………………………………………….............tr.6 1.1. Phƣơng pháp quy nạp thời kỳ cổ đại .........................................…....….…tr.6 1.1.1. Điều kiện về tự nhiên – kinh tế và lịch sử - xã hội của Hy Lạp cổ đại....tr.6 1.1.2. Những tƣ tƣởng cơ bản về phƣơng pháp quy nạp thời kỳ cổ đại...........tr.17 1.2. Sự phát triển của phƣơng pháp quy nạp thời kỳ cận đại đến hiện đại......tr.24 1.2.1. Điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội phƣơng Tây thời kỳ cận hiện đại …………………………………………………………………………..........tr.25 1.2.2. Nhƣng tƣ tƣởng cơ bản về phƣơng pháp quy nạp thời kỳ cận đại đến hiện đại ..........................................................................................................................tr.28 Chƣơng 2. VAI TRÒ CỦA PHƢƠNG PHÁP QUY NẠP TRONG NHẬN THỨC KHOA HỌC …………………………………………………………….….. tr.50 2.1. Một số nội dung cơ bản của phƣơng pháp quy nạp ..............……..….....tr.50 2.1.1. Đặc điểm của phƣơng pháp quy nạp......................................................tr.50 2.1.2. Một số phƣơng pháp nhận thức bằng quy nạp ......................................tr.54 2.2. Phƣơng pháp quy nạp trong nhận thức khoa học .....................................tr.58 2.2.1. Vai trò của phƣơng pháp quy nạp trong quá trình nhận thức................tr.58 2.2.2. Vai trò, ý nghĩa của phƣơng pháp quy nạp trong các khoa học cụ thể …………………………………...……………………………………….......tr.67 KẾT LUẬN …………………………………………………………...……..tr.88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………….….. tr.90 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Nhân loại đã bƣớc qua thiên niên kỷ thứ hai và đang ở vào những năm đầu của thiên niên kỷ thứ ba, một thiên niên kỷ mới với bao biến đổi mạnh mẽ mang tính chất toàn cầu trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế chính trị, tƣ tƣởng đến văn hoá, khoa học, kỹ thuật, công nghệ; từ cuộc sống gia đình cho đến các thể chế xã hội và môi trƣờng sống của con ngƣời. Chính sự vận động và phát triển của xã hội ngày càng phong phú, đa dạng và phức tạp đó đòi hỏi con ngƣời phải tìm hiểu một cách sâu sắc, nhằm làm sáng tỏ những quy luật của sự vận động và phát triển của nó. Sự vận động không ngừng của thực tiễn xã hội phá vỡ chân lý sáo mòn, những đồ thức luận máy móc, buộc phải điều chỉnh thƣờng xuyên cách tiếp cận đối với nhiều vấn đề thực tiễn mới. Là một lĩnh vực của đời sống xã hội nên khoa học cũng không thể nằm ngoài tính quy định này. Khoa học là hệ thống tri thức tự nhiên, xã hội và tƣ duy, đƣợc tích lũy trong quá trình nhận thức trên cơ sở thực tiễn, đƣợc thể hiện bằng những khái niệm, phán đoán, học thuyết. Nhiệm vụ của khoa học là phát hiện ra bản chất, tính quy luật của các hiện tƣợng, sự vật, quá trình, từ đó dự báo về sự vận động, phát triển của chúng, định hƣớng cho hoạt động của con ngƣời. Khoa học vừa là hình thái ý thức xã hội, vừa là một dạng hoạt động, một công cụ nhận thức. Mỗi khoa học đều có phƣơng pháp luận của mình, đó chính là lý luận về phƣơng pháp. Tƣ tƣởng phƣơng pháp luận của nghiên cứu khoa học xuất hiện từ thời Hy Lạp cổ đại, tuy nhiên, với tƣ cách là bộ môn độc lập, phƣơng pháp luận chỉ xuất hiện vào thời kỳ Phục hƣng. Một trong những điển hình cho các phƣơng pháp luận nghiên cứu khoa học đƣợc các nhà tƣ tƣởng từ cổ chí kim quan tâm nghiên cứu và vận dụng trong nghiên cứu khoa học là quy nạp. Đây là một trong những phƣơng pháp hết sức cơ bản của nhận thức, đặc biệt là nhận thức lý tính - nhận thức bằng tƣ duy trừu tƣợng. Cũng chính vì lẽ đó, phƣơng pháp này không chỉ đƣợc nghiên cứu vận dụng trong các khoa học cụ thể, mà còn đƣợc nghiên cứu tƣơng đối sâu sắc trong triết học và lôgíc học. Sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ, 1 máy tính điện tử, trí năng nhân tạo, tin học,… đều liên quan chặt chẽ với sự phát triển của các phƣơng pháp nhận thức. Đang trên con đƣờng đổi mới, nƣớc ta là nƣớc đi sau trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đây là thời cơ và cũng là thách thức lớn trong quá trình hội nhập quốc tế. Đứng trƣớc nhiệm vụ lớn lao trong giai đoạn cách mạng hiện nay là làm sao trong một thời gian ngắn có thể thúc đẩy nhanh nhất quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì việc phát triển khoa học, công nghệ mà cơ sở của sự phát triển đó là các khoa học cơ bản giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Do vậy, việc đi sâu nghiên cứu các phƣơng pháp nhận thức, trong đó có quy nạp là việc làm cần thiết. Từ những lí do cụ thể đó, cùng với những học hỏi lý luận từ các lý thuyết về phƣơng pháp luận nghiên cứu khoa học, chúng tôi lựa chọn vấn đề “Phƣơng pháp quy nạp và vai trò của nó trong nhận thức khoa học” làm đề tài cho luận văn thạc sỹ của mình, với mong muốn nhận thức sâu hơn và trang bị cho mình kiến thức về phƣơng pháp quy nạp để sau này nghiên cứu, thực hiện các công trình khoa học, góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng đất nƣớc. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Trong các tài liệu triết học, lôgíc nghiên cứu khoa học ở nƣớc ngoài và trong nƣớc, có rất nhiều tài liệu đã bàn về phƣơng pháp quy nạp, quá trình hình thành và phát triển của phƣơng pháp này và ngày nay vẫn đƣợc tiếp tục nghiên cứu. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ lịch sử việc nghiên cứu và vận dụng phƣơng pháp này có những mức độ khác nhau. Chẳng hạn, ở thời kỳ cổ đại Hy Lạp, Dèmocrite, Socrate, Platon, Aristotle … đã đề cập đến những vấn đề về lôgic quy nạp. Sau các nhà Hy Lạp cổ đại có nhiều đại biểu tiếp tục nghiên cứu và phát triển phƣơng pháp quy nạp, đặc biệt bƣớc sang thời kỳ cận đại, do nhu cầu của thực tiễn phát triển khoa học mà nổi lên hai khuynh hƣớng song hành: một hƣớng đề cao vai trò của quy nạp mà đại biểu là Francis Bacon và John Stuard Mill và hƣớng khác đề cao vai trò của diễn dịch mà đại biểu là Rone Decacto và Lebniz. Ở phƣơng Tây có các tác giả đã có nhiều công trình về vấn đề này nhƣ: Henry D. Kyburg (với tác phẩm “Probability and inductive logic” – đã đƣợc 2 dịch ra tiếng Nga); K. R. Popper; H. Reichenbach, I. Lakatas, C. G. Hempel, N. R Hanson, M. Bunge … Ở Liên Xô cũ, có các tác giả: G. L. Rudavin, X. A. Lebedev, X. A. Ianovxkaia, B. N. Piatnhixuwn, X. P. Ruddaia, V. A. Xvetlov, D. P. Gorki, A. P. Septulin, … Về phía các tác giả Việt Nam có tác giả Nguyễn Gia Thơ “Lôgíc quy nạp và vai trò của nó trong nhận thức khoa học” Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005, tác giả đã đi sâu phân tích ý nghĩa của lôgíc học nói chung, vai trò của của lôgic quy nạp trên hai phƣơng diện nhận thức luận nói chung và phƣơng diện hình thành tri thức mới trong các khoa học cụ thể, đặc biệt trong toán học và khoa học tự nhiên, trong đó tác giả đã đề cập tới quá trình hình thành và phát triển phƣơng pháp quy nạp trong lịch sử triết học. Hà Thiên Sơn với “Mối quan hệ biện chứng giữa quy nạp và diễn dịch trong nhận thức khoa học” - Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 1999, trƣớc khi đi sâu nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa quy nạp và diễn dịch trong quá trình xây dựng giả thuyết và lý thuyết khoa học, tác giả đã đề cập tới vấn đề quy nạp và diễn dịch trong lịch sử triết học phƣơng Tây trƣớc Mác. Tác giả Lê Văn Kiện: “Lôgíc toán và vai trò của nó trong nhận thức khoa học” trong Luận văn thạc sĩ triết học, trƣờng Đại học khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, 2008, đã đề cập khá sâu sắc đến các hƣớng cải cách lôgíc hình thức của Aristotle; Tác giả Đinh Thị Cúc - “Lôgíc mệnh đề cổ điển và ảnh hƣởng của nó đối với chủ nghĩa thực chứng” - Luận văn thạc sĩ triết học, Viện triết học, 2010, đã bàn về lôgíc học Aristotle và khoa học cận đại, các hƣớng cải cách lôgíc học Aristotle và sự xuất hiện lôgíc mệnh đề cổ điển. Bên cạnh đó, còn có một số bài báo viết về vấn đề này, chẳng hạn: “Về một số khía cạnh nhận thức luận của Lôgíc quy nạp trong Triết học cổ đại Hy Lạp” của Nguyễn Gia Thơ trên tạp chí triết học số 2/1994, đã chỉ ra một số khía cạnh nhận thức luận của phƣơng pháp quy nạp trong triết học cổ đại Hy Lạp; Bài báo của Hà Thiên Sơn “Những bƣớc đi đầu tiên của Francis Bacon tới việc xây dựng phƣơng pháp quy nạp” công bố tại tạp chí triết học số 1/1996, đã bàn tới phƣơng pháp quy nạp do Francis Bacon xây dựng; tác giả Phạm Văn Dƣơng 3 với bài “Lôgíc học với việc xây dựng phƣơng pháp nhận thức khoa học” trên tạp chí triết học, số 7/2004, đã đề cập tới lôgíc học của Aristotle và Francis Bacon với các bƣớc phát triển và vai trò của chúng. Có thể nói, việc nghiên cứu, bàn về phƣơng pháp quy nạp có nhiều, chúng tôi chọn đề tài: “Phƣơng pháp quy nạp và vai trò của nó trong nhận thức khoa học” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình với mong muốn kế thừa các công trình nghiên cứu đi trƣớc, nhằm góp phần làm sâu sắc hơn nữa về phƣơng pháp quy nạp và vai trò của nó trong nhận thức khoa học. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn làm rõ lịch sử hình thành và phát triển của phƣơng pháp quy nạp và vai trò của phƣơng pháp quy nạp trong nhận thức khoa học. Để đạt đƣợc mục đích đó, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau: Một là, làm rõ sự hình thành và quá trình phát triển phƣơng pháp quy nạp trong lịch sử triết học phƣơng Tây. Hai là, phân tích vai trò của phƣơng pháp quy nạp trong nhận thức khoa học. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Ở luận văn này, chúng tôi giới hạn việc nghiên cứu của mình trong lịch sử triết học phƣơng Tây. Đồng thời, để luận chứng cho các luận điểm, chúng tôi sử dụngchủ yếu các tài liệu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội và nhân văn. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là thế giới quan, phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Luận văn cũng sử dụng một số luận điểm quan trọng của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc về vấn đề này. Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn chủ yếu sử dụng phƣơng pháp thống nhất lôgic và lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phƣơng pháp kết hợp phân tích với tổng hợp, phƣơng pháp so sánh. 6. Đóng góp của luận văn Một là, làm rõ sự hình thành và phát triển của phƣơng pháp quy nạp trong lịch sử triết học phƣơng Tây. 4 Hai là, làm rõ vai trò của phƣơng pháp quy nạp trong nhận thức khoa học. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần làm sâu sắc hơn những tri thức về phƣơng pháp quy nạp trong lịch sử triết học phƣơng Tây và vai trò của phƣơng pháp quy nạp trong nhận thức khoa học. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử triết học, lôgíc học. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chƣơng, 4 tiết và 8 tiểu tiết. 5 Chƣơng 1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHƢƠNG PHÁP QUY NẠP 1.1. Phƣơng pháp quy nạp thời kỳ cổ đại 1.1.1. Điều kiện về tự nhiên, kinh tế và lịch sử - xã hội của Hy Lạp cổ đại Đất nƣớc Hy Lạp cổ đại - cái nôi của các khoa học nói chung, của các tƣ tƣởng triết học, lôgíc học nói riêng, là một lãnh thổ vô cùng rộng lớn, lớn hơn rất nhiều lần so với đất nƣớc Hy Lạp ngày nay. Hy Lạp cổ đại bao gồm miền Nam bán đảo Ban Căng, vùng ven biển Tiểu Á và các đảo của vùng biển Êgiê. Với sự phân bố đất đai nhƣ vậy, với điều kiện tự nhiên trời phú, đất nƣớc Hy Lạp tọa lạc vào một vị trí vô cùng thuận lợi. Khí hậu, đất đai, biển cả và lòng nhiệt thành của con ngƣời là những tài vật, tài lực vô giá để tạo ra sự phát triển khác nhau giữa các vùng. Có vùng phù hợp với sự phát triển của nông nghiệp với điều kiện tự nhiên mƣa gió thuận hòa. Có vùng thuận lợi cho sự tăng trƣởng của thƣơng nghiệp, thủ công nghiệp do có nhiều hải cảng ở vùng biển Êgiê. Cũng nhờ những điều kiện đó mà tƣ duy của con ngƣời nơi đây đƣợc tự do bay bổng, sự thông thƣơng giữa Hy Lạp với các nƣớc, các vùng văn minh khác thời kỳ đó không ngừng đƣợc mở rộng về mọi mặt. Chính điều kiện tự nhiên khác nhau giữa các vùng đã góp phần quyết định sự phát triển khác nhau của các ngành kinh tế và do đó cũng quyết định các mặt đời sống xã hội khác, kể các các quan điểm triết học, các tƣ tƣởng lôgíc học. Nền kinh tế Hy Lạp cổ đại phát triển đều cả về nông nghiệp, thủ công nghiệp, thƣơng nghiệp. Sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp, thủ công nghiệp từ cuối thế kỷ thứ VII Tr. CN là lực đẩy quan trọng cho trao đổi, buôn bán, giao lƣu trong khu vực, dẫn đến sự ra đời các thành bang (Polis) và các trung tâm văn hóa nhƣ Athènes, Sparte. Sang thế kỷ XV cho đến thế kỷ IX trƣớc công nguyên, xu hƣớng chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã hiện dần và ngày càng lộ rõ. 6 Nằm trên vùng đồng bằng thuộc trung bộ Hy Lạp, thành bang Athènes là nơi có nhiều hải cảng thuận lợi cho việc trao đổi mậu dịch, làm xuất hiện các quan hệ tiền - hàng từ rất sớm và chính quan hệ này đã giúp cho giai cấp chủ nô giàu lên nhanh chóng. Do vị trí địa lý nhƣ vậy nên Athènes phát triển mạnh mẽ về thủ công nghiệp, thƣơng nghiệp. Còn ở Sparte lại tăng trƣởng về nông nghiệp. Cơ sở của nền kinh tế ở Hy Lạp chính là dựa trên chế độ chiếm hữu nô lệ. Thời kỳ này, nô lệ là những ngƣời giữ vai trò rất quan trọng trong sản xuất. Trong dân cƣ, lực lƣợng