Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phong trào đấu tranh của công nhân miền nam trong cuộc kháng chiến chống mỹ cứu ...

Tài liệu Phong trào đấu tranh của công nhân miền nam trong cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước (1954 1975) (2018)

.PDF
57
124
75

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA LỊCH SỬ ====== TÔ THỊ TỨ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA CÔNG NHÂN MIỀN NAM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƢỚC (1954-1975) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam HÀ NỘI - 2018 TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA LỊCH SỬ ====== TÔ THỊ TỨ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA CÔNG NHÂN MIỀN NAM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƢỚC (1954-1975) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS. NGUYỄN VĂN NAM HÀ NỘI - 2018 LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành sâu sắc của mình tới các thầy cô giáo trong khoa lịch sử trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã cung cấp cho em những kiến thức trong suốt quá trình học tập tại trường. Đặc biệt là thầy Trần Anh Đức và thầy Nguyễn Văn Nam đã hướng dẫn trực tiếp và giúp đỡ em trong quá trình làm khoa học, để em hoàn thành đề tài khóa luận của mình. Bên cạnh đó em xin gửi lời cảm ơn đến bố mẹ, bạn bè và những người thân của em đã tạo mọi điều kiện, khích lệ tinh thần và động viên em rất nhiều để em vượt qua những khó khăn, rào cản và hoàn thành tốt đề tài khóa luận này của mình. Trong quá trình thực hiện do còn hạn chế về mặt thời gian, nguồn tư liệu cũng như trình độ chuyên môn nên khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến quý báu của các thầy cô giáo và bạn bè. Hà Nội, ngày 03 tháng 05 năm 2018. Sinh viên Tô Thị Tứ LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan những nội dung mà em đã trình bày trong khóa luận này là kết quả nghiên cứu của bản thân em dưới sự hướng dẫn của thầy Th.s Nguyễn Văn Nam và thầy Trần Anh Đức. Những nội dung này không trùng lặp với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác. Em xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của cá nhân mình trong khóa luận này. Hà Nội, ngày 03 tháng 05 năm 2018. Sinh viên Tô Thị Tứ MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài. ........................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. ........................................................................... 2 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu. ................................................ 4 4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu. ................................................. 5 5. Đóng góp của đề tài....................................................................................... 5 6. Bố cục của khóa luận. ................................................................................... 6 CHƢƠNG 1. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA CÔNG NHÂN MIỀN NAM GIAI ĐOẠN 1954-1964. ....................................................................... 7 1.1. Đất nước chia cắt làm hai miền và chính sách của Mỹ-Việt Nam cộng hòa đối với công nhân miền Nam. ........................................................................... 7 1.2. Kinh tế và đời sống công nhân miền Nam từ 1954-1964. ......................... 9 1.3. Phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam trong giai đoạn “chiến tranh đơn phương” 1954-1960. ....................................................................... 11 1.4. Phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam trong giai đoạn 19611964. ................................................................................................................ 