Luận văn tốt nghiệp
GVHD: THS. Bùi Đức Tuân
LỜI MỞ ĐẦU.
Hàng năm ngành du lịch đã đem về cho mỗi quốc gia một số tiền khổng lồ.
Thực tế cho thấy khi Chính phủ chi ra một đồng để đầu tư vào du lịch sẽ thu về
hàng ngàn đồng lợi nhuận, bởi lẽ du lịch là ngành tổng hợp mang tính chất chính
trị, kinh tế, văn hoá xã hội. Đầu tư vào du lịch là đã mở ra sự phát triển mới, Nhà
nước quản lý về du lịch và chỉ đạo các chiến lược kinh doanh du lịch đi đôi với việc
hợp tác về du lịch. Du lịch là hiện tượng kinh tế xã hội thu hút hàng triệu người
trên thế giới. Bản chất kinh tế của nó là ở chỗ sản xuất và cung cấp hàng hoá phục
vụ thoả mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của du khách. Bên cạnh sự phát triển rất
nhanh của ngành công nghiệp không khói này thì chúng ta đã và đang phải đối mặt
với tình trạng ô nhiễm môi trường tại các khu du lịch, các tệ nạn xã hội liên quan
đến du lịch ngày càng gia tăng. Điều đó đã trở thành mối lo ngại lớn của các nhà
chức trách, của mọi người dân trên thế giới, thúc dục những người làm du lịch phải
tìm hướng đi mới cho mình đó là phát triển du lịch một cách bền vững.
Cùng với kinh tế cảng biển, du lịch đã đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế
của thành phố Hải Phòng và trong đó không thể không kể đến du lịch biển. Dọc
theo bờ biển Hải Phòng chúng ta thấy rất nhiều bãi cát đẹp là hạt nhân tiền đề hình
thành các khu du lịch biển. Ngoài khơi là một dẫy đảo như một chuỗi ngọc viền
quanh bờ biển. Trong lòng biển là thế giới san hô, bào ngư, và nhiều loại hải sản
khác vừa đáp ứng cho du lịch lặn biển vừa là những món ăn đặc sản phục vụ du
khách. Sự đa dạng của địa hình ven biển và hải đảo đã tạo ra những cảnh quan
thiên nhiên đặc sắc với những vũng, vịnh, đầm phá, hang động nổi tiếng. Dọc theo
dải ven biển cũng như các đảo ven bờ tập trung khu bảo tồn thiên nhiên, rừng quốc
gia Cát Bà có tính đa dạng sinh học cao, nhiều di tích văn hoá lịch sử và các lễ hội
đặc biệt có giá trị to lớn đối với phát triển nhiều loại hình du lịch như du lịch sinh
thái, du lịch văn hoá, du lịch nghỉ dưỡng.... Chính những điều kiện đó mà du lịch
Trần Hùng
1
Lớp: Kinh tế phát triển 46
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: THS. Bùi Đức Tuân
biển Hải Phòng trong thời gian vừa qua là địa chỉ quen thuộc của du khách trong
nước và quốc tế, đóng góp trên 70% vào tổng doanh thu du lịch của thành phố. Tuy
nhiên sự phát triển "nóng" về du lịch của vùng ven biển Hải Phòng cũng đang đứng
trước những thách thức không bền vững nếu không được kiểm soát với mục tiêu
bền vững.
Vì những lý do trên em đã chon đề tài: ''Phƣơng hƣớng và giải pháp phát
triển bền vững du lịch biển Hải Phòng" . Với hy vọng đánh giá thực trạng hoạt
động du lịch biển Hải Phòng để từ đó đưa ra một số phương hướng và giải pháp
khắc phục những tồn tại và đẩy mạnh phát triển du lịch biển Hải Phòng, đưa du lịch
biển thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Hải Phòng.
Luận văn gồm ba phần chính:
Phần 1: Cơ sở lý luận về phát triển du lịch bền vững.
Phần 2: Thực trạng phát triển du lịch biển Hải Phòng.
Phần 3: Định hướng và giải pháp phát triển bền vững du lịch biển Hải Phòng.
Để hoàn thành đề tài này em được sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo Th.s
Bùi Đức Tuân và các anh chị trong ban nghiên cứu và phát triển các ngành dịch
vụ- Viện Chiến lược phát triển. Tuy nhiên do trình độ và thời gian có hạn đề tài
không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong các thầy cô và quý cơ quan giúp đỡ
góp ý
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, ngày 30 tháng 5 năm 2008
Sinh viên
Trần Hùng
Trần Hùng
2
Lớp: Kinh tế phát triển 46
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: THS. Bùi Đức Tuân
CHƢƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG.
1.1. Những vấn đề lý luận về phát triển du lịch bền vững.
1.1.1. Phát triển bền vững.
Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự phát triển
về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn đảm bảo sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa.
Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới nhiều quốc gia trên thế giới, mỗi
quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, chính trị, văn hoá, địa lý.... riêng để hoạch
định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó.
1.1.1.1. Khái niệm về phát triển bền vững.
Từ những thập niên 70, 80 của thế kỷ trước, khi tăng trưởng kinh tế của
nhiều nước trên thế giới đã đạt được tốc độ khá cao, người ta đã bắt đầu có những
lo nghĩ đến ảnh hưởng tiêu cực của sự tăng trưởng nhanh đó đến tương lai con
người và vấn đề phát triển bền vững được đặt ra. Theo thời gian, quan niệm về phát
triển bền vững ngày càng được hoàn thiện. Năm 1987, vấn đề phát triển bền vững
được Ngân hàng thế giới (WB) đề cập lần đầu tiên, theo đó phát triển bền vững là
"...Sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm nguy hại đến khả năng
đáp ứng các nhu cầu của thế hệ tương lai"*. Quan niệm đầu tiên về phát triển bền
vững của WB chủ yếu nhấn mạnh đến khía cạnh sử dụng có hiệu quả nguồn tài
nguyên thiên nhiên và bảo đảm môi trường sống của con người trong quá trình phát
triển của con người chưa thấy được vấn đề xã hội được đề cập đến. Ngày nay, quan
điểm về phát triển bền vững được đề cập một cách đầy đủ hơn, bên cạnh yếu tố môi
trường và tài nguyên thiên nhiên thì yếu tố môi trường xã hội được đặt ra với một ý
nghĩa cũng vô cùng quan trọng trong vấn đề phát triển bền vững. Hội nghị thượng
đỉnh thế giới về phát triển bền vững tổ chức Johannesbug (Cộng hoà Nam Phi) năm
2002 đã xác định : Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt
* Nguồn: Giáo trình kinh tế phát triển. [23]
Trần Hùng
3
Lớp: Kinh tế phát triển 46
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: THS. Bùi Đức Tuân
chẽ, hợp lý, hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm : tăng trưởng về mặt kinh tế,
cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường sống**. Cùng với đó tiêu chí để
đánh giá sự phát triển bền vững là sự bền vững về mặt kinh tế, bền vững về mặt xã
hội và bền vững về mặt môi trường. Mối quan hệ đó được thể hiên qua hình vẽ sau:
Hình 1.1 : Mối quan hệ trong phát triển bền vững.
Môi
trường
Phát triển
bền vững
Kinh tế
Xã hội
Nguồn : Giáo trình kinh tế phát triển.
Bền vững về mặt kinh tế là phát triển kinh tế nhanh và ổn định trong một thời
gian dài. Tăng trưởng nhanh chưa chắc đã có được phát triển bền vững về mặt kinh
tế. Vì thế chúng ta phải luôn duy trì một tốc độ tăng trưởng ổn định hợp lý và lâu
dài không nên chỉ chú trọng và nhấn mạnh vào tăng trưởng kinh tế nhanh.
Bền vững về mặt môi trường : Môi trường sống có ảnh hưởng trực tiếp đến
** Nguồn: Giáo trình kinh tế phát triển. [23]
Trần Hùng
4
Lớp: Kinh tế phát triển 46
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: THS. Bùi Đức Tuân
sự sống và sự phát triển của mỗi cá thể và của cộng đồng, nó bao gồm toàn bộ các
điều kiện vật lý, hoá học, sinh học....và xã hội bao quanh. Bền vững về mặt môi
trường là ở đó con người có cuộc sống chất lượng cao dựa trên nền tảng sinh thái
bền vững.
Bền vững về xã hội : Tính bền vững đó phải mang tính nhân văn hay nói một
cách khác là phải đem lại phúc lợi và chia sẻ công bằng cho mọi công bằng cho
mọi cá nhân trong xã hội. Phát triển phải được gắn liền với một xã hội ổn định, hoà
bình, mở rộng và nâng cao năng lực lựa chọn cho mọi người cùng với đó là việc
nâng cao sự tham gia của cộng đồng vào quá trình phát triển.
Ngoài ra phát triển bền vững còn được xem là sự phát triển "bình đẳng và
cân đối". Bình đẳng được hiểu là bình đẳng giữa các nhóm người trong cùng một
xã hội. Còn tính cân đối được thể hiện ở việc cân đối giữa các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội - môi trường.
1.1.1.2. Các thƣớc đo về phát triển bền vững.
Cũng như tăng trưởn kinh tế, phát triển bền vững có thước đo riêng và rất đặc
trưng. Tuy nhiên hệ thống thước đo này rất phức tạp và nhiều thước đo rất khó xác
định vì chúng phải đánh giá trên cả 3 phương diện kinh tế- xã hội- môi trường.
Về mặt kinh tế, tính bền vững thể hiện ở các chỉ số như: tổng sản phẩm trong
nước (GDP), tổng sản phẩm quốc gia (GNP), cơ cấu GDP và GNP, GDP/người,
GNP/người.... Theo tiêu chuẩn quốc tế thì chỉ tiêu GDP/người phải ở mức 5% mới
được coi là phát triển bền vững và cơ cấu GDP mạnh là cơ cấu có tỷ lệ đóng góp
của công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu phải cao hơn tỷ lệ đóng góp của nông
nghiệp trong cơ cấu.
Về mặt xã hội, có các chỉ tiêu đánh giá như: chỉ số phát triển con người
(HDI), hệ số bất bình đẳng thu nhập, giáo dục, y tế, văn hoá...HDI là chỉ tiêu đánh
giá tổng hợp sự phát triển của con người vì vậy muốn phát triển bền vững thì yêu
cầu đặt ra đối với chỉ tiêu này là phải tăng trưởng và đạt đến mức trung bình. Chỉ số
Trần Hùng
5
Lớp: Kinh tế phát triển 46
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: THS. Bùi Đức Tuân
bình đẳng trong phân phối thu nhập cũng là một trong số các chỉ tiêu quan trọng
trong phát triển bền vững vì bất bình đẳng trong phân phối thu nhập cũng là nguyên
nhân gây ra những xung đột, bất ổn trong xã hội.
Về mặt môi trường các chỉ tiêu đánh giá như : mức độ ô nhiêm (không khí,
nguồn nước...), mức độ che phủ rừng.... là những chỉ tiêu quan trọng trong đánh giá
tính bền vững của môi trường. Môi trường bền vững là môi trương luôn thay đổi
nhưng vẫn làm tròn ba chức năng : là không gian sinh tồn ; là nơi cung cấp nguồn
tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản suất của con người ; là nơi
chứa đựng, xử lý chất thải.
Ngoài ra còn phải quan tâm đến vấn đề bình đẳng giới; các chỉ tiêu về giáo
dục: tỷ lệ biết chữ, tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi, tỷ lệ học trung học, đại học,... các
chỉ tiêu về hoạt động văn hoá khác.
1.1.2. Phát triển du lịch bền vững.
1.1.2.1. Các quan niệm về du lịch và du khách
a) Các quan niệm về du lịch.
Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như một sở thích,
một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay du lịch đã trở thành một
nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hoá- xã hội của các nước. Về mặt
kinh tế, du lịch đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng của nhiều
nước công nghiệp phát triển. Du lịch được coi là ngành công nghiệp- công nghiệp
du lịch- và hiện nay ngành "công nghiệp" này chỉ đứng sau công nghiệp dầu khí và
ô tô. Đối với các nước đang phát triển, du lịch được coi là cứu cánh để vực dậy nền
kinh tế ốm yếu của quốc gia.
Để có nhận thức khoa học về du lịch, nhận thức đó phải trải qua quá trình từ
thấp tới cao, từ việc chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
- Quan niệm trước đây về du lịch.
Trần Hùng
6
Lớp: Kinh tế phát triển 46
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: THS. Bùi Đức Tuân
Trước đây người ta mới chỉ quan niệm du lịch là một hoạt độn mang tính
chất văn hoá, nhằm thoả mãn nhu cầu giải trí và những nhu cầu hiểu biết của con
người, du lịch không được coi là hoạt động kinh tế, không mang tính chất kinh
doanh và ít được đầu tư để phát triển. Trong nhiều thế kỷ trước đây, du khách hầu
hết là những người hành hương, thương nhân, sinh viên và cả nghệ sĩ... Đến đầu thế
kỷ 20, du lịch vẫn còn dành riêng cho những người khá giả, họ đi du lịch là để giải
trí. Còn du lịch ngày nay gắn liền với cuộc sống hàng ngày của hàng triệu người, và
một hoạt động du lịch như vậy được thực sự bắt đầu từ sau chiến tranh thế giới lần
thứ hai. Mặc dù vậy, khi đề cập đến du lịch, không ít người thường lầm tưởng rằng
: du lịch chỉ là những kỳ nghỉ hè tầm thường, với các sân bay, bãi biển đầy người,
hoặc hình ảnh những xe du lịch chở du khách tham quan các phố... Do đó, muốn
cho du lịch phát triển mạnh mẽ và đáp ứng một cách đầy đủ nhu cầu ngày càng
tăng của đời sống con người, trước hết cần phải có quan niệm đúng đắn về du lịch.
- Quan niệm khoa học về du lịch.
Năm 1963, với mục đích quốc tế hoá, tại hội nghị Liên Hợp Quốc về du lịch
họp tai Roma, các chuyên gia đã đưa ra định nghĩa như sau về du lịch : Du lịch là
tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các
cuộc hành trình và lưu trú của các cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường
xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hoà bình. Nơi họ đến lưu trú không
phải là nơi làm việc của họ*. Định nghĩa này là cơ sở cho định nghĩa du khách đã
được Liên minh quốc tế các tổ chức du lịch chính thức, tiền thân của Tổ chức du
lịch thế giới thông qua.
Trong định nghĩa này, các tác giả đã gộp hai phạm trù hoạt động du khách và
hoạt động kinh tế thành một hệ thống nhân- quả.
Khác với các quan điểm trên, các học giả biên soạn Bách khoa toàn thư Việt
Nam đã tách hai nội dung cơ bản của du lịch thành hai phần riêng biệt. Theo các
* Nguồn: Giáo trình quản trị kinh doanh lữ hành.
Trần Hùng
7
Lớp: Kinh tế phát triển 46
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: THS. Bùi Đức Tuân
chuyên gia này, nghĩa thứ nhất của từ này là một dạng nghỉ dưỡng sức tham gia
tích cực của con người ngoài nơi cư trú với mục đích : nghỉ ngơi, giải trí, xem danh
lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hoá, nghệ thuật, v.v... Theo nghĩa thứ
hai, du lịch được coi là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều
mặt : nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hoá dân tộc, từ
đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước; đối với người nước ngoài là tình hữu
nghị với dân tộc mình; về mặt kinh tế du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu
quả rất lớn; có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tại chỗ.
Chúng ta biết rằng, trong thực tế cuộc sống, do sự phát triển của xã hội và
nhận thức, các từ ngữ thường có khá nhiều nghĩa, nhiều khi trái ngược nhau. Như
vậy, cố gắng giải thích đơn vị từ đa nghĩa bằng cách gộp các nội dung khác nhau
vào một định nghĩa sẽ làm cho khái niệm trở nên khó hiểu và không rõ ràng. Dựa
theo cách tiếp cận trên, nên tách thuật ngữ du lịch thành hai phần để định nghĩa nó.
Du lịch có thể được hiểu là :
+ Sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá
nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao nhận
thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo việc tiêu thụ một số giá trị tự
nhiên, kinh tế, văn hoá và dịch vụ do các cơ sở chuyên nghiệp cung ứng.
+ Một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu nảy sinh
trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của
cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao
nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh.
Việc phân định rõ ràng hai nội dung cơ bản của khái niệm có ý nghĩa góp
phần thúc đẩy sự phát triển của du lịch. Du lịch không chỉ là một ngành kinh tế mà
nó còn là một hiện tượng xã hội. Chính vì vậy toàn xã hội phải có trách nhiệm đóng
góp, hỗ trợ, đầu tư cho du lịch phát triển như đối với giáo dục, thể thao hoặc một
lĩnh vực văn hoá khác.
Trần Hùng
8
Lớp: Kinh tế phát triển 46
Luận văn tốt nghiệp
b) Quan niệm về du khách.
GVHD: THS. Bùi Đức Tuân
Du khách là người từ nơi khác đến vào thời gian rảnh rỗi của họ với mục
đích thoả mãn tại nơi đến nhu cầu nâng cao hiểu biết, phục vụ sức khoẻ, xây dựng
hay tăng cường tình cảm của con người (với nhau hoặc với thiên nhiên), thư giãn,
giải trí hoặc thể hiện mình kèm theo việc tiêu thụ những giá trị tinh thần, vật chất
và các dịch vụ do các cơ sở của ngành du lịch cung ứng. Trong giai đoạn hiện nay
của Việt Nam, có thể cụ thể hoá tiêu chí cơ bản này bằng việc nghỉ qua đêm tại một
cơ sở lưu trú của ngành du lịch. Nói một cách khác thì du khách là người từ nơi
khác đến với / hoặc kèm theo mục đích thẩm nhận tại chỗ những giá trị vật chất,
tinh thần hữu hình hoặc vô hình của thiên nhiên và / hoặc của cộng đồng xã hội. Về
phương diện kinh tế, du khách là người sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp du lịch
như lữ hành, lưu trú, ăn uống.... Cần phải phân biệt hai loại du khách cơ bản.
Những người mà chuyến đi của họ có mục đích chính là nâng cao hiểu biết tại nơi
đến về các điều kiện, tài nguyên tự nhiên, kinh tế, văn hoá được gọi là du khách
thuần tuý. Ngược lại có những người thực hiện chuyến đi vì một mục đích khác
như công tác, tìm kiếm cơ hội làm ăn, hội họp... Trên đường đi hay tại nơi đến,
những người này sắp xếp được thời gian cho việc thăm quan, nghỉ ngơi. Khi đó họ
mới được coi là du khách. Để nói lên sự kết hợp đó, chuyến đi của họ được gọi là
du lịch công vụ, du lịch thể thao du lịch tôn giáo...
Do du lịch không chỉ là một hiện tượng xã hội mà còn là một lĩnh vực kinh tế
với đối tượng phục vụ là người đi du lịch nên việc thống nhấn khái niệm du khách
là một nhu cầu tất yếu. Đối với doanh nghiệp du lịch, thông qua số lượng du khách
có thể nắm được doanh thu. Sự chuẩn hoá khái niệm du khách sẽ giúp các nhà
thống kê thống nhất được tiêu chí phân định giữa khách tham quan và du khách,
giúp cho các cơ quan quản lý xác định được nghĩa vụ, đối với nhà nước của các
doanh nghiệp du lịch. Việc thống nhất và chuẩn hoá định nghĩa du khách còn có ý
Trần Hùng
9
Lớp: Kinh tế phát triển 46
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: THS. Bùi Đức Tuân
nghĩa làm cho du lịch Việt Nam nhanh chóng hội nhập vào hoạt động thống kê du
lịch khu vực và quốc tế.
1.1.2.2. Quan niệm về phát triển du lịch bền vững.
Du lịch bền vững là khái niệm mới xuất hiện trên cơ sở cải tiến , nâng cấp và
hoàn thiện khái niệm du lịch của những năm 90 và thực sự được mọi người quan
tâm trong những năm gần đây. Hội đồng du lịch và lữ hành quốc tế (WTTC) cho
rằng : Du lịch bền vững là việc đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng
du lịch mà vẫn đảm bảo những khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du lịch
tương lai. Khái niệm này chỉ ra rằng mội hoạt động du lịch ở hiện tại không được
xâm phạm đến lợi ích của thế hệ tương lai và phải luôn tôn trọng đảm bảo duy trì
hoạt động ấy một cách liên tục và lâu dài.
Theo định nghĩa mới của tổ chức Du lịch thế giới (WTO) đưa ra tại hội nghị
về môi trười và phát triển của Liên hợp quốc tại Rio de Janerio năm 1992: "Du lịch
bền vững là việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện
tại của khách du lịch và người dân bản địa trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn
và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc phát triển hoạt động du lịch trong tương
lai. Du lịch bền vững sẽ có kế hoạch quản lý các nguồn tài nguyên nhằm thoả mãn
các nhu cầu về kinh tế, xã hội, thẩm mỹ của con người trong khi đó vẫn duy trì
được sự toàn vẹn về văn hoá, đa dạng về sinh học, sự phát triển của các hệ sinh thái
và các hệ thống hỗ trợ cho cuộc sống của con người"*. Trong định nghĩa mới này
thì du lịch đã được hiểu một cách đầy đủ hơn nó được xem xét trên cả ba lĩnh vực
kinh tế- xã hội- môi trường.
Và mới đây hội nghị Bộ trưởng du lịch các nước Đông Á - Thái Bình Dương
tổ chức tại Việt Nam đã đưa ra quan điểm về du lịch bền vững đó là: " ..các hình
thức du lịch đáp ứng nhu cầu hiện tại của du khách, ngành du lịch và cộng đồng địa
phương nhưng không ảnh hưởng tới khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ mai sau,
* Nguồn: Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 3/2001
Trần Hùng
10
Lớp: Kinh tế phát triển 46
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: THS. Bùi Đức Tuân
du lịch khả thi về kinh tế nhưng không phá huỷ môi trường mà tương lai của du
lịch phụ thuộc vào đó, đặc biệt là môi trường tự nhiên và kết cấu xã hội của cộng
đồng địa phương.
Tóm lại: phát triển du lịch bền vững là một vấn đề không thể thiếu được
trong quá trình đi lên của đất nước nói chung và của ngành du lịch nói riêng. Tuy
nhiên bảo vệ và cải thiện môi trường phải được coi là yếu tố không thể tách rời của
quá trình phát triển.
1.1.2.3. Những nguyên tắc phát triển du lịch bền vững.
Muốn đảm bảo phát triển du lịch bền vững, thì nhất thiết chúng ta phải tuân
thủ chặt chẽ các nguyên tắc của phát triển bền vững, bao gồm 10 nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Khai thác và sử dụng nguồn lực (tài nguyên) một cách bền
vững, bao gồm cả tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn. Đó được coi là
nền tảng cơ bản nhất để duy trì phát triển du lịch lâu dài.
Nguyên tắc 2: Giảm thiểu tiêu thụ quá mức tài nguyên và giảm thiểu chất
thải. Thực hiện nguyên tắc này nhằm giảm chi phí khôi phục tài nguyên và giảm
chi phí cho việc xử lý ô nhiễm môi trường và nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch.
Nguyên tắc 3: Phát triển du lịch phải đặt trong quy hoạch phát triển tổng thể
kinh tế- xã hội.
Nguyên tắc 4: Duy trì tính đa dạng tự nhiên, đa dạng xã hội và đa dạng văn
hoá. Việc duy trì tính đa dạng sẽ tạo cho sức bật cho ngành du lịch giúp du lịch
phát triển một cách bền vững.
Nguyên tắc 5: Phát triển du lịch phải hỗ trợ kinh tế địa phương phát triển. Du
lịch được coi là một ngành tổng hợp vì vậy sự phát triển của du lịch có liên quan
mật thiết với các ngành kinh tế khác trong đó có cả kinh tế địa phương vì vậy muốn
phát triển bền vững du lịch thì du lịch phải có vai trò hỗ trợ, dẫn dắt kinh tế địa
phương phát triển.
Trần Hùng
11
Lớp: Kinh tế phát triển 46
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: THS. Bùi Đức Tuân
Nguyên tắc 6: Lôi kéo sự tham gia của cộng đồng địa phương. Sự tham gia
của cộng đồng địa phương không chỉ đem lợi nhuận cho cộng đồng mà còn làm
tăng tính trách nhiệm của cộng đồng trong việc phát triển du lịch và bảo vệ môi
trường.
Nguyên tắc 7: Lấy ý kiến quần chúng và các đối tượng liên quan. Điều đó
giúp thống nhất trong quá trình phát triển du lịch giảm thiểu những mâu thuẫn của
mọi nguời, đi đến tính thống nhất cao về quan điểm phát triển giúp phát triển du
lịch được lâu dài.
Nguyên tắc 8: Chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực. Như chúng ta đã
biết nguồn nhân lực phục vụ du lịch có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nguồn nhân
lực có chất lượng sẽ giúp cho du lịch phát triển đa dạng và bền vững hơn.
Nguyên tắc 9: tiếp thị du lịch một cách có trách nhiệm (marketing du lịch).
Đó là việc cung cấp thông tin một cách đầy đủ cho du khách, quảng bá du lịch một
cách có trách nhiệm qua đó giúp du khách thoả mãn tối đa nhu cầu của mình.
Nguyên tắc 10: Coi trọng công tác nghiên cứu. Triển khai nghiên cứu, nhằm
mang lại lợi ích cho khu du lịch, đáp ứng tối đa nhu cầu của du khách, mang lại lợi
ích cho doanh nghiệp du lịch.
Tóm lại, muốn du lịch phát triển bền vững thì nhất thiết phải tôn trọng các
nguyên tắc cơ bản trên để không tổn hại đến môi trường tự nhiên, môi trường kinh
tế, và môi trường xã hội. Du lịch bền vững sẽ tác động tích cực đến đời sống xã hội
và kinh tế. Du lịch thực sự đóng vai trò quan trọng và là ngành mũi nhon chỉ khi nó
được phát triển một cách bền vững. Mặt khác cần triển khai các nguyên tắc trên
trong toàn bộ hệ thống của nền kinh tế xã hội thì khi đó mới đem lại hiệu quả cao,
hiệu quả tốt nhất.
Trần Hùng
12
Lớp: Kinh tế phát triển 46
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: THS. Bùi Đức Tuân
1.1.2.4. Các yếu tố tác động đến phát triển du lịch bền vững.
a) Nguồn tài nguyên du lịch.
Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách
mạng, giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của con người có thể được sử
dụng nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch; là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du
lịch, khu du lịch nhằm tạo lập ra sự hấp dẫn du khách.
Tài nguyên du lịch bao gồm hai nhóm: Tài nguyên du lịch nhân văn và tài
nguyên du lịch thiên nhiên.
Tài nguyên du lịch thiên nhiên như: đất, nước, khí hậu, sinh vật, khoáng
sản,...tạo thành cảnh quan, các dạng địa hình, đóng vai trò quan trọng trong quá
trình thu hút du khách, giúp du lịch phát triển.
Tài nguyên nhân văn gồm: hệ thống các di tích lịch sử, di tích văn hoá,
phong tục tập quán, lễ hội... là yếu tố cơ bản để phát triển du lịch.
b) Cơ sở vật chất kỹ thuật và thiết bị hạ tầng.
Cơ sở vật chất kỹ thuật, thiết bị hạ tầng là vấn đề không thể thiếu được, là
điều kiện quan trọng để phát triển du lịch và nó có ảnh hưởng lớn đến việc thu hút
khách du lịch đến với địa điểm du lịch nó bao gồm:
Mạng lưới giao thông vận tải: là nhân tố quyết định đến việc phát triển du
lịch cũng như khai thác những tiềm năng du lịch của địa phương. Mạng lưới giao
thông thuận lợi mới thu hút được du khách đến với địa điểm du lịch.
Mạng lưới thông tin liên lạc và internet: Giúp trao đổi thông tin, tìm kiếm dễ
dàng các điểm du lịch mà mình thích từ đó lên kế hoạch cho chuyến đi giúp chuyến
đi được thuận lợi. Mặt khác nhờ có mạng lưới thông tin và internet sẽ giúp liên kết
trong các doanh nghiệp du lịch với nhau, trao đổi kinh nghiệm và cùng nhau phát
triển.
Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch: Bao gồm trang thiết bị, phương tiện,
cơ sở cần thiết để đón tiếp khách du lịch, nơi lưu trú cho khách du lịch, khu vui
Trần Hùng
13
Lớp: Kinh tế phát triển 46
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: THS. Bùi Đức Tuân
chơi giải trí..là yếu tố quan trọng để thoả mãn nhu cầu nghỉ ngơi cũng như nhu cầu
giải trí của du khách từ đó thu hút được nhiều khách du lịch hơn.
c) Đào tạo lao động chuyên ngành du lịch (yếu tố con người).
Là yếu tố quan trọng trong sự phát triển của du lịch. Chất lượng công tác
kinh doanh chịu ảnh hưởng rất nhiều từ việc sử dụng lao động có chất lượng hay
không bởi vì lao động làm việc trong du lịch không những thực hiện công tác
chuyên môn về du lịch của mình hộ còn thực hiện nhiêm vụ quan trọng là trao đổi
văn hoá, giao tiếp với du khách tạo cho du khách có cảm giác hứng khởi trong lúc
du lịch.
d) Yếu tố tác động đến cầu về dịch vụ du lịch.
Các yếu tố tác động đến cầu về dịch vụ du lịch bao gồm mức thu nhập, trình
độ văn hoá, thời gian rỗi.
Thứ nhất, trình độ văn hoá: khi nhận thức của con người càng cao thì việc họ
thích thú với khám phá thế giới, thiên nhiên, vui chơi, giải trí và nghỉ ngơi ngày
càng tăng về nhu cầu, động cơ đi du lịch tăng lên. Theo một số cuộc điều tra cho
thấy: nếu người chủ gia đình có trình độ văn hoá ở mức trung học thì tỷ lệ đi du
lịch là 65%, trình độ cao đẳng tỷ lệ này là 75% , trình độ đai học thì tỉ lệ này lên tới
85%.
Thứ hai, Mức thu nhập (Hay điều kiện sống): Đây là nhân tố quan trọng để
phát triển du lịch. Khi thu nhập của người dân tăng lên thì ngoài việc chi tiêu cho
cơm ăn áo mặc thì họ sẵn sàng chi tiêu cho các dịch vụ trong đó có cả việc đi du
lịch.
Cuối cùng là thời gian rỗi: Phần lớn mọi người đi du lịch khi họ rảnh rỗi
(ngày nghỉ lễ, nghỉ phép, cuối tuần...). Vì vậy nhân tố này cũng rất quan trọng để
phát triển du lịch.
Trần Hùng
14
Lớp: Kinh tế phát triển 46
Luận văn tốt nghiệp
e) Đường lối chính sách phát triển du lịch.
GVHD: THS. Bùi Đức Tuân
Là nhân tố ảnh hưởng lớn đến việc phát triển du lịch, với một đường lối
chính sách nhất định có thể kìm hãm hay thúc đẩy du lịch phát triển. Đường lối
phát triển du lịch nằm trong đường lối phát triển chung , đường lối phát triển kinh
tế - xã hội vì vậy phát triển du lịch cũng là đang thực hiện sự phát triển chung của
xã hội.
f) Tham gia của cộng đồng.
Sự tham gia của cộng đồng dân cư vào các hoạt động du lịch làm cho du lịch
phát triển bền vững hơn. Sự tham gia của cộng đồng dân cư không những tạo thu
nhập cho cộng đồng dân cư mà còn tăng tính trách nhiệm trong việc phát triển du
lịch. Việc tham gia này là hết sức cần thiết và không thể thiếu được.
Trên đây chỉ là một số yếu tố chủ yếu để phát triển du lịch ở mỗi địa phương.
Tuỳ thuộc vào mỗi địa phương mà có những yếu tố khác đặc trưng riêng. Tuy
nhiên các yếu tố này không tách rời nhau mà kết hợp lại với nhau thành một khối
thống nhất tạo nên sức mạnh cho việc phát triển du lịch thành công.
1.1.2.5. Dấu hiệu nhận biết du lịch bền vững du lịch không bền vững.
Thực tế cho thấy, du lịch tình dụ hoăc du lịch 3-S ( sea, sun, sand: biển, nắng, và
cát) ở hầu các nước cho thấy không bền vững. Tuy vậy phần lớn các loại hình du
lịch đều có thể phát triển với quy mô lớn, do đó đã trở nên không bền vững (ví du:
số lượng đi du lịch câu cá, đi săn bắt quá đông ở một khu du lịch). Đa số các mô
hình du lịch có thể làm cho bền vững hơn thông qua những thay đổi về định tính
hoặc định lượng.
Trần Hùng
15
Lớp: Kinh tế phát triển 46
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: THS. Bùi Đức Tuân
Bảng1.2: Loại hình du lịch phân loại theo khả năng tƣơng thích với
khái niệm du lịch bền vững.
Không tương thích
Tương thích cao
* Du lịch bờ biển có thị trường lớn
* Du lịch sinh thái
* Kỳ nghỉ có tác động tiêu cực với môi * Du lịch văn hóa, du lịch lịch sử thu hút
trường tự nhiên
khách ham tìm hiểu của 1 khu vực
* Du lịch tình dục
* Điểm du lịch đô thị có sự dụng những
khu vực trống
* Du lịch săn bắn và câu cá ở nơi quản * Du lịch nông thôn quy mô nhỏ
lý yếu
* Du lịch ở những nơi có môi trường * Kỳ nghỉ bảo tồn, trong đó du khách
nhạy cảm như rừng nhiệt đới, nam cực, thực hiện công tác bảo tồn trong kỳ nghỉ
bắc cực...
của mình
Nguồn: Du lịch bền vững.
Muốn củng cố khái niệm du lịch bền vững, nhiều nhà nghiên cứu đã nghiên
cứu tác động của du lịch và so sánh các yếu tố được coi là bền vững với các yếu tố
được coi là không bền vững có một số cuộc nghiên cứu đã chỉ ra tác động của du
lịch trên cả ba lĩnh vực kinh tế, môi trường, xã hội đã đưa ra so sánh các yếu tố
được coi là không bền vững và các yếu tố được coi là bền vững trong phát triển du
lịch.
Bảng 1.2: Du lịch bền vững và du lịch không bền vững.
Du lịch kém bền vững hơn
Du lịch bền vững hơn
Khái niệm chung:
Phát triển nhanh
Phát trỉên chậm
Phát triển không kiểm soát
Phát triển có kiểm soát
Trần Hùng
16
Lớp: Kinh tế phát triển 46
Luận văn tốt nghiệp
Quy mô không phù hợp
GVHD: THS. Bùi Đức Tuân
Quy mô phù hợp
Mục tiêu ngắn hạn
Mục tiêu dài hạn
Phương pháp tiếp cận theo số lượng
Phương pháp tiếp cận theo chất lượng
Tìm kiếm sự tối đa
Tìm kiếm sự cân bằng
Kiểm soát từ xa
Địa phương kiểm soát
Chiến lược phát triển:
Không lập kế hoạch, triển khai tùy tiện
Quy hoạch trước, triển khai sau
Kế hoạch theo dự án
Kế hoạch theo quan điểm
Phương pháp tiếp cận theo lĩnh vực
Phương pháp tiếp cận chính luận
Tập trung vào các trọng điểm
Quan tâm tới cả vùng
Áp lực và lới ích tập trung
Phân tán áp lực và lợi ích
Thời vụ và mùa cao điểm
Quanh năm và cần bằng
Các nhà thầu bên ngoài
Các nhà thầu địa phương
Nhân công bên ngoài
Nhân công địa phương
Kiến trúc theo thị hiếu của khách du lịch Kiến trúc bản địa
Xúc tiến Marketing tràn lan
Xúc tiến Marketing có tập trung theo đối
tượng.
Nguồn lực:
Sự dụng tài nguyên nước, năng lượng Sử dụng vừa phải tài nguyên nước, năng
lãng phí
lượng
Không tái sịnh
Tăng cường tài sinh
Không chú ý tới lãng phí sản xuất
Giảm thiểu lãng phí
Thực phẩm nhập khẩu
Thực phẩm sản xuất tại địa phương
Tiền bất hợp pháp, không khai báo rõ Tiền hợp pháp
ràng
Nguồn nhân lực chất lượng kém
Trần Hùng
Nguồn nhân lực có chất lượng
17
Lớp: Kinh tế phát triển 46
Luận văn tốt nghiệp
Khách du lịch:
GVHD: THS. Bùi Đức Tuân
Số lượng nhiều
Số lượng ít
Không có nhận thức cụ thể
Có thông tin cần thiết bất kỳ lúc nào
Không học tiếng địa phương
Học tiến địa phương
Bị động và bị thuyết phục, bảo thủ
Chủ động và có nhu cầu
Không ý tứ và kỹ lưỡng
Thông cảm và lịch thiệp
Tìm kiếm du lịch tình dục
Không tham gia vào du lịch tình dục
Lẵng lẽ, kỳ quặc
Lặng lẽ, riêng biệt
Không trở lại tham quan
Trở lại tham quan
Nguồn: Du lịch bền vững.
Tùy thuộc vào đặc điểm của khu du lịch để sử dụng các yếu tố để đánh giá
tính bền vững của phát triển du lịch.
1.2. Đánh giá tính bền vững của du lịch dựa bào bộ chỉ tiêu môi trƣờng của tổ
chức du lịch thế giới UNWTO.
Chỉ tiêu môi trường là những thông tin tổng hợp giúp đánh giá các hoạt động
bền vững của du lịch. Để đánh giá mức độ bền vững của điểm du lịch, chúng ta
thường dùng các chỉ tiêu đơn và bộ chỉ tiêu đơn. Tổ chức du lịch thế giới WTO xây
dựng hai bộ chỉ tiêu đơn là: chỉ tiêu chung cho ngành du lịch bền vững và chỉ tiêu
đặc thù cho điểm du lịch. Ngoài ra,còn sử dụng phương pháp PRA (đánh giá có sự
tham gia của cộng đồng) để đánh giá.
Bảng 1.3 : các chỉ tiêu chung cho du lịch bền vững.
STT Chỉ tiêu
Cách xác định
1
Bảo vệ điểm du lịch
Loại bảo vệ điểm du lịch theo tiêu chuẩn IUCN
2
Áp lực
Số du khách viếng thăm điểm du lịch( tính theo
năm, tháng cao điểm)
Trần Hùng
18
Lớp: Kinh tế phát triển 46
Luận văn tốt nghiệp
3
Cường độ sử dụng
GVHD: THS. Bùi Đức Tuân
Cường độ sử dụng - thời kỳ cao điểm ( người/ha)
4
Tác động xã hội
Tỷ số Du khách/Dân địa phương (thời kỳ cao điểm)
5
Mức độ kiểm soát
Các thủ tục đánh giá môi trường hoặc sự kiểm soát
hiện có đối với sự phát triển của điểm du lịch và
mật độ sử dụng
6
Quản lý chất thải
Phần trăm đường cống thoát tại điểm du lịch có xử
lý (chỉ số phụ có thể là giới hạn kết cấu của năng
lực cơ sở hạ tầng của điểm du lịch, ví dụ như cấp
nước, bãi rác)
7
8
Quá trình lập quy
Có các kế hoạch nhằm phục vụ cho điểm du lịch (kể
hoạch
cả các yếu tố du lịch)
Các hệ sinh thái tới
Số lượng các loài hiếm đang bị đe dọa
hạn
9
10
Sự thỏa mãn của du
Mức độ thỏa mãn của khách du lịch (dựa trên các
khách
phiếu thăm dò ý kiến)
Sự thỏa mãn của địa
Mức độ thỏa mãn của điạ phương (dựa trên các
phương
phiếu thăm dò ý kiến)
Nguồn: Du lịch bền vững.
Ngoài các chỉ tiêu chung cho ngành du lịch, để đánh giá tính bền vững của
điểm du lịch cụ thể thì UNWTO đã đưa ra một số chỉ tiêu đặc thù.
Bảng 1.4 : Các chỉ tiêu đặc thù của điểm du lịch
STT Hệ sinh thái
1
Các chỉ tiêu đặc thù
Các vùng bờ biển Độ suy thoái (% bãi biển suy thoái, bị xói mòn)
Cường độ sử dụng (số người/1m bãi biển)
Hệ động vật bờ biển/động vật dưới biển ( số loài chủ yếu
Trần Hùng
19
Lớp: Kinh tế phát triển 46
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: THS. Bùi Đức Tuân
nhìn thấy)
Chất lượng nước (rác, phân và lượng kim loại nặng)
2
Các vùng núi
Độ xói mòn (% diện tích bề mặt bị xói mòn)
Đa dang sinh học (số lượng các loài chủ yếu).
Lối vào các điểm chủ yếu (số giờ chờ đợi)
3
Các
điểm
hóa
(các
đồng
thống)
văn Áp lực xã hội tiềm tàng (tỷ số thu nhập bình quân từ du
cộng lịch/số dân địa phương)
truyền Tính mùa vụ (% số cửa hàng mở cửa quanh năm/ tổng số
cửa hàng)
Xung đột (số vụ việc có báo cáo giữa dân điạ phương và
du khách)
4
Đảo nhỏ
Lượng tiền tệ rò rỉ (% thu lỗ từ thu nhập trong ngành du
lịch)
Quyền sở hữu (% quyền sỏ hữu nước ngoài hoặc không
thuộc địa phương đối với các cơ sở du lịch)
Khả năng cấp nước (chi phí, khả năng cung ứng)
Các thước đo cường độ sử dụng (ở quy mô toàn đảo
cũng như đối với các điểm chịu tác động
Nguồn: Du lịch bền vững
Bộ chỉ tiêu UNWTO sử dụng để đánh giá tính bền vững của điểm du lịch cụ
thể. Tuy vậy, các chỉ tiêu này cũng chưa thực sự chính xác.Vì vậy để đánh giá tính
bền vững của điểm du lịch chúng ta thường sử dụng thêm hệ thống chỉ tiêu về môi
trường. Trên thực tế du lịch bền vững còn được xem xét bởi mối quan hệ mới – du
lịch bền vững -được thiết lập khi thỏa mãn yêu cầu sau:
- Nhu cầu của du khách: được đáp ứng cao.
- Phân hệ sinh thái tự nhiên: không suy thoái.
Trần Hùng
20
Lớp: Kinh tế phát triển 46
- Xem thêm -