này chiếm đa số (ở Athènes có tới 250 nghìn nô lệ trên 340 nghìn dân). Tuy họ chỉ đƣợc coi là “công cụ biết nói”, “động vật biết nói” nhƣng chính họ lại là lực lƣợng quyết định sự đi lên của nền kinh tế thời cổ đại này. Lực lƣợng sản xuất trong xã hội không ngừng phát triển đã kéo theo sự phân công lao động trong xã hội: giữa lao động chân tay và lao động trí óc, trong nông nghiệp chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, nghề thủ công xuất hiện. Lúc này, những ngƣời lao động trí óc đầu tiên cũng xuất hiện ở Athènes. Họ là một bộ phận đƣợc học hành trong giai cấp chủ nô giàu có. (Athènes đã trở thành, không chỉ là một trung tâm văn hóa của Hy Lạp cổ đại mà còn là chiếc nôi của triết học Châu Âu). Điều này góp phần phát sinh các ngành khoa học, trong đó có triết học, lôgíc học. Khi chế độ công xã nguyên thủy tan rã thì chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời, đây là xã hội có giai cấp đầu tiên của loài ngƣời. Giai cấp chủ nô và nô lệ là hai giai cấp cơ bản của xã hội chiếm hữu nô lệ, bên cạnh đó còn có dân tự do. Giai cấp chủ nô nắm trong tay toàn bộ quyền hành, còn giai cấp nô lệ không đƣợc tham gia và không đủ khả năng tham gia các hoạt động xã hội, chính trị và văn hóa. Họ không có một chút quyền lợi nào ngoài phải lao động cƣỡng bức tàn bạo. Tài sản nằm trong tay giai cấp chủ nô có đƣợc là do bóc lột sức lao động của những ngƣời nô lệ. Cuộc sống khổ cực của giai cấp nô lệ chính là bản án tố cáo mặt trái của xã hội chiếm hữu nô lệ. So với phƣơng Đông, chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp cổ đại phát triển cao hơn và đầy đủ đến mức điển hình. Có thể khẳng định chế độ chiếm hữu nô lệ là một chế độ xã hội có hình thức áp bức bóc lột tàn bạo nhất, dã man nhất, vô nhân đạo nhất trong lịch so với 7 tất cả các hình thức áp bức bóc lột ở các chế độ xã hội có giai cấp khác. Do vậy, ở xã hội này luôn luôn diễn ra những cuộc nổi dậy tự phát của nô lệ chống lại chủ nô song kết cục thƣờng bị thất bại, thậm chí bị đàn áp rất dã man. Nguyên nhân chính của những thất bại đó là do họ không có khả năng xây dựng một thế giới quan phản ánh những quyền lợi của mình. Họ xuất thân từ cuộc sống lao động chân tay nặng nề ở các bộ lạc khác nhau, do đó họ đã không có tiếng nói chung, ngôn ngữ chung. Tuy nhiên, nhờ có chế độ đó, giai cấp chủ nô Hy Lạp cổ đại mới có thể thoát ly đƣợc hoạt động lao động chân tay vất vả để xây dựng các khoa học, trong đó có triết học, nghệ thuật. Ph. Ăngghen trong tác phẩm “Chống Đuy rinh” đã khẳng định “Không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp, không có chế độ nô lệ thì không có đế quốc La Mã mà không có cái cơ sở của nền văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã, thì không có Châu Âu hiện đại đƣợc” [9, 7]. Phải có những khả năng của chế độ chiếm hữu nô lệ mới tạo ra đƣợc sự phân công lao động quy mô lớn trong nông nghiệp và thủ công nghiệp, mới làm nên sự giàu có của đất nƣớc Hy Lạp cổ đại. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, nền kinh tế phát triển về mọi mặt dần dần dẫn tới sự tách rời thành thị với nông thôn, các quốc gia - tỉnh thành Hy Lạp đƣợc thành lập. Đó là nơi tập trung những cơ quan đầu não kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao,… do giai cấp chủ nô xây dựng nhằm bảo vệ và củng cố quyền sở hữu, quyền áp bức bóc lột của họ đối với nô lệ và dân tự do. Sự thành lập và phát triển của các thành thị góp phần làm cho văn hóa Hy Lạp tiến bộ, những nơi đó xuất hiện nền công nghiệp, thƣơng nghiệp và những hình thức đầu tiên của khoa học, triết học, nghệ thuật. Đặc điểm chính về phƣơng diện chính trị của chế độ Hy Lạp cổ đại là sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp giữa các thành bang. Đó là cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng gay gắt, ngày càng phức tạp giữa chủ nô và nô lệ, giữa những ngƣời giàu có và dân “tự do”. Trong bản thân giai cấp chủ nô cũng có mâu thuẫn, là mâu thuẫn giữa chủ nô quý tộc - tập trung ở thành bang Sparte nơi nông nghiệp phát triển với chủ nô dân chủ - tập trung ở thành bang Athènes hình 8 thành trên cơ sở của sự phát triển thƣơng nghiệp, thủ công nghiệp. Những mâu thuẫn này đã dẫn đến cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài trên 30 năm, làm cho đất nƣớc Hy Lạp suy yếu, lực lƣợng sản xuất bị tàn phá nghiêm trọng. Chiến tranh, nghèo đói đã châm ngòi