15 CHƢƠNG 2. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA CÔNG NHÂN MIỀN NAM GIAI ĐOẠN 1965-1975. ..................................................................... 21 2.1. Phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam giai đoạn 1965-1968.. .. 21 2.1.1. Kinh tế và đời sống của công nhân miền Nam giai đoạn 1965-1968. .. 21 2.1.2. Phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam trong chiến lược chiến tranh “chiến tranh cục bộ”............................................................................... 23 2.1.2.1. Phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam từ giữa năm 1965 đến cuộc Tiến công tết 1968. ................................................................................. 23 2.1.2.2. Phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam trong cuộc tổng tiến công tết 1968. .................................................................................................. 27 2.2. Phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam giai đoạn 1969-1975. ... 31 2.2.1. Phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”...................................................................................... 31 2.2.2. Phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam sau hiệp định Pari 19731975. ................................................................................................................ 36 2.2.2.1. Phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam rút hết quân theo Hiệp định Pari 1973-1974. ....................................................................................... 36 2.2.2.2. Phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân năm 1975. .................................................................... 40 2.3. Nhận xét phong trào đấu tranh chống Mỹ cứu nước của công nhân miền Nam. ................................................................................................................ 43 KẾT LUẬN .................................................................................................... 46 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 49 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, giai cấp công nhân đã thể hiện được vai trò tiên phong trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân Việt Nam đã và đang là lực lượng xã hội đi đầu trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Trong điều kiện kinh tế hiện nay, Việt Nam phải xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân vững mạnh, có lập trường cách mạng để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa và hội nhập với các nền kinh tế thế giới. Cùng với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác trong khối đại đoàn kết dân tộc, giai cấp công nhân đã có đóng góp to lớn vào quá trình phát triển kinh tếxã hội của đất nước. Phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam từ năm 1954-1975, diễn ra liên tục, sôi nổi và quyết liệt ở các đồn điền, xí nghiệp, các ngành như: hỏa xa, xăng, dầu, dệt, taxi, vận tải, vô tuyến truyền thông,… Mặc dù bị Mỹ và Việt Nam cộng hòa dùng mọi âm mưu và thủ đoạn để đàn áp, khủng bố và kìm kẹp nhưng phong trào công nhân miền Nam vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ cho đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1975. Phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam cùng với quần chúng nhân dân lao động, trong đó lực lượng nòng cốt dẫn đầu và có tác dụng cổ vũ nhân dân đấu tranh từ nông thôn đến thành thị trong cuộc đấu tranh chung vì sự nghiệp giải phóng miền Nam. Phong trào công nhân đã giáng những đòn mạnh mẽ vào hậu cứ an toàn của Mỹ và Việt Nam cộng hòa, từng bước phá thế kìm kẹp và cô lập địch về chính trị, làm cho hậu phương bị rối loạn, đẩy Mỹ và tay sai từng bước rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. 1 Đứng trước tuyến đầu của phong trào đấu tranh chống Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Đảng phong trào công nhân miền Nam đã nối tiếp truyền thống của dân tộc, thể hiện vai trò tiên phong cách mạng cùng các giới đồng bào góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tìm hiểu lịch sử đấu tranh của công nhân miền Nam từ năm 1954-1975 để rút ra những đặc điểm của phong trào công nhân trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc nó có ý nghĩa khoa học thực tiễn sâu sắc, góp phần nâng cao truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất cho thế hệ trẻ. Từ những lí do trên, tôi đã chọn đề tài “Phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)” làm đề tài khoá luận của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Từ trước đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu và ấn phẩm tổng kết về lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam nói chung và công nhân miền Nam nói riêng. Trong đó có thể nêu ra một số công trình nghiên cứu chủ yếu đã công bố liên quan đến đề tài. Viết về phong trào công nhân có thể kể đến các ấn phẩm tiêu biểu như: Cuốn “Phong trào công nhân miền Nam”: giới thiệu cuộc đấu tranh chống Mỹ- Diệm của giai cấp công nhân miền Nam từ tháng 7/1954 đến tháng 7/1961, NXB sự thật, 1961 của tác giả Võ Nguyên giúp người đọc hiểu được sự trưởng thành của giai cấp công nhân miền Nam và vị trí của phong trào công nhân trong các phong trào yêu nước. Cuốn sách đã giới thiệu những nét sơ lược về phong trào công nhân miền Nam trong 7 năm (từ tháng 7/1954 đến 7/1961). Cuốn“Công nhân miền Nam Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước(1954-1975)”của Cao Văn Lượng, NXB khoa học xã hội Hà Nội, 1977. Đây là công trình nghiên cứu có tính hệ thống về phong trào công 2 nhân miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong đó tác giả đã tập trung khái quát về sự phát triển đội ngũ công nhân miền Nam Việt Nam từ 1954-1975, đi sâu phân tích những thủ đoạn của Mỹ và Việt Nam cộng hòa đối với công nhân miền Nam, đời sống công nhân dưới chính quyền Mỹ và Ngô Đình Diệm, phong trào đấu tranh của công nhân trong từng giai đoạn cụ thể. Dù bất cứ giai đoạn nào, phong trào công nhân miền Nam vẫn diễn ra hết sức quyết liệt với những hình thức đấu tranh phong phú. Hạn chế của công trình này là chưa khai thác được tài liệu lưu trữ. “Một vài ý kiến về công nhân lao động miền Nam và công tác công đoàn vùng giải phóng” 1978, NXB lao động, Hà Nội. Có thể coi đây là công trình nghiên cứu khá đầy đủ về đội ngũ công nhân lao động miền Nam. Nét nổi bật là công trình đã nêu rõ truyền thống đấu tranh bất khuất của giai cấp công nhân lao động miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. “Phong trào công nhân lao động và hoạt động công đoàn miền Nam Việt Nam (1954-1975)”của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đã nêu lên truyền thống anh dũng của giai cấp công nhân vì dân sinh, dân chủ và chống chiến tranh xâm lược. “Nghiệp đoàn Sài Gòn và phong trào công nhân”của tác giả Lê Thị Qúy, NXB TP Hồ Chí Minh, 1988. Trình bày về âm mưu và thủ đoạn của Mỹ-Việt Nam cộng hòa trong việc tổ chức và sử dụng nghiệp đoàn. “Lịch sử giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XXI” do GS.TS.Đỗ Quang Hưng(chủ biên), của NXB lao động, 2011. Cuốn sách đã đem đến những hiểu biết tinh gọn nhất, cơ bản nhất về quá trình xây dựng và phát triển những đóng góp to lớn của giai cấp công nhân, công đoàn Việt Nam trong mọi thời kì cách mạng. Những công trình và những bài viết của các tác giả trên đã phản ánh nhiều mặt gián tiếp hay trực tiếp đề cập tới phong trào công nhân miền Nam 3 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ năm 1954-1975. Trong quá trình thực hiện đề tài khóa luận, tác giả đã kế thừa và tiếp thu có chọn lọc thành tựu của các công trình nghiên cứu trước đây có liên quan đến đề tài phong trào công nhân. 3. Mục đích, nhiệm vụvà phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài tập trung trình bày và phân tích bước phát triển của phong trào công nhân ở từng giai đoạn cụ thể từ năm 1954-1975. Bước đầu rút ra được đặc điểm, cũng như tác động ảnh hưởng của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân miền Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài tập trung làm nổi bật những vấn đề sau: Thứ nhất, làm rõ tình hình kinh tế và đời sống của giai cấp công nhân miền Nam trong từng giai đoạn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thứ hai, tập trung làm rõ những chính sách của Mỹ và chính quyền Việt Nam cộng hòa đối với công nhân miền Nam. Thứ ba, trên cơ sở trình bày về các phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam từ năm 1954-1975 từ đó rút ra được những nhận xét về phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam. 3.3. Phạm vi nghiên cứu *Về thời gian Đề tài được giới hạn từ năm 1954 đến 1975, từ sau hiệp định Giơnevơ cho đến đại thắng mùa xuân năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam. *Về không gian Đề tài nghiên cứu phong trào công nhân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975). Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu 4 phong trào công nhân ở miền Nam. Miền Nam được hiểu theo nghĩa là vùng đất phía Nam vĩ tuyến 17 theo quy định hiệp định Giơnevơ năm 1954. 4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Nguồn tài liệu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả chủ yếu tìm và thu thập tài liệu tại: Thư viện quốc gia, Viện Sử học và Thư viện trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Đề tài dựa vào nguồn tài liệu tham khảo từ các công trình nghiên cứu của các tác giả, nhà khoa học và sử học đi trước. Các ấn phẩm, bài báo, tạp chí, luận văn, luận án. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Hai phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong khóa luận là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các phương pháp liên ngành như liệt kê, tổng hợp và kết hợp với các phương pháp truyền thống như phân tích, trình bày trong việc trình bày những chính sách của Mỹ và chính quyền Việt Nam cộng hòa cũng như diễn biến đặc điểm của phong trào công nhân. 5. Đóng góp của đề tài - Về mặt khoa học: Trên cơ sở hệ thống tư liệu, tiếp thu có chọn lọc những công trình nghiên cứu, khóa luận trình bày một cách có hệ thống về phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trên cơ sở đó, tác giả đã nhận xét, đánh giá khách quan về đặc điểm, vai trò phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Khóa luận là tài liệu tham khảo để nghiên cứu về phong trào đấu tranh của công nhân Việt Nam. Bên cạnh đó, công trình nghiên cứu còn góp phần 5 cung cấp, bổ sung, tư liệu cho công tác nghiên cứu, giảng dạy phần lịch sử Việt Nam hiện đại giai đoạn từ 1954-1975 ở trường phổ thông. - Về mặt thực tiễn: Công trình nghiên cứu cũng góp phần làm sáng tỏ truyền thống đấu tranh anh hùng cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam, không chỉ đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế mà còn đấu tranh chống ngoại xâm và đấu tranh để xây dựng một đất nước giàu mạnh, độc lập. Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tinh thần đấu tranh cách mạng để xây dựng đất nước độc lập, giàu mạnh cần được khơi dậy và phát huy. 6. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khóa luận gồm có hai chương nội dung chính gồm: Chương 1: Phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam giai đoạn 1954-1964 Chương 2: Phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam giai đoạn 1965-1975 6 Chƣơng 1 PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA CÔNG NHÂN MIỀN NAM GIAI ĐOẠN 1954-1964 1.1. Đất nƣớc chia cắt làm hai miền và chính sách của Mỹ-Việt Nam cộng hòa đối với công nhân miền Nam Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân ta đã kết thúc thắng lợi, nhưng đất nước tạm thời bị chia cắt làm 2 miền: miền Bắc hòa bình, miền Nam còn tiếp tục chiến đấu chống Mỹ và tay sai. Theo hiệp định Giơnevơ hai năm sau sẽ tiến hành hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Từ cuối năm 1954, đế quốc Mỹ đã loại bỏ được thực dân Pháp, đưa Ngô Đình Diệm làm tổng thống Việt Nam cộng hòa, lập chính phủ bù nhìn dưới sự chỉ đạo giấu mặt của cố vấn Mỹ, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Để độc chiếm được miền Nam, Mỹ và Việt Nam cộng hòa đã dùng những thủ đoạn để đánh phá phong trào công nhân miền Nam. Thông qua chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, đồng thời núp dưới chiêu bài “tố cộng”, Mỹ-Diệm đã mở những cuộc khủng bố đẫm máu khắp miền Nam, đánh phá ác liệt phong trào công nhân lao động. Ngày 3/7/1955 chúng đàn áp cuộc biểu tình đòi thi hành hiệp định Giơnevơ, đòi hòa bình thống nhất đất nước của công nhân lao động và nhân dân Sài Gòn, bắt giam trên 100 người. Đầu năm 1956 viện cớ là trong hàng ngũ công nhân có nhiều “Việt Cộng nằm vùng”, nhiều “cơ sở cộng sản”, Mỹ-Diệm bắt đầu “tố cộng” mạnh trong công nhân lao động. Chúng mở nhiều chiến dịch nhằm đánh phá ác liệt phong trào công nhân và tàn sát công nhân bắt bớ và thủ tiêu hàng loạt cán bộ nghiệp đoàn. Núp dưới chiêu bài “thanh khiết nghiệp đoàn”. 7 Ngày 11/11/1957, chính phủ Ngô Đình Diệm đã mở một đợt khủng bố nghiệp đoàn ra lệnh giải tán 30 nghiệp đoàn, bắt giam hơn 200 cán bộ lãnh đạo nghiệp đoàn. Để lấy cớ công khai đàn áp phong trào công nhân “báo cách mạng quốc gia, số ra ngày 11/6/1959, làm cơ quan ngôn luận của chính quyền Diệm đã tuyên truyền rằng: “Cộng sản lũng đoạn nghiệp đoàn” đồng thời nhấn mạnh: “an toàn quốc gia bao giờ cũng cần hơn tự do dân chủ”. Bằng trò vừa ăn cắp vừa la làng Mỹ-Diệm lại tiến thêm một bước nữa trong việc đàn áp các cuộc đấu tranh của công nhân”. Ngày 29/12/1959, chúng đàn áp đẫm máu cuộc đấu tranh của 8.000 công nhân cao su Lộc Ninh, Xa Cát, Long Thành (Biên Hòa), đốt cháy 32 nhà của công nhân, trục xuất cán bộ nghiệp đoàn ra khỏi tỉnh [9, tr.157]. Đi đôi với những thủ đoạn đàn áp, khủng bố, Mỹ-Diệm còn thực hiện chính sách lừa bịp nhằm làm chệch hướng đấu tranh của công nhân miền Nam và hướng họ đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản, Mỹ-Diệm còn tiến hành cái gọi là “chiến tranh ý thức hệ” nằm trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, chúng lừa bịp công nhân lao động rằng chúng “không phải là đối tượng đấu tranh mà là bạn của dân”[12, tr.50]. Bên cạnh đó Mỹ còn rất quan tâm đến nghiệp đoàn và coi đây là vấn đề chiến lược trong chính sách chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam. Với hình thức độc lập, dân chủ, “chủ nghĩa thực dân mới” của Mỹ cho phép tổ chức nghiệp đoàn để lũng đoạn phong trào công nhân theo nguyên tắc “nghiệp đoàn đa nguyên” nếu ban đầu nghe thì nhầm tưởng là tự do dân chủ nhưng thực tế ý đồ của Mỹ là muốn chia rẽ lực lượng công nhân bằng những trung tâm nghiệp đoàn khác nhau như: Tổng liên đoàn lao công, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, lực lượng thợ thuyền,… 8 Tại các đồn điền cùng với việc hạn chế các quyền lợi của công nhân, Mỹ và Việt Nam cộng hòa thành lập các “ấp chiến lược” nhằm tách cán bộ cách mạng và Đảng viên Đảng cộng sản ra khỏi công nhân, lùa cộng sản vào rừng sống cô lập, thiếu thốn, đói khát rồi sẽ bị diệt trừ,… chúng trú trọng đặt bộ máy kìm kẹp khống chế công nhân tại các đồn điền ngoài ra chúng còn tiến hành các chính sách vơ vét nhân tài vật lực ở miền Nam để phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược của chúng. Nạn sưu cao, thuế nặng, lạm phát giá cả tăng đã làm cho đời sống của công nhân ngày càng thêm khốn khổ. Có thể nói, trong những năm từ 1954-1975, Mỹ và Việt Nam cộng hòa không từ một âm mưu và thủ đoạn nào để đánh phá phong trào công nhân miền Nam. Với các chính sách đàn áp, khủng bố, chia rẽ công nhân, tìm cách lôi kéo đội ngũ công nhân đi theo con đường cải lương thỏa hiệp, từng bước nắm chặt các nghiệp đoàn nhằm biến các nghiệp đoàn thành công cụ phục vụ chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. 1.2. Kinh tế và đời sống công nhân miền Nam từ 1954-1964 Có thể nói kinh tế miền Nam trong giai đoạn này là một nền kinh tếlạc hậu, do chính sách đàn áp khủng bố và các thủ đoạn bóc lột tàn bạo của MỹDiệm đã làm cho đời sống công nhân miền Nam vô cùng cực khổ. Trong đó nổi lên là nạn thất nghiệp giống như một thứ bệnh dịch, lan tràn khắp mọi nơi, năm này qua năm khác và ngày một tăng lên. Tính đến tháng 3/1955 đã có 56.000 công nhân thất nghiệp, đến tháng 8/1955 con số này tăng lên 10 vạn người. Trong đó Sài Gòn-Chợ Lớn tình trạng thất nghiệp ngày càng lan rộng hơn [9, tr.158]. Nạn thất nghiệp lan tràn phổ biến đang trực tiếp đe dọa một cách nghiêm trọng đời sống công nhân miền Nam. Những người tạm thời còn có công ăn việc làm luôn nằm trong tình trạng thấp thỏm lo âu, vì sợ sắp bị sa thải. Năm 1956 chỉ tính những vụ sa thải lớn ở một số xí nghiệp, đồn điền số 9 công nhân bị sa thải đã lên đến 64.455 người. Những người thất nghiệp như phụ nữ, trẻ em được Mỹ-Diệm cho tuyển vào làm với mức lương rất thấp chỉ bằng một phần ba những người làm cũ, mặc dù lương thấp nhưng nhiều người thất nghiệp vẫn không kiếm được việc làm, đời sống đói khổ khốn cùng dồn họ vào thế bí và không còn con đường nào khác, họ phải đi ăn xin. Nạn ăn mày tràn ngập khắp thị trường miền Nam, nhiều đến nỗi chính quyền Diệm lập ra “Uỷ ban chống nạn hành khất”. Tuy nhiên cũng không tài nào ngăn nổi, vì đây là kết quả của sự bần cùng hóa của công nhân.Có nhiều công nhân phẫn uất vì đói khổ đã tẩm xăng vào mình đốt cháy hoặc nhảy xuống sông tự tử, như anh Nguyễn Văn Kỹ, 36 tuổi làm thợ mộc đã tẩm xăng và quần áo rồi châm lửa tự thiêu [11, tr.3-4]. Bên cạnh nạn thất nghiệp còn có nạn lạm phát giấy bạc, thuế má tăng: thuế đất, thuế nóc nhà, thuế rác,…giá cả sinh hoạt đắt đỏ như giá gạo, thịt, rau, tiền thuê nhà tăng gấp bội, ngoài ra còn phạt vạ: Nạn xổ số, lạc quyên bắt buộc người công nhân phải đóng trong khi đó tiền lương vẫn giữ nguyên. Do không đủ tiền thuê mướn nhiều công nhân phải sống trong những túp lều lụp xụp, thiếu nước, thiếu điện, rác rưởi bùn lầy mất vệ sinh, đời sống vất vưởng cảnh màn trời chiếu đất. Điều kiện làm việc vô cùng cực khổ, phải làm việc quá sức, và bị bắt phải làm việc 11 giờ trên một ngày, chủ nhật không được nghỉ và quanh năm không có ngày nghỉ lễ, đặc biệt tại các đồn điền, điều kiện làm việc của công nhân lại càng khắc nghiệt và man rợ, hàng ngày các chủ đồn điền lăm lăm cầm chiếc roi trên tay, động một tí là vụt lên đầu, lên mặt mọi người, có công nhân bị chúng đánh vứt rác xuống hố, hằng ngày trong đồn điền nấc lên tiếng khóc của công nhân, và tiếng chửi rủa của chính quyền Ngô Đình Diệm. Điều kiện lao động đã nặng nhọc lại không được đảm bảo an toàn nên đã có rất nhiều vụ tai nạn xảy ra mỗi năm một tăng. Năm 1958 có 11 vạn 10 9.892 vụ, năm 1959 có 13 vạn 3.774 vụ đến năm 1960 con số này tăng vọt 15 vạn 633 vụ. con số này còn xa sự thật [27, tr.5]. Có thể nói dưới chế độ Mỹ-Diệm, công nhân miền Nam lâm vào cảnh thất nghiệp đói khổ, tù đày chết chóc, muốn tự giải phóng và giải phóng dân tộc mình thoát khỏi cảnh tối tăm, u ám giai cấp công nhân miền Nam không còn con đường nào khác đó là phải đứng lên đấu tranh chiến đấu chống bóc lột và thống trị. 1.3. Phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam trong giai đoạn “chiến tranh đơn phƣơng” 1954-1960 Trong giai đoạn này Mỹ-Diệm đã dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để phá hoại phong trào công nhân miền Nam, chính sách khủng bố đàn áp đi đôi với mua chuộc chia rẽ, lừa bịp, đã gây nhiều khó khăn cho phong trào, nhưng với tinh thần đoàn kết và dưới sự lãnh đạo của Đảng giai cấp công nhân miền Nam ngày càng trưởng thành và đã vùng dậy đấu tranh. Với những hình thức và phương pháp đấu tranh phong phú, đa dạng thích hợp, phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam mặc dù gặp khó khăn trước sự khủng bố của Mỹ-Diệm, nhưng nhìn chung vẫn được giữ vững và phát triển. Tính chung từ tháng 7/1954 đến năm 1960 giai cấp công nhân miền Nam đã tiến hành 2.329 cuộc đấu tranh tập thể. Trong đó từ tháng 7/1954 đến hết năm 1955; 292 cuộc, năm 1956; 504 cuộc, năm 1957; 408 cuộc, năm 1958; 306 cuộc, năm 1959; 401 cuộc, năm 1960; 418 cuộc [26, tr.4]. Những cuộc đấu tranh đã thể hiện tính liên tục, quyết liệt và toàn diện của phong trào vì lợi ích của giai cấp và của dân tộc với mục tiêu đấu tranh là đòi cải thiện dân sinh, đòi tự do dân chủ, chống viện trợ của Mỹ, đòi hòa bình thống nhất đất nước. Giai cấp công nhân miền Nam nêu cao khẩu hiệu đòi những quyền lợi rất bức thiết như tăng lương, giảm giờ làm, chống sa thải, đòi cải thiện điều 11 kiện làm việc, phong trào phát triển rộng khắp tại các đồn điền, xí nghiệp cơ sở thương mại, vận tải, tàu hàng không, hỏa xa,… Nhiều cuộc đấu tranh đã thu hút hàng ngàn, hàng vạn công nhân tham gia và được các giới khác ủng hộ, trong đó phải kể đến cuộc bãi công ngày 10/11/1955 của hơn 40.000 công nhân các đồn điền cao su ở tất cả bốn tỉnh Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh đưa ra yêu sách đòi tăng lương, đòi cải thiện chế độ ăn ở làm việc và đối xử, đòi chủ không được ngăn cản tự do tổ chức của công nhân [23, tr.17-18]. Trong khi đấu tranh cho các khẩu hiệu dân sinh, dân chủ cũng như các khẩu hiệu khác, giai cấp công nhân miền Nam đã sử dụng nhiều hình thức đấu tranh sinh động, ngoài những hình thức đấu tranh thông thường như họp đại hội, đưa yêu sách, kiến nghị,… họ đã sử dụng những hình thức đấu tranh cao, quyết liệt như: Bãi công, lãn công, bãi công chiếm xưởng. Những hình thức đấu tranh phản ánh sự trưởng thành về ý thức tổ chức kỉ luật, tinh thần chiến đấu của công nhân. Năm 1955 có 27 cuộc bãi công gồm hàng vạn công nhân, năm 1956 có 21 cuộc bãi công. Năm 1959 chỉ tính trong các xí nghiệp Sài Gòn-Chợ Lớn đã có 8 cuộc bãi công lớn, cuộc bãi công của trên 25.000 công nhân trong các hãng nhà binh Pháp nổ ra ngày 7/12/1954, đòi tăng lương 20%, giảm giá sinh hoạt, đòi thi hành hiệp định Giơnevơ kéo dài gần một tháng đặc biệt là cuộc bãi công chiếm xưởng của 30.000 công nhân hỏa xa gồm các Đề Pô, Dĩ An, Chí Hòa và của gần 3.000 công nhân hãng Ba Son tháng 5/1957 kéo dài hàng tháng đã gây cho Mỹ-Diệm nhiều thiệt hại [33, tr.8-20]. Đi đôi với phong trào đòi cải thiện dân sinh là phong trào đòi tự do, dân chủ, mà nội dung chủ yếu là đòi tự do nghiệp đoàn chống bắt bớ, tra tấn và thanh khiết nghiệp đoàn. Ngày 17/11/1957 công nhân lao động Sài Gòn phát động phong trào đấu tranh chống khủng bố nghiệp đoàn, phong trào trở nên 12 sôi nổi, đặc biệt trong các đồn điền, công nhân đồn điền Xa Cát, Dầu Tiếng,…[20, tr.12]. Tại các thành phố phong trào đòi tự do nghiệp đoàn phát triển khá rầm rộ và sôi nổi, công nhân hỏa xa biểu tình, kí kiến nghị phản đối tòa án của Diệm xử tử hai cán bộ nghiệp đoàn hỏa xa. Ngày 28/9/1958, hơn 450 nghiệp đoàn thuộc hệ thống Tổng Liên đoàn lao động họp đại hội gửi kiến nghị đòi chính quyền Diệm bãi bỏ dụ 23, đòi mở rộng tự do dân chủ. Tiêu biểu là các đợt đấu tranh chống vụ thảm sát Phú Lợi, chống luật phát xít 10/59 trong đó công nhân lao động là lực lượng tiên phong, nòng cốt trong các cuộc đấu tranh [9, tr.164]. Phong trào đấu tranh đòi hòa bình thống nhất đất nước, chống viện trợ Mỹ cũng diễn ra rầm rộ, sôi nổi trong giai đoạn này. Ngay sau khi hiệp định Giơnevơ được kí kết ngày 1/8/1954, 50.000 công nhân và nhân dân Sài Gòn, Chợ Lớn phối hợp với phong trào đòi hiệp thương Tổng tuyển cử, công nhân nhà máy điện Đà Nẵng cùng với công nhân lao động trong thành phố tổ chức đấu tranh đòi tăng lương, cải thiện đời sống, giảm giờ làm, yêu cầu được khám sức khỏe,… Tháng 7/1955, mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động phong trào đấu tranh đòi hiệp thương hòa bình thống nhất đất nước. Để mở đầu cho phong trào này ngày 3/7/1955 công nhân lao động Sài Gòn đã tổ chức hai cuộc biểu tình đòi trả tự do cho những người trong “Uỷ ban cứu trợ nạn nhân chiến tranh” kết hợp với đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Ngày 23/10/1955 chính quyền Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu dân ý nhằm mục đích buộc Bảo Đại phải thoái vị. Bắt công nhân lao động đi bỏ phiếu nhưng số người đi chỉ được một nửa, số còn lại cử tri tìm cách lẩn trốn không đi bỏ phiếu,… Ý thức chống Mỹ đã ăn sâu trong công nhân lao động miền Nam được thể hiện qua các cuộc đấu tranh chống cướp đất, cào nhà, 13 đuổi nhà để xây dựng căn cứ quân sự chống “viện trợ” Mỹ. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh ngày 4/12/1956 của gần 10 vạn công nhân lao động khu Vân Đồn, Chương Dương chống lệnh đuổi nhà của chính quyền Diệm. Hầu hết các cuộc đấu tranh năm 1958 đều tập trung vào khẩu hiệu “chống viện trợ Mỹ”, chống tăng thuế, đòi nâng đỡ hàng nội hóa, xây dựng một nền kinh tế độc lập, giải quyết công ăn việc làm và đời sống cho công nhân lao động [3, tr.165]. Trong hai năm 1957-1958 có tới hơn 700 cuộc đấu tranh của công nhân lao động diễn ra ở hầu hết các ngành sản xuất với quy mô lớn có sự thống nhất rộng rãi. Đòi quyền lợi thiết thân của mình chính vì thế lôi kéo được đông đảo nông dân tham gia. Ngày 31/3/1957, nông dân Phước Long đấu tranh chống địa chủ cướp đất được nhân dân nhiều nơi và 100 đại biểu công nhân Gia Định ủng hộ. Ngày 8/2/1960, trên 4.000 nông dân huyện Bến Cát, Dầu Tiếng biểu tình chống khủng bố được 3.000 công nhân các đồn điền Dầu Tiếng, Bến Cát sôi nổi tham gia [9, tr.153]. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân miền Nam còn lôi kéo được cả giai cấp tư sản dân tộc tham gia. Bên cạnh việc đấu tranh đòi quyền lợi của giai cấp công nhân, phong trào còn đấu tranh đòi các lợi ích của tư sản dân tộc như: đòi bỏ độc quyền kinh tế của Mỹ-Diệm, tích cực bảo vệ hàng nội hóa, bãi bỏ thuế sản xuất vô lý, đòi xây dựng nền kinh tế tài chính độc lập, tự chủ, đòi khôi phục và phát triển công nghệ trong nước hạn chế và đình chỉ nhập cảng hàng hóa trong nước sản xuất được, cũng trong năm 1958, hàng vạn công nhân của 150 xưởng dệt ở Sài Gòn-Chợ Lớn đã họp ba lần vào ngày 12/6, 23/6, và 22/11 cùng với các chủ xưởng đấu tranh chống “viện trợ” Mỹ. Trong các Đại hội này công nhân và các nhà tư sản dân tộc đã nêu lên nhiều yêu sách cụ thể để bảo vệ quyền lợi của công nhân và các nhà sản xuất tiểu chủ: Bãi bỏ thuế sản xuất, đình chỉ nhập cảng các loại vải,… [12, tr.132-133]. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan