BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ HƯƠNG
PHÒNG NGỪA TỘI THAM Ô TÀI SẢN Ở VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 9.38.01.05
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2021
2
Công trình được hoàn thành tại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
Người hướng dẫn khoa học :
1. GS. TS. Lê Thị Sơn
2. TS. Nguyễn Tuyết Mai
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp trường họp tại Tường
Đại học Luật Hà Nội vào hồi ngày …/…/2021
Có thể tìm hiểu luận án tại:
1. Thư viện Quốc gia
2. Thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Phòng ngừa tội tham ô tài sản trong thời gian qua đã được quan tâm, chú
trọng. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên kết quả đạt được chưa cao,
những hạn chế của hoạt động phòng ngừa chưa được quan tâm khắc phục kịp thời,
một số nội dung, biện pháp phòng ngừa không còn phù hợp với yêu cầu thực tế
nhưng chưa được đổi mới cho thích ứng, các vụ án tham ô tài sản với hậu quả đặc
biệt nghiêm trọng vẫn xảy ra ở các bộ, ngành, các địa phương trên cả nước, tạo ra
những khó khăn, thách thức không nhỏ đối với các cơ quan thực hiện chức năng
phòng ngừa loại tội phạm này. Do vậy, việc phòng ngừa tội tham ô tài sản nhằm
từng bước đẩy lùi loại tội phạm này là một yêu cầu cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn
sâu sắc trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, việc nghiên cứu tình hình tội tham ô tài
sản cũng như xác định những nguyên nhân của tội phạm này để từ đó tìm ra những
biện pháp phòng ngừa thiết thực, hiệu quả lại chưa được quan tâm một cách thỏa
đáng, nên thực tế cũng làm hạn chế hiệu quả của việc phòng ngừa loại tội phạm
này. Xuất phát từ đòi hỏi cả về lý luận và thực tiễn, nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề
tài: "Phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" làm đề tài
luận án tiến sĩ là cần thiết và có ý nghĩa thiết thực đối với hoạt động phòng ngừa tội
tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời gian tới.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của Luận án là từ việc đánh giá tình hình tội tham ô tài
sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019, xác định, giải thích các nhóm nguyên nhân
làm phát sinh, gia tăng loại tội phạm này ở Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu, từ
đó đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt
Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của Luận án là: Tình hình tội tham ô tài sản ở Việt
Nam; nguyên nhân của tội tham ô tài sản ở Việt Nam; các biện pháp phòng ngừa tội
tham ô tài sản ở Việt Nam;
- Phạm vi nghiên cứu của Luận án là nghiên cứu tội tham ô tài sản dưới góc
độ tội phạm học trên phạm vi toàn quốc trong thời gian từ 2010-2019.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận án được tác giả thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về chống và phòng ngừa tham nhũng, trong đó
có tham ô tài sản.
Các phương pháp nghiên cứu khoa học chủ yếu trong Luận án gồm: Mô tả,
giải thích, dự báo và đưa ra giải pháp.
4
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của Luận án đóng góp cho sự phát triển chung của lý
luận
về tội phạm học và phòng ngừa tội phạm. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, diễn biến
của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019 sẽ xác định, giải thích những
yếu tố tiêu cực được cho là nguyên nhân làm phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản ở
Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu. Các biện pháp phòng ngừa được đưa ra góp
phần làm hạn chế việc phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời
gian tới.
Luận án cũng là nguồn tư liệu có ý nghĩa để cá nhân, tổ chức tham khảo,
nghiên cứu trong quá trình phòng ngừa tội tham ô tài sản trong cơ quan hoặc địa
phương mình sinh sống, làm việc. Đồng thời cũng là nguồn tham khảo trong quá
trình nghiên cứu, giảng dạy về phòng ngừa tội phạm nói chung.
6. Bố cục của Luận án
Ngoài phần mở đầu, phần tổng quan, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, luận án bao gồm 3 chương:
Chương 1: Tình hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 20102019
Chương 2: Nguyên nhân của tội tham ô tài sản
Chương 3: Các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài
sản ở Việt Nam trong thời gian tới
5
PHẦN TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Qua thời gian tìm hiểu, NCS nhận thấy: Đấu tranh phòng, chống các tội
phạm về tham nhũng đã được nhiều tác giả triển khai nghiên cứu với những cấp độ
và khía cạnh khác nhau. Do tham ô tài sản là một trong các tội phạm về tham
nhũng, nên các công trình đã được công bố đều có những nội dung liên quan đến
phòng ngừa tội tham ô tài sản.
2. Tình hình nghiên cứu của nước ngoài liên quan đến đề tài
Qua nghiên cứu, tìm hiểu một số công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên
quan đến vấn đề phòng ngừa hoặc chống tội tham ô tài sản, NCS thấy: Các tác giả
đã xác định, giải thích nguyên nhân của tội tham ô tài sản; trên cơ sở đó đưa ra một
số biện pháp ngăn ngừa nạn tham ô, biển thủ quỹ trong các tổ chức, doanh nghiệp.
3. Đánh giá kết quả nghiên cứu
Qua khảo cứu các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài của Luận
án, nghiên cứu sinh có thể đưa ra một số đánh giá tổng quan như sau:
Thứ nhất, việc đánh giá tình hình các tội phạm tham nhũng ở Việt Nam
trong khoảng thời gian nhất định; xác định và giải thích nguyên nhân làm phát
sinh, gia tăng các tội phạm tham nhũng, từ đó đưa ra các biện pháp phòng,
chống các tội phạm tham nhũng là những vấn đề được nhiều tác giả Việt Nam
và thế giới quan tâm nghiên cứu. Trong đó, có những công trình nghiên cứu
chuyên sâu, được tiến hành công phu trong thời gian dài, có sự phối hợp của các tác
giả ở nhiều bộ, ngành khác nhau; có công trình nghiên cứu chuyên sâu về phòng,
chống các tội phạm tham nhũng trong lĩnh vực cụ thể như: Tập đoàn kinh tế nhà
nước, khai thác khoáng sản, công vụ; có công trình nghiên cứu chuyên sâu về hoạt
động phòng, chống tham nhũng của bộ, ngành, tổ chức cụ thể như: Thanh tra Chính
phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức xã hội khác.
Thứ hai, tuy được tổ chức nghiên cứu ở những khía cạnh và cấp độ
khác nhau của hoạt động phòng, chống các tội phạm tham nhũng, nhưng các
công trình nghiên cứu đều hướng đến mục đích chung là đưa ra được những
biện pháp hạn chế sự phát sinh, gia tăng của các tội phạm tham nhũng bao
gồm cả tham ô tài sản.
4. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong Luận án
Thứ nhất, đánh giá tình hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 20102019;
Thứ hai, xác định, giải thích nguyên nhân của tội tham ô tài sản ở Việt Nam
giai đoạn 2010 – 2019;
6
Thứ ba, dự báo tình hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam từ nay cho đến 2030
và đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản ở nước ta
trong thời gian tới.
PHẦN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1. TÌNH HÌNH TỘI THAM Ô TÀI SẢN Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2010-2019
1.1. Vấn đề chung về tình hình tội phạm
Khi nghiên cứu một nhóm tội hoặc một tội phạm cụ thể dưới góc độ tội
phạm học, tình hình tội phạm là nội dung nghiên cứu quan trọng, là cơ sở để định
hướng phòng ngừa tội phạm. Trên cơ sở nghiên cứu các yếu tố hợp thành của tình
hình tội phạm bao gồm thực trạng của tội phạm và diễn biến của tội phạm sẽ đánh
giá được tình hình tội phạm, từ đó có biện pháp phòng ngừa tương ứng, hạn chế sự
phát sinh, gia tăng tội phạm trên thực tế. Tuy nhiên, các cơ sở đào tạo, nghiên cứu ở
nước ta vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tình hình tội phạm, chẳng
hạn như: Tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội, trái pháp luật hình sự, mang tính
giai cấp, thay đổi theo quá trình lịch sử, tiêu cực và nguy hiểm cao trong xã hội,
được hình thành từ một thể thống nhất các tội phạm cụ thể, tồn tại trong một không
gian, thời gian xác định; hay tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội, pháp lý- hình
sự được thay đổi về mặt lịch sử, mang tính giai cấp bao gồm tổng thể thống nhất (hệ
thống) các tội phạm thực hiện trong một xã hội (quốc gia) nhất định và trong
khoảng thời gian nhất định; hoặc tình hình tội phạm là trạng thái, xu thế vận động
của các tội phạm hoặc nhóm tội phạm hoặc một loại tội phạm đã xảy ra trong đơn vị
không gian và thời gian xác định.
Về phần mình, NCS hoàn toàn đồng tình và sẽ vận dụng quan điểm cho rằng:
Tình hình tội phạm là trạng thái, xu thế vận động của các tội phạm hoặc nhóm tội
phạm hoặc một loại tội phạm đã xảy ra trong đơn vị không gian và thời gian xác
định . Theo đó, tình hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam được hiểu là trạng thái, xu
thế vận động của tội tham ô tài sản trên phạm vi toàn quốc trong khoảng thời gian
nghiên cứu là 10 năm, từ năm 2010 đến năm 2019. Tình hình tội tham ô tài sản ở
Việt Nam được thể hiện thông qua các nội dung hợp thành là thực trạng (bao gồm
thực trạng về mức độ và thực trạng về tính chất) và diễn biến (bao gồm diễn biến về
mức độ và diễn biến về tính chất) của loại tội phạm này trong khoảng thời gian từ
năm 2010 đến năm 2019.
1.2. Thực trạng của tội tham ô tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn
2010-2019
Thực trạng của tội phạm là tình trạng thực tế của tội phạm trong đơn vị
không gian và thời gian nhất định. Theo đó, thực trạng của tội tham ô tài sản ở Việt
Nam trong khoảng thời gian 10 năm, từ năm 2010 đến năm 2019 là tình trạng thực
7
tế của loại tội phạm này, được đánh giá qua các thông số định lượng và các thông số
định tính. Thực chất, đó chính là việc đánh giá thực trạng về mức độ và đánh giá
thực trạng về tính chất của tội tham ô tài sản ở nước ta trong thời gian từ năm 2010
đến năm 2019.
1.2.1. Thực trạng về mức độ của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn
2010-2019
1.2.1.1. Mức độ tội phạm rõ
Mức độ tội phạm rõ của tội tham ô tài sản được phản ánh qua tổng số vụ và
tổng số người phạm tội tham ô tài sản đã được phát hiện và xử lý, bao gồm cả số vụ
án và số người phạm tội đã được xét xử.
Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, trong thời gian từ năm
2010 đến năm 2019, tổng số vụ án và số người phạm tội tham ô tài sản ở Việt Nam
đã được xét xử sơ thẩm là 2.485 vụ/ 4.635 người phạm tội.
Để làm rõ hơn thực trạng về mức độ của tội tham ô tài sản, tác giả đã so sánh
số vụ và số người phạm tội trong giai đoạn nghiên cứu với thông số tương ứng
trước là từ năm 2000-2009; đồng thời cũng sử dụng thông số về chỉ số tội phạm và
chỉ số người phạm tội làm cơ sở để đánh giá tình hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam
giai đoạn 2010-2019; so sánh số vụ, số người phạm tội tham ô tài sản với tổng số
vụ, số người phạm tội của nhóm tội phạm tham nhũng.
1.2.1.2. Mức độ tội phạm ẩn
Tội phạm ẩn được hiểu là số lượng tội phạm và người phạm tội đã thực hiện
trên thực tế nhưng không được tường thuật với cơ quan có thẩm quyền hoặc chưa bị
phát hiện (một cách chính thức) và do vậy chưa bị xử lý về hình sự, chưa có trong
thống kê hình sự chính thức.
Trên cơ sở tỷ lệ chênh lệch giữa về số vụ, số bị can, bị cáo giữa các giai đoạn
tố tụng tác giả nhận thấy tỷ lệ ẩn của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 20102019 là khoảng từ 10% đến 30%.
1.2.2. Thực trạng về tính chất của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn
2010-2019
Thực trạng về tính chất là đặc điểm thứ hai phản ánh thực trạng của tội
phạm, được xác định trên cơ sở nghiên cứu các cơ cấu của tội phạm. Đặc điểm về
tính chất được coi là đặc điểm về mặt định tính của tội phạm.
Để đánh giá được đặc điểm về tính chất của tội tham ô tài sản ở nước ta giai
đoạn 2010-2019, cần phải dựa vào các cơ cấu khác nhau của tội tham ô tài sản, các
cơ cấu này lại được xác định theo tiêu thức nhất định mà phản ánh ở mức độ nhất
định tính chất của tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu. Theo
đó, thực trạng về tính chất của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019
được đánh giá trên cơ sở xác định cơ cấu bên trong của loại tội phạm này bao gồm:
Cơ cấu theo loại tội phạm; cơ cấu theo loại và mức hình phạt đã áp dụng; cơ cấu
8
theo hình thức thực hiện tội phạm; cơ cấu theo thủ đoạn phạm tội; cơ cấu theo hình
thức sở hữu của tài sản bị chiếm đoạt; cơ cấu theo loại và giá trị tài sản bị chiếm
đoạt; cơ cấu theo cấp quản lý của người có chức vụ, quyền hạn; cơ cấu theo ngành,
lĩnh vực hoạt động bị xâm hại; cơ cấu theo địa bàn thực hiện tội phạm; cơ cấu theo
động cơ phạm tội và cơ cấu theo một số đặc điểm nhân thân của người phạm tội.
Trên cơ sở nghiên cứu cơ cấu của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn
2010-2019 theo các tiêu thức khác nhau, tác giả đã rút ra một số nhận xét về tính
chất của tội phạm này như sau:
+ Tham ô tài sản là loại tội chiếm đa số trong nhóm tội phạm tham nhũng cả
về số vụ và số người phạm tội: So với các tội phạm tham nhũng, tội tham ô tài sản
chiếm 59,1% về số vụ và 56,8% về số người phạm tội. Đồng thời, so với Chương
các tội phạm về chức vụ, bao gồm cả nhóm tội phạm tham nhũng và nhóm các tội
phạm khác về chức vụ thì tham ô tài sản vẫn là loại tội phạm chiếm tỷ lệ cao (chiếm
38,5 về số vụ và 37,8% số người phạm tội).
+ Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá cơ cấu của tội tham ô tài sản theo hình
thức sở hữu của tài sản bị chiếm đoạt cho thấy: Hành vi phạm tội xảy ra nhiều và có
tính phổ biến hơn trong các doanh nghiệp có một phần vốn thuộc sở hữu nhà nước
(chiếm 65%).
+ Về phương diện cấp quản lý của người có chức vụ, quyền hạn cho thấy:
Tội tham ô tài sản xảy ra nhiều hơn ở các cơ quan, doanh nghiệp thuộc quyền quản
lý của chính quyền địa phương (chiếm 66,7%).
+ Từ việc đánh giá cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại tội phạm cho thấy:
Số người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng chiếm tỷ lệ rất cao (51,9 %) so với tổng số
người phạm tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu.
+ Loại hình phạt chủ yếu được áp dụng đối với người phạm tội tham ô tài
sản là tù có thời hạn (chiếm 78,1%); trong đó, các mức hình phạt tù phổ biến được
áp dụng là trên 7 năm đến 15 năm tù (39,3%) và trên 15 năm đến 20 năm tù
(21,2%).
+ Tội tham ô tài sản được thực hiện khá phổ biến dưới hình thức đồng phạm,
chiếm tỷ lệ 64,6%, trong đó đồng phạm có tổ chức chiếm 12,4%; số bị cáo trong
các vụ đồng phạm cũng tương đối nhiều, tính trung bình khoảng từ 4 đến 6 bị cáo/ 1
vụ đồng phạm.
+ Người phạm tội tham ô tài sản dùng nhiều thủ đoạn khác nhau để chiếm
đoạt tài sản mà họ có trách nhiệm quản lý. Những thủ đoạn phổ biến được người có
chức vụ, quyền hạn sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội là gian dối để thực hiện
hành vi chiếm đoạt (chiếm 36,7%) và gian dối để che đậy hành vi chiếm đoạt tài sản
(chiếm 37,2%).
+ Loại tài sản phổ biến mà người phạm tội tham ô tài sản chiếm đoạt là tiền,
chiếm tỷ lệ 68%, trong đó giá trị tiền bị chiếm đoạt ở mức đặc biệt lớn ngày càng
9
mang tính phổ biến, như: từ 200 triệu đồng đến dưới 50 tỷ đồng (chiếm 40%), đặc
biệt giá trị tiền bị chiếm đoạt ở mức từ 50 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng (chiếm 18%), từ
100 tỷ đồng trở lên (chiếm tỷ lệ 16,2%).
+ Tội tham ô tài sản xảy ra phổ biến hơn với một số lĩnh vực như: Quản lý,
sử dụng quỹ, ngân sách được cấp (chiếm tỷ lệ 21,2%); sản xuất kinh doanh trong
các doanh nghiệp nhà nước (chiếm tỷ lệ 17,6%); hoạt động ngân hàng, tín dụng
(chiếm 16,6%) và đầu tư, xây dựng cơ bản (chiếm tỷ lệ 15,9%); còn lại xảy ra rải
rác ở một số lĩnh vực khác.
+ Khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý,
người có chức vụ, quyền hạn thường xuất phát từ động cơ vụ lợi để thực hiện các
mong muốn cụ thể như muốn làm giàu nhanh chóng, chiếm tỷ lệ 36,3%; có tiền để
tiêu xài cá nhân, chiếm tỷ lệ 32,7%; có tiền để tham gia tệ nạn xã hội như đánh bạc,
chiếm tỷ lệ 18,2%.
+ Chức vụ, quyền hạn phổ biến của người phạm tội tham ô tài sản là kế toán
(chiếm tỷ lệ 15%), giám đốc (chiếm tỷ lệ 16,6%), cán bộ ngân hàng (chiếm tỷ lệ
19%). Từ tính chất phổ biến về loại chức vụ, quyền hạn của người phạm tội tham ô
tài sản cho thấy: Chức vụ, quyền hạn vừa là một trong những đặc điểm nhân thân
của người phạm tội, nhưng cũng vừa đồng thời là phương tiện được người phạm tội
lợi dụng để chiếm đoạt tài sản mà họ có trách nhiệm quản lý.
+ Độ tuổi phổ biến nhất của người phạm tội tham ô tài sản là từ 31 đến 40
tuổi, chiếm 36,2%; tiếp đến là độ tuổi từ 51 đến 60 tuổi, chiếm 24,1%; độ tuổi thấp
nhất của người phạm tội tham ô tài sản là 25 tuổi, độ tuổi cao nhất là 60 tuổi.
+ Mặc dù người phạm tội là nam giới chiếm tỷ lệ chủ yếu (77,5%), nhưng so
với các loại tội phạm khác trong cùng nhóm tội tham nhũng, thì người phạm tội
tham ô tài sản là nữ chiếm tỷ lệ tương đối cao (22,5%).
+ Trình độ văn hóa phổ biến của người phạm tội tham ô tài sản là trên trung
học
(gồm trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học), chiếm tỷ lệ 78,5% số người
phạm
tội được thống kê.
+ Hầu hết những người phạm tội tham ô tài sản là phạm tội lần đầu, chiếm tỷ
lệ 95%.
1.3. Diễn biến của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019
Diễn biến của tội phạm là sự thay đổi thực trạng của tội phạm theo thời gian
trong đơn vị thời gian xác định. Theo đó, diễn biến của tội tham ô tài sản ở Việt
Nam giai đoạn 2010-2019 là sự thay đổi thực trạng về mức độ và về tính chất của
tội tham ô tài sản theo từng năm trong khoảng thời gian 10 năm (2010-2019).
1.3.1. Diễn biến về mức độ của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn
2010-2019
10
Việc xác định diễn biến về mức độ tức là đánh giá xu hướng vận động và
mức độ vận động của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019 xét về
mức độ.
Trên cơ sở các thông số về mức độ của tội tham ô tài sản, bao gồm số vụ và
số người phạm tội theo từng năm trong khoảng thời gian từ năm 2010–2019, tác giã
đã khẳng định xu hướng và mức độ vận động của loại tội phạm này, đó là: Số vụ
phạm tội tham ô tài sản có chiều hướng giảm đều ở các năm của giai đoạn nghiên
cứu, với tỷ lệ giảm trong khoảng từ 2%- 28%, sau đó lại tăng vọt vào 2 năm cuối
của giai đoạn nghiên cứu là năm 2018 và 2019, với tỷ lệ tăng từ 27% - 40%; trong
khi đó, số người phạm tội tham ô tài có chiều hướng khi tăng, khi giảm, sau đó lại
tăng vọt vào những năm nửa sau của giai đoạn nghiên cứu là 2017, 2018 và 2019,
với tỷ lệ tăng trong khoảng 47% - 53%. Như vậy, tội tham ô tài sản giai đoạn 20102019 có diễn biến giảm đều trong nhiều năm, sau đó tăng vọt về số vụ vào những
năm cuối của giai đoạn nghiên cứu; khi tăng, khi giảm và tăng vọt vào những năm
nửa sau của giai đoạn nghiên cứu về số người phạm tội.
1.3.2. Diễn biến về tính chất của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn
2010-2019
Khi nghiên cứu diễn biến về tính chất của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai
đoạn 2010-2019, tác giả phải dựa vào các thông số được thống kê từ 585 bản án
hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân các cấp xét xử các bị cáo về tội tham ô tài sản.
Trên cơ sở những số liệu phản ánh rõ thực trạng của tội tham ô tài sản xét về tính
chất, tác giả đã phân tích làm rõ diễn biến về tính chất của tội tham ô tài sản ở Việt
Nam giai đoạn 2010-2019, cụ thể như sau:
1.3.2.1. Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo loại tội phạm
Tội nghiêm trọng có xu hướng giảm ở các năm, sau đó tăng vọt vào những
năm 2017, 2018 với tỷ lệ từ hơn 30 đến gần 60% so với năm gốc là năm 2010; tội
rất nghiêm trọng tăng đều ở các năm kế tiếp năm gốc là năm 2010 với tỷ lệ tăng
giao động từ 4% - 16,6%, sau đó lại giảm đều ở 3 năm tiếp theo với tỷ lệ giảm
nhiều nhất là 27,4% và tăng vọt vào các năm 2018, 2019 với tỷ lệ tăng cao nhất là
46,6%; so với năm gốc là năm 2010, tội đặc biệt nghiêm trọng tăng ở tất cả các
năm, trong đó tỷ lệ tăng thấp nhất là 5,9% và tỷ lệ tăng cao nhất là 94,1%.
1.3.2.2. Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo hình thức thực hiện tội
phạm
Tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2019 chủ yếu
được thực hiện dưới hình thức đồng phạm, chiếm 64,6% số vụ án được thống kê
trong giai đoạn nghiên cứu; số vụ án được thực hiện với hình thức phạm tội riêng lẻ
chỉ chiếm tỷ lệ nhất định là 35,4 %. Trong đó, số vụ án được thực hiện với hình
thức phạm tội riêng lẻ có xu hướng ngày càng giảm so với số liệu của năm gốc là
11
năm 2010; còn số vụ được thực hiện với hình thức đồng phạm thì lại có xu hướng
tăng thường xuyên và tăng mạnh ở những năm nửa sau của giai đoạn nghiên cứu.
1.3.2.3. Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo hình thức sở hữu của tài
sản bị chiếm đoạt
Số vụ án tham ô tài sản xảy ra ở các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước có xu
hướng ngày càng giảm so với năm gốc 2010, trong khi đó tỷ lệ vụ án tham ô tài sản
xảy ra trong các doanh nghiệp có một phần vốn của nhà nước lại có xu hướng ngày
càng tăng so với năm gốc là năm 2010.
1.3.2.4. Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo loại và giá trị tài sản bị
chiếm đoạt
so với năm gốc là năm 2010 thì loại tài sản bị chiếm đoạt là tiền có xu hướng
tăng với tỷ lệ rất cao ở những năm sau, trong đó tỷ lệ tăng cao nhất là 407,6% so với
năm gốc; đối với loại tài sản bị chiếm đoạt là các tài sản khác như vật liệu xây
dựng, than, thóc…thì lại có xu hướng giảm ở những năm sau so với năm gốc, trong
đó tỷ lệ giảm sâu nhất là 66,7%. Từ đó ta có thể nhận thấy tiền là loại tài sản bị
chiếm đoạt ngày càng có tính phổ biến cao trong các vụ án tham ô tài sản ở Việt
Nam. Đây cũng là một trong những đặc điểm cần được các chủ thể có chức năng
phòng ngừa quan tâm để đưa ra biện pháp phù hợp trong việc quản lý loại tài sản
này, nhằm loại trừ hoặc hạn chế nguy cơ bị chiếm đoạt bởi một bộ phận người có
chức vụ, quyền hạn.
1.3.2.5. Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo cấp quản lý của người
có chức vụ, quyền hạn
Số vụ án tham ô tài sản xảy ra ở cấp trung ương diễn biến theo xu hướng
ngày càng giảm và giảm ở tỷ lệ đáng kể so với năm gốc là năm 2010, tỷ lệ giảm cao
nhất là 40,8%; trong khi đó số vụ án tham ô tài sản xảy ra ở các cơ quan địa phương
lại diễn biến với xu hướng tăng và tăng với tỷ lệ rất cao so với năm gốc là năm
2010, tỷ lệ tăng cao nhất là 407,6%.
1.3.2.6. Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo đặc điểm phạm tội lần
đầu hay tái phạm, tái phạm nguy hiểm của người phạm tội
Số người phạm tội lần đầu có xu hướng giảm đều ở tất cả các năm trong giai
đoạn nghiên cứu so với năm gốc là năm 2010; trong khi đó, số người tái phạm và
tái phạm nguy hiểm lại có xu hướng tăng ở tất cả các năm trong giai đoạn nghiên
cứu so với năm gốc.
CHƯƠNG 2. NGUYÊN NHÂN CỦA TỘI THAM Ô TÀI SẢN
2.1. Vấn đề chung về nguyên nhân của tội phạm
Nguyên nhân của tội phạm là một trong những đối tượng nghiên cứu của tội
phạm học nói chung cũng như của hầu hết các công trình nghiên cứu vấn đề cụ thể
của tội phạm học. Khi nghiên cứu một nhóm tội hay một tội phạm cụ thể dưới góc
độ tội phạm học, việc nghiên cứu để xác định những yếu tố được coi là nguyên
12
nhân của tội phạm là việc làm không thể thiếu, tạo cơ sở cần thiết cho việc đưa ra
được các biện pháp phù hợp với yêu cầu thực tiễn, để hạn chế hoặc có thể loại trừ
sự tác động của các yếu tố đó đối với việc phát sinh tội phạm trong phạm vi nghiên
cứu. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, còn tồn tại các quan niệm khác nhau về
nguyên nhân của tội phạm. Các quan niệm khác nhau này, trước hết thể hiện ở việc
dùng các khái niệm khác nhau để chỉ các yếu tố làm phát sinh tội phạm, chẳng hạn
như: Khái niệm “nguyên nhân và điều kiện của tội phạm”; “nguyên nhân và điều
kiện của tình hình tội phạm”; “nguyên nhân của tình hình tội phạm” và phân biệt
với khái niệm “điều kiện của tình hình tội phạm”; khái niệm “nguyên nhân của tội
phạm”.
Về phần mình, NCS đồng ý với quan điểm của các tác giả cho rằng nguyên
nhân của tội phạm là tổng hợp các yếu tố, mà sự tác động qua lại giữa các yếu tố
đưa đến việc thực hiện tội phạm của người phạm tội. Theo đó, nguyên nhân của tội
tham ô tài sản là tổng hợp các yếu tố, mà sự tác động qua lại giữa các yếu tố đó đưa
đến việc người có chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà họ được giao quản lý.
2.2. Nguyên nhân của tội tham ô tài sản giai đoạn 2010 – 2019
2.2.1. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà
nước
Thực tế cho thấy, tổ chức bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế
còn cồng kềnh, nhiều khâu, tầng trung gian; việc xác lập chức năng, nhiệm vụ giữa
các cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị kinh tế chưa rõ ràng, hoặc chồng chéo, thiếu
cơ chế phối hợp cụ thể, dẫn đến hậu quả là một vụ việc có thể có nhiều cơ quan có
quyền quản lý nhưng lại thiếu một cơ quan chịu trách nhiệm chính. Đây chính là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng
những kẽ hở của sự chồng chéo hoặc sự phân định không rõ ràng về chức năng,
nhiệm vụ để chiếm đoạt tài sản mà họ được giao quản lý. Tuy nhiên, không phải
mọi hạn chế, bất cập trong tổ chức, quản lý nhà nước đều là nguyên nhân làm phát
sinh tội tham ô tài sản, mà chỉ những hạn chế, bất cập liên quan trực tiếp hoặc có
mức độ liên quan nhất định đến cơ chế, tổ chức, hoạt động của cơ quan, tổ chức,
đơn vị kinh tế nhà nước trong việc quản lý, sử dụng tài sản ở các lĩnh vực khác nhau
và dưới các hình thức khác nhau, cụ thể:
2.2.1.1. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước
đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn
kinh tế, bao gồm những hạn chế sau:
Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước được tổ chức với cấu trúc cồng kềnh,
nhiều tầng, nấc trung gian.
Hoạt động tổ chức, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế
nhà nước còn bị buông lỏng.
13
Việc nhà nước dành sự ưu tiên quá mức cần thiết đối với doanh nghiệp nhà
nước là một trong những yếu tố tạo ra tiêu cực trong hoạt động tổ chức, quản lý nhà
nước đối với doanh nghiệp nhà nước.
Việc Nhà nước trao cho doanh nghiệp nhà nước được quyền kinh doanh đa
ngành, đa lĩnh vực, thừa nhận hình thức sở hữu chéo giữa các doanh nghiệp, tập
đoàn kinh tế nhà nước, đã tạo ra yếu tố làm phát sinh hành vi tham ô tài sản của một
số người có chức vụ, quyền hạn trong lĩnh vực này.
Việc nhà nước quá coi trọng các thủ tục hành chính khi thành lập doanh
nghiệp nhưng sau khi doanh nghiệp được thành lập lại buông lỏng quản lý hoạt
động sản xuất, kinh doanh dẫn đến tình trạng người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng
để chiếm đoạt tài sản mà họ được giao quản lý.
Luật doanh nghiệp năm 2014 chưa bao quát hết các đối tượng cần kiểm soát,
nên thiếu cơ sở pháp lý để ngăn ngừa một cách kín kẽ các giao dịch có nguy cơ tư
lợi trong doanh nghiệp.
2.2.1.2. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước
đối với hoạt động mua sắm công; quản lý, sử dụng quỹ, ngân sách, bao gồm những
hạn chế sau:
Chưa thiết lập được cơ chế quản lý chặt chẽ đối với hoạt động mua sắm
công, quản lý quỹ, ngân sách được cấp nên người có chức vụ, quyền hạn đã lợi
dụng sự hạn chế này để chiếm đoạt tài sản mà họ được giao quản lý.
Một số hạn chế của pháp luật về đấu thầu cũng góp phần làm phát sinh, gia
tăng số vụ tham ô tài sản trong lĩnh vực này.
Một số bất cập của Luật ngân sách cũng tạo ra kẽ hở để người có chức vụ,
quyền hạn lợi dụng để chiếm đoạt tài sản khi họ được giao trong quản lý quỹ, ngân
sách được cấp. Chẳng hạn như, tại Điều 58 luật ngân sách nhà nước năm 2015 quy
định biện pháp xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước, nhưng lại không có
quy định về việc xử lý tình trạng dư tạm thời quỹ ngân sách nhà nước. Sự thiếu sót
này đã dẫn đến tình trạng khi ngân sách dự toán dư thừa, người có chức vụ, quyền
hạn dễ dàng lợi dụng để lập khống hóa đơn, chứng từ quyết toán và chiếm đoạt
khoản dư của quỹ ngân sách.
2.2.1.3. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước
đối với hoạt động quản lý đất đai, bao gồm những hạn chế sau:
Các cơ quan nhà nước theo phân cấp quản lý vừa có quyền quyết định về đất
đai với tư cách là đại diện chủ sở hữu, vừa có quyền quyết định về quản lý đất đai
với tư cách là cơ quan quản lý của nhà nước; quy định lồng ghép này đã bị người có
chức vụ, quyền hạn lợi dụng để chiếm đoạt các lợi ích thu được từ đất đai.
Luật đất đai năm 2013 thừa nhận cơ chế đổi đất lấy hạ tầng dưới hình thức
các dự án xây dựng, chuyển giao là một trong những yếu tố tiềm ẩn nguy cơ tham ô
tài sản từ hoạt động này.
14
2.2.1.4. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước
đối với hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, tín dụng, bao gồm những hạn chế sau:
Quy định về điều kiện cấp phép hoạt động đối với ngân hàng thương mại, tổ
chức tín dụng chưa đảm bảo tính công khai, minh bạch dẫn đến tình trạng các ngân
hàng thương mại và tổ chức tín dụng được thành lập khá ồ ạt, một số người có chức
vụ, quyền hạn đã lợi dụng để chiếm đoạt tài sản.
Một số văn bản dưới luật quy định về quản lý đối với hoạt động cho vay,
nhận tiền gửi tại các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng còn lỏng lẻo hoặc
không rõ ràng nên thực tế một số người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng để chiếm
đoạt tài sản của ngân hàng, tổ chức tín dụng.
Hoạt động tổ chức, quản lý trong lĩnh vực ngân hàng, tín dụng còn lỏng lẻo,
chưa đáp ứng yêu cầu thực tế cũng là nguyên nhân tác động không nhỏ đến sự phát
sinh, gia tăng tội tham ô tài sản ở nước ta trong những năm gần đây.
Hệ thống ngân hàng thương mại và các chi nhánh phát triển một cách ồ ạt về
số lượng, không có quy hoạch, hoạt động bộc lộ nhiều sơ hở, do bị chi phối bởi sức
ép lợi nhuận nên đã nới lỏng điều kiện tín dụng là một trong những nguyên nhân
làm phát sinh tội tham ô tài sản trong lĩnh vực này.
2.2.1.5. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước
đối với hoạt động đầu tư, xây dựng, bao gồm những hạn chế sau:
Quy định về phân bổ vốn đầu tư, quản lý ngân sách có phần chưa hợp lý nên
đã tạo kẽ hở để người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng để chiếm đoạt tài sản khi
được giao trực tiếp quản lý, sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách.
Luật đấu thầu năm 2013 quy định về những trường hợp được phép chỉ định
thầu, nhưng thực tế phạm vi chỉ định còn khá rộng, trong khi chưa có cơ chế giám
sát chặt chẽ việc thực hiện chế định chỉ định thầu, chưa có văn bản hướng dẫn cụ
thể, nên đã tạo ra những yếu tố tiêu cực để người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng để
chiếm đoạt tài sản khi được giao trách nhiệm quản lý, sử dụng ngân sách chi cho
đầu tư, xây lắp, mua sắm công.
Công tác quản lý vốn đầu tư còn lỏng lẻo, chẳng hạn như hoạt động giám sát
đối với công tác lập, thẩm định, phê duyệt dự án, phân bổ vốn đầu tư, quyết định
đầu tư và thực hiện các dự án đầu tư chưa được thực hiện chặt chẽ; do chủ thể thực
hiện hoạt động giám sát và chủ thể bị giám sát đều do một cơ quan, hoặc bộ, ngành
quản lý nên chưa đủ yếu tố đảm bảo tính khách quan, minh bạch của hoạt động
giám sát, dẫn đến hoạt động giám sát đầu tư, xây dựng còn mang tính thủ tục, chưa
thực sự phát huy tác dụng đối với việc phòng ngừa tham ô tài sản trong lĩnh vực này
2.2.2. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế của công tác cán bộ
2.2.2.1. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong hoạt động quy hoạch, đề
bạt, bổ nhiệm, sử dụng cán bộ, bao gồm những hạn chế sau:
15
Đối với việc quy hoạch cán bộ: Ở một số ngành, địa phương chưa lấy việc
đánh giá cán bộ làm tiêu chí chủ yếu, chưa xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ và năng
lực thực tiễn của cán bộ, chưa gắn quy hoạch với đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ dẫn
đến việc quy hoạch còn mang tính hình thức, thiếu tính khả thi, chất lượng quy
hoạch còn thấp, cơ cấu quy hoạch chưa cân đối về trình độ, ngành nghề đào tạo,
chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Đối với việc bổ nhiệm cán bộ: Việc bổ nhiệm chức danh lãnh đạo, quản lý
thông qua nguồn thi tuyển còn chưa đảm bảo tính công khai, thiếu khách quan và
chưa thật sự công bằng.
2.2.2.2. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong công tác quản lý, đánh giá
cán bộ, bao gồm những hạn chế sau:
Công tác quản lý cán bộ đã bộc lộ nhiều sơ hở, yếu kém do còn bị chi phối,
tác động bởi nhiều mối quan hệ liên quan đến lợi ích vật chất.
Cách thức quản lý cán bộ còn quá coi trọng lý lịch, truyền thống gia đình,
quản lý trên hồ sơ, bằng cấp, mà coi nhẹ việc quản lý chính trị hiện tại của mỗi cán
bộ, dẫn đến tình trạng không kịp thời phát hiện cán bộ suy thoái về đạo đức, lối
sống, lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để chiếm đoạt tài sản của nhà nước.
Việc quản lý tài sản, thu nhập của người giữ chức vụ quản lý, lãnh đạo trong
các cơ quan, đơn vị kinh tế nhà nước vẫn là hoạt động yếu kém nhất trong công tác
quản lý cán bộ.
Đánh giá cán bộ vẫn là một khâu yếu, còn tồn tại nhiều hạn chế nên kết quả
đánh giá chưa thực sự phản ảnh đúng năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức của
cán bộ.
Việc đánh giá cán bộ vào cuối năm công tác hoặc trước khi đề bạt, bổ nhiệm
còn mang tính hình thức để hoàn thiện thủ tục trong hồ sơ cán bộ, mà chưa được coi
là một kênh, một phương diện để có thể kịp thời phát hiện ra những sai phạm, yếu
kém trong quá trình thực thi công vụ, nhiệm vụ được giao của cán bộ, công chức.
Trong khi đó, kết quả đánh giá cán bộ lại được coi là một trong những tiêu chí căn
bản khi xem xét bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý đối với cán bộ.
2.2.2.3. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong chính sách tiền lương,
phụ cấp đối với người có chức vụ, quyền hạn, bao gồm những hạn chế sau:
Chính sách tiền lương còn bất hợp lý; phần lớn cán bộ, công chức không đủ
sống từ lương, trong đó một bộ phận cán bộ thiếu bản lĩnh, thiếu tu dưỡng, thoái
hóa biến chất đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao chiếm đoạt tài sản của nhà
nước để thỏa mãn nhu cầu vật chất.
Chế độ đãi ngộ đối với người tài, người có năng lực, trình độ chuyên môn
cao cũng còn nhiều hạn chế, chưa tạo động lực để khuyến khích khả năng, trình độ
của họ vào hiệu quả công vụ; chế độ phụ cấp còn mang tính cào bằng, chưa tương
xứng với tính chất của những nhiệm vụ được giao mang tính đặc thù.
16
2.2.3. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong hoạt động tuyên truyền,
giáo dục pháp luật
2.2.3.1. Hạn chế trong việc xác định nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp
luật
Nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật thường mới chỉ tập trung vào một
số quy định của Luật phòng, chống tham nhũng, mà chưa đề cập đến những quy
định cần thiết của các văn bản pháp luật đối với từng ngành, lĩnh vực cụ thể.
Nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật chưa được lồng ghép với các hoạt
động mang tính thực tiễn nên hiệu quả thu được chưa đáp ứng yêu cầu thực tế.
2.2.3.2. Hạn chế trong việc xác định đối tượng tuyên truyền, giáo dục pháp
luật
Việc xác định đối tượng được tuyên truyền, giáo dục pháp luật còn mang
tính dàn chải, chung chung là hướng tới tất cả các tầng lớp nhân dân nói chung, mà
chưa có sự chọn lọc, phân loại đối tượng để có sự ưu tiên ở các mức độ khác nhau
khi thực hiện hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật về chống và phòng ngừa
tội tham ô tài sản.
Việc xác định đối tượng tuyên truyền, giáo dục pháp luật còn có sự đánh
đồng giữa những cá nhân, công dân ở tất cả các lĩnh vực khác nhau với những cán
bộ, công chức, người lao động trong các cơ quan, đơn vị kinh tế nhà nước; chưa có
sự phân loại theo nhóm đối tượng dựa trên những tiêu chí khác nhau, để từ đó có
những nội dung tuyên truyền, giáo dục cho phù hợp với từng nhóm đối tượng.
2.2.3.3. Hạn chế về hình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng,
chống tham nhũng
Hình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật phòng, chống các tội phạm về
tham nhũng nói chung và tội tham ô tài sản nói riêng còn đơn điệu, chưa có sự phân
loại các nhóm đối tượng để lựa chọn hình thức tuyên truyền cho phù hợp, nên hiệu
quả tuyên truyền còn rất hạn chế.
2.2.4. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong hoạt động phát hiện và
xử lý tội tham ô tài sản
2.2.4.1. Hạn chế trong hoạt động phát hiện tội tham ô tài sản
Việc phát hiện tội phạm chưa kịp thời vẫn là một trong những yếu tố có sức
tác động đáng kể đến hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản, hay đó chính là yếu tố
góp phần làm phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản.
2.2.4.2. Hạn chế trong hoạt động khởi tố vụ án, khởi tố bị can
Hạn chế trong hoạt động khởi tố vụ án, bị can được thể hiện ở tỷ lệ khởi tố
vụ án, khởi tố bị can còn thấp so với số lượng tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị
khởi tố: Trong khoảng thời gian 10 năm từ năm 2010 đến năm 2019, số tin báo, tố
giác tội phạm, kiến nghị khởi tố phải giải quyết là 4505 việc/ 8276 người; trong khi
17
đó số vụ án, số bị can khởi tố trong cùng thời điểm là 2796 vụ, chiếm 62% và 5030
bị can, chiếm 60,7% so với số việc và số người bị kiến tố giác, kiến nghị khởi tố.
2.2.4.3. Hạn chế trong quá trình giải quyết vụ án tham ô tài sản
Việc giải quyết các vụ án tham ô tài sản còn bị kéo dài do những yếu tố sau:
Việc thu thập tài liệu, chứng cứ thường gặp nhiều khó khăn do đã bị tiêu hủy, che
giấu, hoặc hợp thức hóa bằng các thủ tục thanh, quyết toán; hoạt động giám định
còn mất nhiều thời gian, sự phối hợp giữa các bộ, ngành chưa được chặt chẽ; sự
thiếu thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật giữa các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng các vụ án tham ô tài sản.
2.2.4.4. Hạn chế trong việc xác định mức độ trách nhiệm hình sự của người
phạm tội
Việc Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân các cấp xác định mức độ
trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo trong các vụ án tham ô tài sản còn có
phần chưa đảm bảo tương xứng với tính chất của hành vi, mức độ hậu quả do bị cáo
gây ra. Điều này không chỉ làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật đối
với bản thân bị cáo, mà còn tạo ra những tác động tiêu cực trong việc phòng ngừa
chung, nhất là đối với những vụ án được dư luận xã hội quan tâm do tình trạng này
đã tạo ra những phản ứng, bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân, làm xói
mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Nhưng quan trọng hơn, nếu
để tình trạng này xảy ra phổ biến, sẽ trở thành một trong những yếu tố xã hội tiêu
cực góp phần làm phát sinh tội tham ô tài sản trên thực tế.
2.2.4.5. Hạn chế trong việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt
Việc thu hồi tài sản trong các vụ án tham ô tài sản còn rất hạn chế, cũng là
một trong những yếu tố làm giảm hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản,
vì yêu cầu của chống, phòng ngừa tham nhũng nói chung và tham ô tài sản nói riêng
là phải làm triệt để việc thu hồi tài sản.
2.2.5. Nguyên nhân từ phía người phạm tội
Thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham ô tài sản những
năm gần đây cho thấy những yếu tố tiêu cực có tác động nhất định đến đặc điểm
tâm lý tiêu cực của người có chức vụ, quyền hạn, làm cho tính hám lợi trỗi dậy, dẫn
đến việc họ chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý, những yếu tố đó là:
2.2.5.1. Thói ăn chơi xa xỉ, thể hiện đẳng cấp của một bộ phận người có
chức vụ, quyền hạn
Đây là hiện tượng xã hội tiêu cực mới xuất hiện trong giới quan chức những
năm gần đây; thể hiện lối sống xa hoa, hưởng lạc, sử dụng những tài sản như biệt
thự, biệt phủ, xe, đồng hồ có giá trị nhiều chục tỷ đồng hoặc chi những khoản tiền
đặc biệt lớn vào các dịch vụ giải trí, phục vụ nhu cầu cá nhân để khẳng định đẳng
cấp thượng lưu của một bộ phận người có chức vụ, quyền hạn. Tuy nhiên, để làm
được những điều đó thì bộ phận quan chức đó phải có một lượng tiền rất lớn. Đó
18
chính là căn nguyên làm trỗi dậy lòng tham, tính hám lợi trong bản ngã của họ và là
yếu tố thôi thúc họ sử dụng chức vụ, quyền hạn như một phương tiện để chiếm đoạt
tài sản mà họ được giao quản lý.
2.2.5.2. Đề cao lợi ích vật chất, khao khát làm giàu nhanh chóng
Do xuất phát từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống nên khi
người có chức vụ, quyền hạn được giao quản lý tài sản của nhà nước, của tổ chức,
họ mới nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản đó nhằm phục vụ, thỏa mãn các lợi ích
khác nhau của bản thân họ.
2.2.5.3. Đặc tính tham lam, tư lợi
Thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham ô tài sản cho thấy
lòng tham và tính tư lợi được coi là yếu tố tiêu cực có vai trò thường trực trong việc
hình thành nguyên nhân từ phía người phạm tội.
CHƯƠNG 3. CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG
NGỪA TỘI THAM Ô TÀI SẢN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN
TỚI
3.1. Đánh giá hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong
những năm vừa qua
Đánh giá hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản trong những năm vừa qua
là cơ sở để thấy những kết quả đã đạt được, cũng như những hạn chế cần khắc phục
của hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản, từ đó đưa ra các biện pháp cần thiết để
nâng cao hiệu quả phòng ngừa loại tội phạm này ở nước ta trong thời gian tới.
Hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản trong những năm qua đã đạt được
những kết quả đáng kể về xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật;
các biện pháp phòng, chống tham nhũng trong đó có tham ô tài sản được đẩy mạnh
thực hiện. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn những hạn chế làm ảnh hưởng đến
hiệu quả phòng ngừa như: Các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về phòng, chống loại
tội phạm này chưa được thể chế hóa một cách kịp thời; các biện pháp phòng ngừa
tội tham ô tài sản chưa được thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất; chưa có cơ
chế gắn trách nhiệm của các chủ thể phòng ngừa với hiệu quả của hoạt động phòng
ngừa; các hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật, phát hiện, xử lý người phạm
tội tham ô tài sản còn có những hạn chế nhất định; vai trò của các tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị, xã hội và truyền thông chưa được phát huy tối đa...
3.2. Dự báo tình hình tội tham ô tài sản
Trên cơ sở mức tăng, giảm bình quân giai đoạn 2010-2019, tác giả có thể dự
báo, đánh giá số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản ở Việt Nam từ năm 2021
đến năm 2030 như sau: Về thực trạng, số vụ phạm tội tham ô tài sản sẽ có mức tăng
bình quân trong khoảng 40% đến 60% và số người phạm tội tham ô tài sản sẽ có
mức tăng bình quân trong khoảng từ 55% đến 70%. Về diễn biến, số vụ phạm tội
19
tham ô tài sản sẽ có chiều hướng khi tăng, khi giảm, trong đó số vụ phạm tội sẽ có
tỷ lệ giảm giao động trong khoảng từ 3% đến 30% và tỷ lệ tăng giao động trong
khoảng từ 3% đến 50%; số người phạm tội sẽ có tỷ lệ giảm giao động trong khoảng
từ 1,5% đến 6% và sẽ tăng giao động trong khoảng từ 3% đến 60%.
3.3. Các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản ở
Việt Nam trong thời gian tới
3.3.1. Nhóm biện pháp liên quan đến tổ chức, quản lý nhà nước
3.3.1.1. Đổi mới cách thức tổ chức, quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh
trong các doanh nghiệp có vốn nhà nước, tập đoàn kinh tế, cụ thể:
Trước tiên, phải cải tiến cơ cấu tổ chức cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế
Tiếp theo, cần phải đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, tập đoàn
kinh tế nhà nước
Thứ ba là biện pháp thu hẹp phạm vi đặc quyền ưu tiên đối với doanh
nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước
Thứ tư là biện pháp cần tập trung phát triển doanh nghiệp theo chiều sâu
Thứ năm là biện pháp hoàn thiện một số quy định của Luật doanh nghiệp
năm 2014
3.3.1.2. Đổi mới tổ chức, quản lý nhà nước đối với hoạt động mua sắm công;
quản lý, sử dụng quỹ, ngân sách
Thường xuyên thực hiện việc chuyển đổi vị trí công tác trong các lĩnh vực
này, theo đó cần ấn định thời gian để thực hiện việc luân chuyển vị trí công tác đối
với những người có chức vụ, quyền hạn trong lĩnh vực này là từ 12 đến 18 tháng.
Xây dựng cơ chế mua sắm, quản lý quỹ, ngân sách phù hợp dựa trên sự minh
bạch, cạnh tranh và tiêu chí khách quan trong khâu ra quyết định, giúp phòng ngừa
tội tham ô hiệu quả.
Áp dụng những tiêu chuẩn khách quan và định trước đối với việc quyết định
mua sắm, hỗ trợ cho việc xác minh hoạt động mua sắm.
Thực hiện nghiêm túc cơ chế công khai, minh bạch trong các hoạt động mua
sắm công, quản lý, sử dụng quỹ, ngân sách được giao theo đúng quy định của Luật
phòng, chống tham nhũng và các văn bản luật chuyên ngành.
Luật ngân sách nhà nước năm 2015 cần bổ sung quy định biện pháp xử lý
tình trạng tạm dư quỹ ngân sách nhà nước.
3.3.1.3. Đổi mới tổ chức, quản lý nhà nước về đất đai
Siết chặt hơn nữa các hoạt động quản lý nhà nước về đất đai; đổi mới cơ
chế quản lý nhà nước về đất đai; xóa bỏ các hình thức xây dựng cơ sở hạ tầng, sau
đó chuyển giao quyền sử dụng đất.
Sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật đất đai năm 2013 theo hướng:
Quy định rõ ràng để phân biệt nội dung thẩm quyền của đại diện chủ sở hữu tài
nguyên đất với thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai; trong đó, thẩm
20
quyền quản lý nhà nước về đất đai thực hiện theo sự phân cấp như hiện nay, còn
thẩm quyền quyết định về đất đai với tư cách là chủ sở hữu cần được giao cho cơ
quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh với sự giám sát chung của Bộ tài
nguyên và môi trường.
3.3.1.4. Đổi mới tổ chức, quản lý nhà nước trong hoạt động ngân hàng, tín
dụng
Ngân hàng nhà nước cần tăng cường hơn nữa hoạt động quản lý, điều hành
vĩ mô, thanh tra, kiểm tra đối với hệ thống ngân hàng thương mại.
Cần thiết phải tăng cường chế độ bảo mật thông tin, đảm bảo an ninh các dữ
liệu giao dịch thông qua việc thiết lập mạng lưới quản lý, áp dụng công nghệ hiện
đại.
Hoàn thiện một số quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 sửa đổi,
bổ sung năm 2017 theo hướng: Bổ sung điều khoản quy định bảo đảm sự minh bạch
trong hoạt động của các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng; tại các điều 20, 21
của luật này cần quy định giảm bớt vai trò của quản lý hành chính, đồng thời bổ
sung quy định đảm bảo sự minh bạch trong hoạt động cấp phép cho các ngân hàng
thương mại, tổ chức tín dụng.
Hoàn thiện các văn bản dưới luật quy định về quản lý đối với hoạt động cho
vay, nhận tiền gửi tại các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng để đảm bảo sự
kiểm soát chặt chẽ giữa các khâu, các hoạt động.
3.3.1.5. Đổi mới tổ chức, quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư, xây
dựng
Siết chặt hoạt động giám sát đối với công tác lập, thẩm định, phê duyệt dự
án, phân bổ vốn đầu tư, quyết định đầu tư và thực hiện các dự án đầu tư thông qua
việc đổi mới cơ chế giám sát đầu tư, thực hiện dự án.
Đẩy mạnh thực hiện việc thoái vốn, cổ phần hóa các công ty, thiết kế, giám
sát, công ty xây lắp đang tồn tại dưới sự quản lý của các bộ, ngành, Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh với tư cách là chủ sở hữu nhà nước.
Hoàn thiện một số quy định của Luật đầu tư công năm 2014 như: Bộ kế
hoạch đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ tài chính và các cơ quan liên quan trong việc
thẩm định chủ trương đầu tư, thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn đầu tư;
bổ sung điều khoản quy định cụ thể về căn cứ, tiêu chuẩn, định mức phê duyệt tổng
mức đầu tư các dự án; quy định cụ thể trình tự, thủ tục, định mức đối với các trường
hợp tăng, giảm quy mô thực hiện dự án, tăng, giảm tổng mức đầu tư chương trình,
dự án; thu hẹp phạm vi các trường hợp kéo dài thời gian thực hiện dự án, kéo dài
thời hạn giải ngân vốn đầu tư.
Thu hẹp phạm vi các trường hợp chỉ định nhà thầu tại Điều 22 Luật đấu thầu
năm 2013
3.3.2. Nhóm biện pháp liên quan đến công tác cán bộ
- Xem thêm -