cho các cuộc nổi dậy của nô lệ. Chớp lấy thời cơ, nhà nƣớc Macédoine ở phía bắc Hy Lạp dƣới sự chỉ huy của vua Philippe đã đem quân thôn tính toàn bộ Hy Lạp và đến thế kỷ thứ II Tr. CN, Hy Lạp một lần nữa rơi vào tay đế chế La Mã. Thƣơng nghiệp và thủ công nghiệp phát triển đã đƣa tới sự xuất hiện tầng lớp chủ nô dân chủ. Địa vị của những chủ nô dân chủ về kinh tế, chính trị ngày càng đƣợc nâng cao, song họ lại bị chủ nô quý tộc kìm hãm. Vì thế, tầng lớp chủ nô dân chủ đấu tranh quyết liệt với chủ nô quý tộc. Cuộc đấu tranh này đƣợc phản ánh rõ rệt trong triết học. Cũng từ sự phát triển của nền sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, thƣơng nghiệp và hàng hải của Hy Lạp cổ đại đã đặt ra những nhu cầu thực tiễn quyết định sự phát sinh và phát triển những tri thức về thiên văn học, khí tƣợng học, toán học và vật lý học. Khoa học thực nghiệm (quan sát) đã cho phép thu đƣợc những tri thức khoa học nhƣ: Phát minh ra lịch một năm gồm 12 tháng với 365 ngày của Thalès, những phát kiến về toán học của Thalès và Pythagore, hình học của Euclid, vật lý học của Acsimet,… đã tạo điều kiện rất lớn thúc đẩy sự hình thành triết học, hình thành những tƣ tƣởng lôgíc học. Những tri thức này đòi phải giải thích tự nhiên nhƣ là tổng thể. Chúng làm cho các quan niệm thần thoại truyền thống và các tôn giáo nguyên thủy vào khoảng thế kỷ VII - VI Tr. CN đã không còn đáp ứng với và lý giải đƣợc những vấn đề mới của thế giới quan. Những khám phá khoa học đầu tiên của con ngƣời cổ đại đã cho thấy sự giả dối của bức tranh vũ trụ quan và nhân sinh quan của các tôn giáo và thần thoại, đòi hỏi con ngƣời phải có cách lý giải mới về thế giới xung quanh và cuộc sống của mình. Trong hình thức sơ khai ban đầu những tri thức này xen kẽ với tri thức triết học, với quan điểm chính trị và chúng gắn quyện với nhau tạo thành một khối thống nhất chặt chẽ không thể chia cắt đƣợc. Lúc này, triết học và các khoa học khác chƣa có sự phân ngành cụ thể. Các nhà triết học đồng thời là các nhà toán học, thiên văn học, vật lý học, đạo đức học,… 9 Qua đó có thể thấy, triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời đã gắn chặt với nhu cầu của thực tiễn và không tách rời các khoa học. Sự giao lƣu tƣ tƣởng Đông - Tây đã tạo điều kiện cho triết học Hy Lạp phát triển, quan hệ chính trị, giao lƣu văn hóa, khoa học, nghệ thuật với phƣơng Đông là cơ sở cho sự nảy nở rực rỡ của tƣ tƣởng triết học và tính muôn màu muôn vẻ của nó trong thời kỳ cổ đại Hy Lạp. Do nhu cầu buôn, bán, trao đổi hàng hóa mà các chuyến vƣợt biển đến với các nƣớc phƣơng Đông đã trở nên thƣờng xuyên. Khi những con thuyền tung mình lƣớt sông thì tầm nhìn của những ngƣời Hy Lạp cổ đại cũng đƣợc mở rộng, những thành tựu văn hóa của Ai Cập, Babylon đã lôi cuốn con ngƣời Hy Lạp. Những tinh hoa về toán học, thiên văn học, địa lý, hệ thống đo lƣờng,… và cả những yếu tố huyền học cũng đƣợc ngƣời Hy Lạp đón nhận. Các nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp nhƣ Pythagore, Démocrite đã từng chu du sang Ai Cập, Babylon… tiếp thu những tri thức khoa học đã đƣợc tích lũy ở đây… Alan CBowen cho rằng “nền khoa học mới phát triển ở Lonia vào thế kỷ VI Tr. CN chịu ảnh hƣởng nặng nề của thiên văn học Babylon, hầu nhƣ việc tạo ra bảng chữ cái là dựa vào các tƣ liệu của ngƣời Phoenicia cũng nhƣ sự sáng tạo về điêu khắc và kiến trúc Hy Lạp dựa trên các mẫu vật của Ai Cập (Theo nghĩa rộng nhất, đây là tất cả những gì thuộc về thời kỳ Phƣơng Đông hóa văn hóa Hy Lạp)” [1, 17]. Những bƣớc phát triển của tƣ duy đã đƣa ngƣời Hy Lạp cổ đại sáng tạo ra chữ viết từ thế kỷ VIII Tr. CN với 24 chữ cái. Với những thành tựu trên, nền văn hóa Hy Lạp cổ đại đã trở thành một trong những nền văn hóa rực rỡ nhất, sớm nhất của nhân loại. Nó vẫn còn giá trị cho đến ngày nay. Quá trình lịch sử trên đây góp phần tạo nên sự hình thành và phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội Hy Lạp cổ đại, trong đó có triết học. Sự hình thành triết học cũng nhƣ tƣ tƣởng lôgíc học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tích lũy của truyền thống trong sáng tác dân gian, trong thần thoại, trong các hình thái sinh hoạt tôn 10 giáo, trong các mầm mống của tri thức khoa học và là kết quả của đời sống kinh tế - xã hội. Sự ngạc nhiên trƣớc thế giới rộng lớn và đầy bí hiểm đã thúc đẩy con ngƣời tìm hiểu thế giới ấy. Ở buổi đầu lịch sử, hạn chế của năng lực nhận thức đƣợc bù đắp bằng trí tƣởng tƣợng và các hiện tƣợng tự nhiên, thần thánh hóa chúng. Thần thoại là sự đối thoại đầu tiên, đầy tính hoang tƣởng của con ngƣời với tự nhiên. Ngƣời nguyên thủy bị vây bọc trong quyền lực của xúc cảm và trí tƣởng tƣợng; những quan niệm của họ về sự vật hãy còn mơ hồ, rời rạc, phi lôgíc. Khi những điều kiện lịch sử cụ thể, những cơ sở của một nền kinh tế - xã hội phát triển đến một trình độ nhất định đã làm thành tiền đề cho những tƣ tƣởng triết học, lôgíc học ở Hy Lạp cổ đại ra đời. Và sự xuất hiện của các nhà triết học đầu tiên đã đặt dấu chấm hết đối với sự phát triển của thần thoại. Những viễn cảnh bóng bẩy do tƣ duy của con ngƣời tạo ra đã bớt đi sự hấp dẫn trong khi những nhu cầu của đời sống thƣờng nhật trở nên bức bách đòi hỏi phải đƣợc giải thích bằng tri thức chân thực. Niềm tin chất phác, ngây thơ vào sự tồn tại của thần thánh đã đƣợc thay thế bằng những luận giải sâu sắc hơn của lý tính, của sự thông thái. Triết học ra đời nhƣ một phƣơng án giải quyết mâu thuẫn giữa bức tranh thần thoại về thế giới, đƣợc xây dựng trên tƣởng tƣợng, với nhận thức và tƣ duy mới, nhƣ sự phổ biến tƣ duy từ diện hẹp ra diện rộng, từ tản mạn đến hệ thống. Con đƣờng từ thần thoại đến triết học, theo Hegel, là con đƣờng đi từ tính hoang tƣởng đến lý tính tƣ duy, từ hình thức diễn đạt thông qua biểu tƣợng đến hình thức diễn đạt bằng khái niệm [69, 14]. Những tri thức triết học đã cố gắng đem đến lời giải đáp nghiêm túc, sâu sắc, hợp lý, có hệ thống về những gì diễn ra xung quanh, về vị trí của con ngƣời thế giới và thế giới của chính con ngƣời, do con ngƣời tạo ra cùng những giá trị, chuẩn mực, những định hƣớng cho mình. Đó là lí do vì sao các nhà triết học lại đƣợc gọi là những ngƣời yêu mến sự thông thái. Theo các tác giả cổ đại thì từ “nhà triết học” do Pythagore nêu ra trƣớc hết để chỉ những ngƣời dùng lý tính của mình để suy tƣ về lẽ sống tìm kiếm chân lý. 11 Sau đó Platon sử dụng thuật ngữ này để chỉ một lĩnh vực đặc biệt. Pythagore tự gọi mình là “ngƣời yêu mến sự thông thái” chứ không phải là nhà thông thái và chỉ có Chúa mới có sự thông thái toàn diện, còn con ngƣời chỉ hƣớng tới nó. Sau này, Héraclite và có thể cả các nhà triết học thuộc trƣờng phái Milee đều giữ thái độ rất thận trọng trong cuộc hành trình tìm kiếm chân lý, một mặt họ xem sự thông thái là nói điều chân lý, lời nói tự nhiên nhƣng mặt khác vẫn gán cho sự thống thái ý nghĩa thần linh, siêu nhiên, bởi lẽ thần linh cũng nhƣ con ngƣời, nhƣng thần linh hiểu cái mà con ngƣời thấy nhƣng không hiểu. Điều này giải thích vì sao thuật ngữ “triết học” hiểu theo nghĩa “yêu mến sự thông thái” dễ đƣợc chấp nhận. Nó không chỉ bày tỏ khát vọng hiểu biết, khám phá của con ngƣời đối với thế giới, sự “thế tục hóa” thông thái thần linh mà còn ngụ ý con đƣờng vô tận của nhận thức từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mặt khác, triết học Hy Lạp ra đời, phát triển trên cơ sở của sự đấu tranh quyết liệt giữa tri thức khoa học và tín ngƣỡng tôn giáo. Sự ra đời của triết học gắn liền với sự định hình tƣ tƣởng vô thần, hoặc chí ít ra các nhà triết học cổ Hy Lạp cũng cố gắng giải thích thánh thần (trời, thƣợng đế) là gì, vai trò vị trí của thần linh, tín ngƣỡng trong đời sống con ngƣời. Trên cơ sở đó họ có những đánh giá nhìn nhận, giúp cho con ngƣời hiểu vai trò, thân phận của mình, bớt đi sự sợ hãi đối với thần thánh. Tuy nhiên, cách nhìn nhận và đánh giá vai trò của con ngƣời trong hệ thống vũ trụ là khác nhau, các chức năng của thân thể và tinh thần của con ngƣời cũng khác nhau, do đó sự khái quát triết học (cách triết lý) của các nhà tƣ tƣởng cũng khác nhau. Họ chia thành hai trƣờng phái đấu tranh với nhau kịch liệt: Chủ nghĩa duy vật tự phát lấy các yếu tố vật chất làm nền tảng (Thalès, Dèmocrite,…), chủ nghĩa duy tâm lấy tƣ tƣởng, ý niệm (Platon,…) làm cơ sở nguồn gốc xây dựng nên thế giới… Sự đấu tranh giữa hai xu hƣớng trở nên quyết liệt: xu hƣớng duy vật của Dèmocrite và xu hƣớng duy tâm của Platon đã ngự trị trong sự phát triển triết học suốt hai ngàn năm qua. Triết học Hy Lạp không chỉ hình thành, ra đời ở một thời điểm, mà nó sinh thành trên những mảnh đất khác nhau của Đại Hy Lạp. Sự giao lƣu giữa các 12 “vùng”, những “nôi” triết học tạo nên sự đan xen nội tại của triết học Hy Lạp. Sự giao lƣu của các dòng họ khác nhau đã hoàn tất vẻ phức tạp đa dạng toàn diện của triết học Hy Lạp. Đối lập với triết học phƣơng Đông nặng về cảm tính, triết học Hy Lạp thiên về lý tính (duy lý) đã đặt nền móng cho phƣơng pháp tƣ duy khoa học biện chứng ngây thơ. Chính các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã xây đắp nền tảng cho thế giới quan duy vật (tự phát) và duy tâm (khách quan) trong cách nhìn nhận thế giới. Sự ra đời của triết học Hy Lạp gắn liền với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật tự phát, biện chứng ngây thơ. Aristotle - nhà lịch sử triết học đầu tiên trong lịch sử đã khẳng định rằng, các nhà triết học đầu tiên là các nhà “tự nhiên luận” và là những ngƣời duy vật. Chủ nghĩa duy vật của các nhà tƣ tƣởng cổ đại Hy Lạp đã hình thành và trƣởng thành trong mối liên hệ chặt chẽ với sự tích lũy tri thức khoa học, trong cuộc đấu tranh chống tôn giáo và chống các yếu tố tôn giáo của thần thoại. Mác viết: “Các nhà triết học không phải là những cây nấm mọc lên trên đất. Họ là sản phẩm của thời đại mình, dân tộc mình mà những tinh lực tinh tế nhất, quý giá nhất và khó nhìn thấy nhất đã đƣợc suy tƣ trong các khái niệm triết học” [9, 11]. Thật vậy, từ sự phân tích trên có thể thấy, bên cạnh sự kế thừa thuần túy những tƣ tƣởng ở bên ngoài (toán học, thiên văn học…) Hy Lạp cổ đại đã không ngừng tự mình vƣơn lên trên cơ sở những điều kiện do thiên nhiên và con ngƣời nơi đây tạo ra. Điều kiện quyết định sự hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp, của những tƣ tƣởng lôgíc học phôi thai chính là kết quả nội sinh tất yếu của cả một dân tộc, một thời đại. Có thể phân sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại thành ba thời kỳ sau đây: - Triết học thời kỳ sơ khai, hay thời kỳ hình thành các thị quốc đầu tiên (còn gọi là thời kỳ trƣớc Socrate). Đây là thời kỳ đầu của chế độ chiếm hữu nô lệ. Triết học thay thế thần thoại, mong muốn tìm kiếm những lời giải nghiêm túc, hợp lý cho những vấn đề của tồn tại và nhận thức. Phần lớn các triết gia tập trung trong các trƣờng phái Milet, trƣờng phái Pythagore, trƣờng phái Héraclite, 13 trƣờng phái Elée, đồng thời là các nhà khoa học hoặc có am hiểu nhất định về khoa học. Triết học tách khỏi ảnh hƣởng của thế giới quan thần thoại, tôn giáo nguyên thủy, chập chững những bƣớc đi đầu tiên trên con đƣờng chinh phục thế giới, tìm hiểu bản nguyên và bản tính thực sự của thế giới. Thế giới quan triết học còn ở trình độ sơ khai, chất phác, ấu trĩ nhƣng đã mang tính hệ thống và tính phân cực rõ ràng. Triết học tự nhiên chiếm ƣu thế (nhằm vƣợt qua thần thoại, thế hệ các triết gia đầu tiên cố gắng lý giải những nguyên nhân của thế giới từ chính những chất liệu có sẵn của thế giới), những vấn đề nhận thức luận, nguồn gốc của sự sống đƣợc đặt ra. Đây là thời kỳ hình thành trong dạng phôi thai những khuynh hƣớng và những phƣơng pháp tƣ duy cơ bản nhất. - Triết học thời kỳ cực thịnh (còn gọi là triết học thời kỳ Socrate), gắn với những bƣớc thăng trầm của nền dân chủ chủ nô. Thời kỳ này các triết gia đã quan tâm tới vấn đề con ngƣời - một vấn đề cực kỳ thiết thân và nhạy cảm mà ở thời kỳ trƣớc chƣa đƣợc đề cập tới. Mặc dù giữa các nhà triết học vẫn còn nhiều bất đồng về vấn đề này nhƣng nhìn chung họ đều khẳng định con ngƣời là tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa. Khi Socrate tuyên xƣng: “Con ngƣời hãy tự biết mình” thì ông đã tạo ra một bƣớc ngoặt trong sự phát triển của triết học. Ngƣời ta bảo ông đã đƣa triết học từ trên trời xuống bám rễ ở trần gian. Cùng với Protagore – ngƣời đã khẳng định: “con ngƣời là thƣớc đo của vạn vật”, Socrate đã tấu lên bài ca về con ngƣời không phải nhƣ loài thú man rợ, mà con ngƣời có giáo dục, văn minh, tức ngƣời Hy Lạp, là con ngƣời thẩm mỹ, là sinh linh tƣơng đồng với tác phẩm nghệ thuật, pho tƣợng,… và cũng là những con ngƣời đầy những nỗi lo toan vất vả, vật lộn với cuộc sống hàng ngày… trong khát vọng vƣơn lên để hiểu chính mình, rộng ra là hiểu những gì xung quanh con ngƣời và cao hơn là xác lập đƣợc chỗ đứng, thân phận của bản thân mình trong biển cả vũ trụ mênh mông. Nghĩa là triết học phải bắt nguồn từ con ngƣời, vì con ngƣời, lấy con ngƣời làm “thƣớc đo”, chuẩn mực của vạn vật, từ đó mới tìm hiểu đến những yếu tố khác. 14 Các triết gia tiêu biểu của thời kỳ này là Dèmocrite, Socrate, Platon, Aristotle, những cây đại thụ đã làm rạng danh nền triết học Hy Lạp cổ đại. - Thời kỳ Hy Lạp hóa. Thời cổ đại, Hy Lạp là một đất nƣớc điển hình cho sự phồn thịnh về mọi mặt: kinh tế, xã hội, văn hóa, song sự phồn thịnh đó cũng không khiến Hy Lạp trở thành cƣờng quốc bá chủ. Sau nhiều lần đi thôn tính những nƣớc láng giềng, mở rộng lãnh thổ bằng sức mạnh chính trị, quân sự của mình thì chiến tranh đã làm cho Hy Lạp cổ đại suy sụp về kinh tế, chính trị và quân sự. Lợi dụng tình hình đó vua Philippe của nƣớc Macédoine ở phía bắc Hy Lạp có quân đội hùng mạnh đã đem quân xâm chiếm. Nhƣng ngƣời hoàn thành sự nghiệp xây dựng đế chế lớn mạnh nhất (bao gồm cả Hy Lạp) thời cổ đại là Alexandre - con của vua Philippe. Đến thế kỷ II tr. CN, La Mã chinh phục Hy Lạp, nhƣng Hy Lạp lại chinh phục La Mã về văn hóa. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ Hy Lạp hóa. Có thể nói rằng, trong lịch sử có lẽ Hy Lạp cổ đại là đất nƣớc mở đầu cho hiện tƣợng là một đất nƣớc bị thôn tính về mặt lãnh thổ, khuất phục về mặt chính trị nhƣng lại đồng hóa đƣợc kẻ xâm lƣợc bằng những giá trị văn hóa của mình. Triết học của thời kỳ này không còn sôi nổi nhƣ thời kỳ trƣớc nữa. Lúc này, đứng trƣớc thời cuộc rối ren, các triết gia bàng quan, lảng tránh những vấn đề trung tâm của triết học mà hƣớng vào thế giới bên trong chìm đắm với những suy tƣ về định mệnh, ngập chìm trong đời sống tình cảm, những ham muốn,… Sự suy tàn của triết học cổ đại đã bắt đầu, cái chết đã đƣợc báo trƣớc bằng sự ra đời của Cơ Đốc giáo (Christainisme) ngay trên mảnh đất này, mà lúc đó ngƣời Hy lạp gọi bằng cái tên Khristos. Bƣớc vào thế kỷ thứ IX - VII Tr. CN nền sản xuất chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp cực kỳ phát triển. Đó cũng là thời kỳ mà Hy Lạp cổ đại đang cùng nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Nền sản xuất phát triển, quan hệ tiền - hàng đƣợc đẩy mạnh làm cho thƣơng mại và trao đổi hàng hóa đƣợc tăng cƣờng. Lúc này ngƣời Hy Lạp đã có thể đóng đƣợc những chiến thuyền lớn cho phép họ vƣợt nghìn trùng biển khơi, qua biển Địa Trung Hải tìm đến những miền đất mới. Nhờ đó lãnh thổ Hy Lạp và thuộc địa của nó ngày một mở rộng, 15 tạo điều kiện cho sự phát triển của kinh tế, xã hội, tƣ tƣởng, văn hóa trong nƣớc và giao lƣu với nƣớc ngoài. Sự phát triển của sản xuất đã dẫn đến các quan hệ và tổ chức xã hội cũ bị đảo lộn. Khi mà xã hội còn tồn tại dƣới hình thức nguyên thủy nhƣ bộ lạc, bộ tộc,… thì tổ chức xã hội còn mang tính cộng đồng cao, cuộc sống của mỗi cá nhân hầu nhƣ hoàn toàn “hòa tan” vào cuộc sống cộng đồng. Nhƣng giờ đây, khi sản xuất phát triển, diễn ra sự phân công lao động, của cải dƣ thừa thì trong xã hội nảy sinh các ham muốn chiếm hữu và sau đó là các chế độ tƣ hữu về của cải. Điều kiện đó buộc mỗi cá nhân phải ý thức và suy nghĩ hơn cho bản thân mình, cần có một lập trƣờng, lối sống riêng phù hợp với hoàn cảnh mới. Nhu cầu đó đòi hỏi sự ra đời của triết học, giúp con ngƣời không chỉ biết tuân theo nề nếp sẵn có, mà còn phê phán những giá trị chuẩn mực xã hội cũ, đồng thời xây dựng một nền tảng thế giới quan mới. Điều đó đã đƣợc Socrate lần đầu tiên nhận thấy khi coi triết học chính là sự tự ý thức của con ngƣời về chính bản thân mình. Quá trình phân công lao động phát triển cho phép trong xã hội xuất hiện tầng lớp những ngƣời chuyên sống bằng lao động trí óc càng tạo điều kiện nảy sinh các tƣ tƣởng triết học. Ngay từ khi ra đời, các tƣ tƣởng triết học, lôgíc học đã mang tính giai cấp sâu sắc. Là thế giới quan của giai cấp chủ nô, các tri thức triết học dần dần trở thành các tƣ tƣởng thống trị trong xã hội chiếm hữu nô lệ. Mác và Ăngghen nhận xét: “Trong mọi thời đại, những tƣ tƣởng của giai cấp thống trị là những tƣ tƣởng thống trị … giai cấp nào chi phối những tƣ liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tƣ liệu sản xuất tinh thần. Những tƣ tƣởng thống trị … chỉ là sự biểu hiện tinh thần của những quan hệ vật chất thống trị … đƣợc biểu hiện dƣới hình thức tƣ tƣởng” [21, 66-67]. Tuy nhiên, những tƣ tƣởng triết học ở thời cổ vẫn còn mang tính tự phát, chúng không đƣợc các triết gia cổ đại ý thức một cách tự giác. Dƣới con mắt của họ, triết học ra đời từ nhu cầu hiểu biết của con ngƣời. Aristotle phản ánh quan niệm đó: “Chính sự ngạc nhiên đã thức tỉnh mọi ngƣời triết lý. Lúc đầu họ ngạc nhiên bởi những điều trực tiếp làm cho họ băn khoăn, sau đó họ dần dần đặt ra 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất