Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng ở việt nam luận văn ths. luật...

Tài liệu Phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng ở việt nam luận văn ths. luật

.PDF
130
539
66

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG ANH TUYÊN Phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam luận văn thạc sỹ luật học Chuyên ngành: Luật hình sự Mã số: 5.05.14 Người hướng dẫn khoa học : GS. TS. Đỗ Ngọc Quang Hà Nội - năm 2005 1 Mục lục Mục lục Nội dung trang Lời mở đầu 1 Chươn Nhận thức chung về phòng ngừa các tội phạm g1 về tham nhũng. 1.1 Nhận thức chung về các tội phạm về tham nhũng 6 1.1.1 Khái niệm các tội phạm về tham nhũng 6 1.1.2 Lịch sử phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm về tham nhũng 6 11 1.1.3 Các dấu hiệu pháp lý về các tội phạm về tham nhũng 26 1.2 Lý luận phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng 32 1.2.1 1.2.2 Chươn g2 2.1 2.1.1 2.1.2 2.1.3 2.2 Cơ sở xây dựng các biện pháp phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng 32 Các biện pháp phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng 34 Thực trạng phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam 40 Tình hình các tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2004 Số liệu tình hình các tội phạm về tham nhũng Những đặc điểm nhân thân của những người phạm cá tội phạm về tham nhũng Nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm về tham nhũng Tình hình tổ chức các biện pháp phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng 40 40 53 57 75 Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng các biện pháp phòng 2.2.1 ngừa tội phạm và tình hình tổ chức phòng ngừa tội phạm hiện 75 nay ở nước ta. 2.2.2 Những kết quả đạt được trong tổ chức các biện pháp phòng 2 77 ngừa các tội phạm về tham nhũng 2.2.3 2.2.4 Những tồn tại, thiếu sót trong tổ chức các biện pháp phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng Nguyên nhân của những tồn tại, thiếu sót trong tổ chức các biện pháp phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng Chươn Nâng cao hiệu quả tổ chức phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng g3 ở Việt Nam 3.1 3.1.1 3.1.2 3.2 Một số dự báo tình hình các tội phạm về tham nhũng ở nước ta đến năm 2010 Những yếu tố có ảnh hưởng đến tình hình tội phạm tham nhũng đến năm 2010 Diễn biến tình hình tội phạm tham nhũng đến năm 2010 Nâng cao hiệu quả tổ chức các biện pháp phòng ngừa chung 81 83 87 87 87 89 90 3.2.1 Các biện pháp pháp luật 90 3.2.2 Các biện pháp về cơ chế, chính sách 93 3.2.3 Các biện pháp quản lý nhà nước về kinh tế 96 3.2.4 Các biện pháp thanh tra, kiểm tra, giám sát 98 3.2.5 Các biện pháp cải cách hành chính 100 3.3 3.3.1 3.3.2 Nâng cao hiệu quả tổ chức các biện pháp phòng ngừa riêng đối với cán bộ, công chức Các biện pháp quản lý cán bộ, công chức Các biện pháp quản lý thu nhập và kê khai tài sản của cán bộ, công chức 101 101 104 3.3.3 Các biện pháp giám sát của xã hội 107 3.4 Các biện pháp khác 111 3.4.1 Thành lập cơ quan chuyên trách chống tham nhũng 111 Kết luận 114 Danh mục tài liệu tham khảo 116 3 Lời mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Tham nhũng hiện nay là vấn đề bức xúc, nhức nhối và hết sức lo ngại của tất cả những nhà lãnh đạo, những người cầm quyền và toàn thể nhân dân không chỉ của Việt Nam mà ở hầu hết các nước trên thế giới. Tại Việt Nam, tham nhũng là mối quan tâm lớn nhất và thường xuyên của Đảng và Nhà nước, bởi nó vẫn ở mức độ trầm trọng, phức tạp, gây thiệt hại không những về tiền bạc, tài sản cho Nhà nước, xã hội mà nó còn làm tha hóa đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan, tổ chức xã hội liên quan đến cả cán bộ cao cấp, giữ cương vị chủ chốt trong các cơ quan của Đảng và của Nhà nước, làm xói mòn lòng tin của nhân dân, trực tiếp cản trở, đe dọa công cuộc phát triển của đất nước ta. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định: “Tham nhũng là một trong những nguy cơ cản trở công cuộc đổi mới, tham nhũng là giặc nội xâm, là quốc nạn”. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm và tập trung đấu tranh với các tội phạm về tham nhũng nhưng hiệu quả đạt được chưa cao, các cơ quan chức năng đã phát hiện, khám phá hàng ngàn vụ án với số tiền phạm pháp lên đến hàng tỷ đồng. Tuy nhiên, số vụ bị phát hiện và xử lý so với số vụ xảy ra mới chỉ ở mức độ hết sức khiêm tốn, công tác đấu tranh khi các tội phạm về tham nhũng đã xảy ra và hậu quả nặng nề, nghiêm trọng đã gây ra cho xã hội. Trong khi đó, công tác phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng còn nhiều bất cập, thiết sót, không ngăn chặn, hạn chế được tình trạng tham nhũng xảy ra khá phổ biến hiện nay ở nước ta. Vì vậy phòng ngừa tội phạm nói chung, phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng nói riêng có ý nghĩa cực kỳ to lớn. Nó sẽ hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả xảy ra cho xã hội, ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tình trạng tham nhũng. Góp phần quan trọng vào việc khôi phục kỷ cương phép nước, tăng cường sức mạnh, nâng cao hiệu quả hoạt động của Nhà nước ta, củng cố lòng tin của quần chúng 4 nhân dân, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, làm lành mạnh các quan hệ xã hội và thực hiện công bằng xã hội. Với lý do nêu trên, nhằm đáp ứng được tính cấp thiết, thực tế đòi hỏi hiện nay và mong muốn góp một phần công sức của mình vào công cuộc phòng ngừa chung đó, tôi đã mạnh dạn và quyết định chọn đề tài: “Phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Phòng ngừa và chống các tội phạm tham nhũng đã được đề cập, nghiên cứu trong một số công trình khoa học, bài viết đăng trên các báo và tạp chí, các luận văn cụ thể là: luận văn cao học được bảo vệ tại Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật như: Chính sách hình sự về đấu tranh chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay của Ngô Quang Liễn; Đấu tranh phòng, chống tội tham ô của Đặng Ngọc Quý; Đấu tranh phòng, chống các tội hối lộ, tham nhũng và cơ chế pháp lý hành chính nhà nước cơ bản về tham nhũng của Nguyễn Văn Lam; Đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng trong Quân đội - những khía cạnh tội phạm học của Học viên Nguyễn Văn Huân. Một số luận văn cao học được bảo vệ tại khoa Luật - ĐHQGHN như: Đấu tranh phòng, chống các tội tham nhũng tại thành phố Hồ Chí Minh của Dương Ngọc Hải; Một số vấn đề về nhóm tội phạm tham nhũng trong luật hình sự Việt Nam và việc đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng trong quân đội của Nguyễn Văn Hải. Một số bài viết như: Đặc điểm tham nhũng ở Việt Nam của tác giả Nguyễn Ngọc Chí; Tệ nạn tham nhũng: căn nguyên sâu xa và biện pháp phòng, chống của Nguyễn Đình Gấm v.v… Do thực tiễn phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm nói chung, tội phạm tham nhũng nói riêng đang diễn ra hàng ngày với những biến động, thay đổi thường xuyên do tác động của những yếu tố kinh tế, xã hội, pháp lý khác nhau. Trong khi các công trình nghiên cứu trên chỉ đề cập vấn đề lí luận chung dưới góc độ luật hình sự về các tội phạm tham nhũng hoặc phân tích các quy phạm của pháp luật hình sự thực định về loại tội phạm này hoặc phân 5 tích dưới góc độ tội phạm học nhưng lại tập trung nghiên cứu dưới khía cạnh “chống”. Cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống, toàn diện dưới góc độ tội phạm học ở khía cạnh “phòng ngừa”. Các công trình nghiên cứu trên chưa chỉ ra được nguyên nhân, điều kiện của tội phạm tham nhũng một cách có hệ thống và đầy đủ, chưa đưa ra các biện pháp và đề xuất các các giải pháp phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng có hiệu quả cả thời điểm hiện tại và trong tương lai. Bởi vì, việc dự báo các tội phạm về tham nhũng trong tương lai chưa mấy sát hợp khi không đặt diễn biến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam trong tương lai trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực. Vì vậy việc nghiên cứu vấn đề này ở một cấp độ luận văn thạc sĩ có hệ thống, toàn diện, sâu sắc hơn là phù hợp và không trùng hợp với bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác ở Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Đưa ra các quy định chung về các tội phạm về tham nhũng từ trước cho đến nay cũng như các biện pháp phòng ngừa đối với loại tội phạm này. Tổng kết thực tiễn về tình hình các tội phạm về tham nhũng từ năm 2000 đến năm 2004 (cơ cấu, diễn biến, động thái, phương thức, thủ đoạn của loại tội phạm này) cũng như đặc điểm nhân thân của những người phạm các tội phạm về tham nhũng. Phân tích, đánh giá về mặt lý luận một cách có hệ thống và khoa học về nguyên nhân, điều kiện của tội phạm về tham nhũng. Chỉ ra được kết quả đã đạt được trong tổ chức các biện pháp phòng ngừa các tội phạm tham nhũng cũng như những tồn tại, thiếu sót trong việc tổ chức các biện pháp đó. Đồng thời chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, thiết sót trong tổ chức các biện pháp phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng. Đưa ra dự báo những nét cơ bản về tình hình tội phạm về tham nhũng từ nay đến năm 2010. Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội phạm về tham nhũng để đề xuất những giải pháp, biện pháp 6 nhằm tổ chức các biện pháp phòng ngừa có hiệu quả đối với các tội phạm về tham nhũng. Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài này được đặt ra như sau: Thứ nhất, nghiên cứu, tìm hiểu các quy định chung về các tội phạm về tham nhũng cũng như các biện pháp phòng ngừa đối với loại tội phạm này qua các tài liệu, sách báo có nội dung về vấn đề này từ trước cho đến nay. Thứ hai, phân tích, đánh giá các Báo cáo tổng kết và các Bảng số liệu về các tội phạm về tham nhũng của các cơ quan tư pháp từ năm 2000 đến năm 2004 để đưa ra nhận xét về tình hình các tội phạm về tham nhũng cũng như nhân thân của những người phạm các tội phạm về tham nhũng. Đánh giá, nhận xét tình hình tổ chức các biện pháp phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng ở nước ta. Thứ ba, xem xét, đánh giá và dự báo tình hình kinh tế, xã hội ở Việt Nam cũng như trên thế giới và sự tác động của các yếu tố này tới tình hình tham nhũng và các tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam. Qua đó đưa ra dự báo tình hình các tội phạm về tham nhũng ở nước ta đến năm 2010. Thứ tư, đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu quả tổ chức phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam. 4. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các vụ án về các tội phạm tham nhũng lớn, điển hình, các bị can, bị cáo phạm các tội phạm về tham nhũng đã được đưa ra truy tố, xét xử ở nước ta từ năm 2000 - 2004. Đối tượng nghiên cứu là hoạt động phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng của các cơ quan tư pháp trong thời gian qua. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu là: phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp trao đổi chuyên gia... để phân tích tình hình các 7 tội phạm tham nhũng cũng như các tri thức khoa học có liên quan và luận chứng các vấn đề cần nghiên cứu trong phạm vi đề tài này. 6. Điểm mới của luận văn Phân tích, chỉ ra các biện pháp phòng ngừa về mặt lý thuyết đối với các tội phạm về tham nhũng. Tổng kết tình hình tổ chức các biện pháp phòng ngừa đã được áp dụng trong thời gian qua. Tổng kết những phương thức, thủ đoạn mới nổi lên của các tội phạm về tham nhũng, đồng thời làm rõ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm tham nhũng, cũng như nhân thân của người phạm tội một cách có hệ thống, khoa học, sâu sắc và toàn diện. Dự báo tình hình tham nhũng ở nước ta trong thời gian tới trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực. Đề xuất các giải pháp tổ chức có hiệu quả các biện pháp phòng ngừa đối với các tội phạm về tham nhũng. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có 3 chương. Cụ thể: Chương 1. Nhận thức chung về phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng Chương 2. Thực trạng phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng Chương 3. Nâng cao hiệu quả tổ chức phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam 8 Chương 1 Nhận thức chung về phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng 1.1. Nhận thức chung về các tội phạm về tham nhũng 1.1.1. Khái niệm các tội phạm về tham nhũng Tham nhũng là một hiện tượng xã hội gắn liền với sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của bộ máy nhà nước. Tệ nạn tham nhũng diễn ra ở hầu hết các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, không kể quốc gia đó giàu hay nghèo, đang ở trình độ phát triển như thế nào. Tham nhũng xảy ra ở mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học, công nghệ, giáo dục, y tế... khu vực công, khu vực tư... Tham nhũng tồn tại, phát triển hàng ngày, hàng giờ, len lỏi vào mọi mặt của đời sống xã hội, đụng chạm đến lợi ích của hầu hết dân cư, cản trở sự phát triển của xã hội. Thấy được sự nguy hại của tệ tham nhũng và thực trạng tình hình tham nhũng hiện nay đang diễn ra ở Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ và nhấn mạnh là: “tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân và là nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta”. Chính vì thế toàn Đảng, toàn dân hết sức bất bình nên đã coi phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng là nhiệm vụ lớn để bảo vệ sự sống còn của Đảng và chế độ ta. Vì vậy Báo cáo chính trị Đại hội Đảng IX đặt nội dung này ở mục về Nhà nước và Đại hội đã nhấn 9 mạnh: “phải tiến hành một cách kiên quyết cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong toàn bộ hệ thống chính trị ở các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở; gắn chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu; đặc biệt chống các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính” và phải “xử lý nghiêm minh theo pháp luật và Điều lệ Đảng những cán bộ, đảng viên, công chức ở bất cứ cấp nào, lĩnh vực nào lợi dụng chức quyền để tham nhũng”. Thế nhưng đấu tranh chống tham nhũng không phải đơn giản, do tham nhũng là tệ nạn xã hội, tham nhũng gắn liền với sự tồn tại của Nhà nước, tham nhũng diễn ra ở tất cả các chế độ, tất cả các Nhà nước. Vì vậy tốt hơn hết chúng ta phải có các biện pháp phòng ngừa không để cho tệ nạn tham nhũng tiếp diễn, hoặc chí ít cũng hạn chế đến mức thấp nhất tệ nạn tham nhũng xảy ra. Nhưng trước hết chúng ta phải hiểu bản chất của tham nhũng là gì mà điều đầu tiên phải thống nhất khái niệm tham nhũng. Bởi khái niệm tham nhũng là một trong những vấn đề quan trọng của lý luận về phòng ngừa tham nhũng và là cơ sở để nghiên cứu những vấn đề khác. Làm sáng tỏ khái niệm tham nhũng còn giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật áp dụng đúng đắn những quy phạm của luật hình sự quy định các tội phạm về tham nhũng. Vì vậy việc nghiên cứu, làm sáng tỏ khái niệm tham nhũng không những có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Hiện nay trong từ điển của một số nước đã đưa ra những quan điểm khác nhau về tham nhũng. Ví dụ, trong Từ điển bách khoa của Bruekhaus – CHLB Đức ghi nhận “Tham nhũng là hiện tượng mất phẩm chất, hối lộ, đút lót thường xảy ra đối với công chức có quyền hành”. Tại áo cho rằng “Tham nhũng là hiện tượng lừa đảo, hối lộ, bóc lột”. Còn trong Từ điển bách khoa của Thụy Sỹ ghi nhận “Tham nhũng là hậu quả nghiêm trọng của sự vô tổ chức của tầng lớp có trách nhiệm trong bộ máy nhà nước, đó là hành vi phạm pháp để phục vụ lợi ích cá nhân” v.v… Theo tài liệu hướng dẫn của Liên hiệp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống tham nhũng thì: “tham nhũng - đó là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng” bao gồm những hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn để 10 tham ô, trộm cắp tài sản của Nhà nước, hoặc là lợi dụng địa vị công tác để trục lợi riêng quá đáng thông qua việc sử dụng không chính thức địa vị chí nh thức của mình, hoặc là tạo ra sự xung đột về thứ tự quan tâm giữa trách nhiệm đối với xã hội và lợi ích cá nhân để mưu cầu trục lợi. Còn theo định nghĩa của Ban nghiên cứu thuộc Hội đồng Châu Âu thì tham nhũng bao gồm hành vi hối lộ và bất kỳ một hành vi nào khác của những người được giao thực hiện một trách nhiệm nào đó trong khu vực Nhà nước hoặc khu vực tư nhân, nhưng đã vi phạm trách nhiệm được giao để thu bất kỳ một thứ lợi bất hợp pháp nào cho cá nhân hoặc cho người khác. Tại những nước đang phát triển thì khái niệm tham nhũng được hiểu như là những hành vi đi chệch khỏi các quy tắc đạo đức chính thống chi phối các hành động của một ai đó giữ một chức vụ trong bộ máy chính quyền vì các động cơ cá nhân như làm giàu, quyền lực hoặc địa vị. Cũng có quan điểm cho rằng, tham nhũng, nếu nhìn từ giác độ kinh tế, không chỉ bao gồm hành vi sai lầm do nhận hối lộ gây ra hay là hiện tượng hủ bại bao gồm các hành vi chưa trực tiếp nhận lợi lộc từ người khác, như là chức phận, vô trách nhiệm, tiêu cực, lãn công... Tại Hội nghị quốc tế lần thứ X chống tham nhũng được tổ chức tại Praha, Cộng hòa Séc từ ngày 7 đến ngày 11/10/2001 do có những cách tiếp cận khác nhau nên Hội nghị không đi đến một định nghĩa thống nhất về tham nhũng nhưng Hội nghị đã tìm được một số điểm chung, bao quát về tham nhũng là “hành vi tham lam và sách nhiễu của người có chức vụ, quyền hạn để tham ô, nhận hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho Nhà nước, tập thể và cá nhân, làm sai lệch những hoạt động đúng đắn và làm mất uy tín của các cơ quan, tổ chức”. Tại Việt Nam, khái niệm tham nhũng cũng đang là một trong những vấn đề gây tranh luận. Mặc dù theo từ điển tiếng việt thì: “tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và lấy của” và theo quy định của Pháp lệnh chống tham nhũng (Điều 1) thì: “tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc 11 cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước và của cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức”. Thế nhưng các nhà nghiên cứu pháp luật, những người áp dụng pháp luật và cả những người quan tâm đến cuộc đấu tranh chống tham nhũng đều đưa ra khái niệm riêng của mình về tham nhũng. Theo PGS. TS. Phạm Hồng Hải thì: “Tham nhũng là hiện tượng những người có chức vụ quyền hạn cố tình làm trái với những quy định chung nhằm vơ vét tài sản của công cho bản thân mình hoặc cho người khác”. Theo tác giả Vũ Xuân Kiều thì: “Tham nhũng là hành vi lợi dụng quyền lực để nhũng nhiễu, lấy tiền của Nhà nước và nhân dân phục vụ cho lợi ích cá nhân”. TS. Lê Văn Cương đưa ra khái niệm về tham nhũng như sau: “Tham nhũng là hành vi của những người có quyền lực chủ yếu trong cơ quan nhà nước lạm dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi cá nhân gây phiền hà và làm thiệt hại đến tiền bạc, tài sản của Nhà nước, của tập thể và của công dân”. TS. Trần Công Phàn thì định nghĩa: “Tham nhũng là tập hợp những hành vi tiêu cực do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện bằng cách sử dụng (lợi dụng, lạm dụng) chức vụ, quyền hạn của mình để vụ lợi, gây thiệt hại tài sản, lợi ích của Nhà nước, tập thể và người dân, xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước, tổ chức”. Như vậy, trong các cộng đồng quốc tế, khái niệm tham nhũng cũng có những độ rộng khác nhau. Tuy nhiên, cốt lõi của các khái niệm tham nhũng vẫn là ba yếu tố không thể vắng được đó là: vị trí công tác được giao; sự lợi dụng vị trí đó và có mục đích vụ lợi (cho mình hoặc cho ai đó). Gốc của từ ngữ tham nhũng xuất phát từ tiếng La tinh “corruptio” có nghĩa là “mua chuộc”. Và vì vậy, hạt nhân cơ bản của từ tham nhũng từ trước đến nay và ở mọi nơi đều có nghĩa là một người này bị một người khác mua chuộc theo lối “tôi cho anh, anh cho tôi” (Tiếng la tinh là: “do ut des”). Từ góc nhìn của xã hội, tham nhũng trước hết phải được đánh giá như một hiện tượng xã hội tiêu cực với ba mức độ thể hiện: tội phạm hình sự, sự vi 12 phạm pháp luật, sự xâm phạm đạo đức xã hội. Xét về phạm vi hoạt động xã hội, hiện tượng tiêu cực đó có mặt ở hai phạm vi quan hệ: Thứ nhất: tham nhũng là hành vi thể hiện bản chất phản bội lại công vụ (mua - bán những gì không phải của anh mà là của công vụ mang lại, trái với thực chất công vụ mà anh được giao). Do đó, có thể gọi tham nhũng chỉ có thể xảy ra trong lĩnh vực quan hệ quyền lực và quản lý; Thứ hai: tham nhũng có biểu hiện trong quan hệ thương mại, kinh doanh. ở đây, về hình thức, cũng lại là những hành vi lợi dụng cương vị thương mại, kinh doanh của những người có vai trò quản lý, đại diện trong ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng nhưng họ đã lợi dụng, mua bán lợi thế của mình. Cái khác với hành vi ở nhóm thứ nhất là: ở đây là quan hệ kinh doanh, không nằm trong phạm vi quyền lực hay quản lý nhà nước. Như vậy, có rất nhiều khái niệm khác nhau về tham nhũng của các nhà khoa học trên thế giới và ở Việt Nam. Nhưng căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam về hành vi tham nhũng, tội phạm về tham nhũng và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam trong thời gian qua có thể khái quát những dấu hiệu, đặc trưng chủ yếu nhất của tham nhũng như sau: Thứ nhất: dấu hiệu chủ thể của tham nhũng phải là người có chức vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn được hiểu là những người giữ vị trí nhất định trong bộ máy nhà nước hoặc người mà pháp luật quy đ ịnh cho họ những quyền hạn nhất định. Như vậy, yếu tố quyền lực là dấu hiệu đặc trưng đầu tiên và cũng là đặc trưng cơ bản nhất của hành vi tham nhũng, và như vậy hành vi tham nhũng trước hết là hành vi của những người có quyền lực. Thứ hai: dấu hiệu hành vi khách quan phải được thể hiện bằng cách lợi dụng chức vụ và quyền hạn, lợi dụng vị trí, địa vị công tác được giao để không làm hoặc làm trái với công vụ được giao, gây thiệt hại cho lợi ích chung của Nhà nước, xã hội và công dân. 13 Thứ ba: dấu hiệu động cơ, mục đích thể hiện ở chỗ vụ lợi cho bản thân hay cho tập thể hoặc cho những người khác hoặc thỏa mãn nhu cầu, tinh thần nào đó của chủ thể. Sự vụ lợi cá nhân về vật chất có thể được hưởng ngay, nhưng cũng có thể phải qua khâu trung gian hoặc qua một thời gian; hoặc là chuyển vụ lợi cá nhân cho những người thân thích hay họ hàng. Đây là những dấu hiệu rất cơ bản để xác định một sự việc xảy ra có phải là tham nhũng hay không phải là tham nhũng. Mặc dù được thể hiện theo nhưng cách khác nhau, song tham nhũng được hiểu khá thống nhất trong văn hóa pháp lý ở các nước trên thế giới là việc lợi dụng vị trí, quyền hạn, thực hiện hành vi trái pháp luật nhằm trục lợi cá nhân. Qua sự phân tích ở trên thì theo chúng tôi để đưa ra khái niệm tham nhũng thì khái niệm đó phải có ý nghĩa chỉ một tệ nạn xã hội hay căn bệnh của quyền lực và được hiểu theo nghĩa rộng chứ không được hiểu như một loại hành vi vi phạm cụ thể của công chức hay với tính cách là một loại tội phạm dưới góc độ luật pháp. Hay nói một cách khác, khái niệm tham nhũng bao gồm cả vấn đề tham nhũng trong khu vực tư và phải bao quát hết được những hành vi tham nhũng hiện nay mà toàn xã hội phải tham gia phòng, chống. Và về mặt ngữ pháp thì khái niệm tham nhũng phải chuẩn, chặt chẽ, chính xác nhưng lại phải ngắn gọn, đủ ý. Nên theo chúng tôi khái niệm tham nhũng được hiểu như sau: “Tham nhũng là việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi trái pháp luật nhằm vụ lợi dưới bất kỳ hình thức nào”. 1.1.2. Lịch sử phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm về tham nhũng 1. Do tham nhũng là hiện tượng xã hội tiêu cực có tính lịch sử xuất hiện và tồn tại trong xã hội được phân chia thành giai cấp và hình thành Nhà nước, gây nên những hậu quả nguy hại cho xã hội. Cho nên Nhà nước Việt Nam trong lịch sử cũng đã tổ chức đấu tranh về tệ nạn này bằng các hình thức khác nhau. Sử cũ ghi chép lại, ngay từ thời kỳ các Vua Hùng, Mai An Tiêm (một hoàng tử của nhà Vua) đã quá ngán trước cảnh biếu xén, quà cáp, luồn lọt của 14 các quan lại, đã phải thốt lên “Của biếu là của lo, của cho là của nợ”. Khi tham nhũng xuất hiện và phát triển, Nhà nước Việt Nam thời phong kiến đã để ra các biện pháp chống tham nhũng. Một trong những lý do để Bộ Hình Thư được biên soạn, theo như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của sử gia Ngô S ỹ Liên thì: “Trước kia, việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí nhiều người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương sót, sai trung thư san định luật lệnh, châm trước cho thích dụng vào thời thế, chia ra môn loại, biến thành điều khoản, làm thành sách Hình Thư của một triều đại, để cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây, phép xử án được bằng thẳng rõ ràng cho nên mới đổi niên hiệu là Minh Đạo và đúc tiền Minh Đạo”. Như vậy, do sự phiền nhiễu của các quan lại, chức sắc phong kiến nhũng nhiễu dân lành, gây nên sự oan uổng quá đáng mà buộc nhà Lý phải ban hành Bộ Hình Thư, trong đó đã ghi nhận về những hành vi tham nhũng của quan lại, chức sắc phong kiến. Nhưng theo sử sách còn ghi lại thì tính trừng trị với các hành vi tham nhũng của quan lại, chức sắc trong thời gian này rất nhẹ. Pháp luật của nhà Lý chủ yếu bảo vệ quyền lợi của Nhà nước trung ương tập quyền và của tầng lớp quý tộc quan liêu, củng cố chế độ đẳng cấp, bảo vệ tư hữu. Điểm quan trọng tạo cho sự tham nhũng tồn tại và phát triển trong thời gian này là quy định của nhà Lý về thể lệ chuộc tội bằng tiền: những người già trên 70 tuổi và trẻ em dưới 15 tuổi, những người có nhược tật, những người họ nhà vua và có công lớn nếu phạm tội có thể chuộc bằng tiền, trừ tội thập ác. Quy định nộp tiền này đã khiến cho tầng lớp quý tộc đã giàu lại càng giàu và càng có điều kiện áp bức nhân dân. Trong thể lệ thu thuế của thời Lý có quy định: các quan lại thu thế của dân, ngoài mười phần đóng vào kho Nhà nước, được thu riêng một phần gọi là “hoành đầu”. Quy định như vậy tạo điều kiện cho tầng lớp chức sắc tìm cách chiếm đoạt tài sản của dân bằng cách lợi dụng chức quyền. Tuy nhiên, việc chống tham nhũng của nhà Lý cũng thể hiện: nếu người nào thu quá số ấy ghép vào tội ăn 15 trộm... Nếu Quản giáp, Chủ đô và người trưng thuế thông đồng với nhau thu quá lệ, tuy đã lâu ngày và có người cáo phát thì tất cả cũng bị tội như nhau v.v... Từ thế kỷ thứ XIII đến thể kỷ thứ XV là thời thống trị đất nước của nhà Trần. Trong những năm đầu tiên, nhà Trần đã sử dụng Bộ Hình Thư của nhà Lý để trị vì đất nước. Nhưng sau khi lên ngôi được 5 năm, Trần Thái Tông thấy rằng, nếu sử dụng Bộ Hình Thư của nhà Lý thì không phù hợp với hoàn cảnh đất nước nên đã ban hành Bộ luật mới và lấy tên là Quốc Triều Thông Lễ vào năm 1230. Đến năm 1244, vua Trần Thái Tông ban lệnh “định các cách thức về luật hình”, điều đó thể hiện sự nghiêm khắc trong pháp luật của nhà Trần. Tuy nhiên, do còn nặng về bảo vệ quyền lợi của các vương hầu, quan lại, nên các biện pháp còn chưa triệt để. Quyền lợi của các quý tộc còn luôn được đặt lên trên lợi ích của nhân dân. Trần Thánh Tông (ở ngôi Vua từ 1258 đến 1278) một vị anh minh trong lịch sử cũng luôn nói với các quan “Thiên hạ là của cha ông để lại, nên cho anh em cung hưởng phú quý”. Cuối thế kỷ thừ XIV, đầu thế kỷ XV, nhà Trần trở lên mục rỗng, thối nát, lung lay đến tận gốc. Hồ Quý Ly, một quý tộc trong triều đã phế truất vua Trần và lập nên triều Hồ. Trong thời gian nắm quyền, mặc dù ngắn ngủi, Hồ Quý Ly đã có những cải cách táo bạo nhằm cải tổ đất nước, xây dựng pháp luật trên các lĩnh vực, nghiêm khắc trừng trị những người làm bạc giả, hành nghề mê tính dị đoan và cờ bạc. Ngoài ra, nhà Hồ còn thay đổi chế độ tô thuế, thể lệ chọn nhân tài, củng cố bộ máy nhà nước nhằm tăng cường uy lực của Nhà nước trung ương tập quyền và để hạn chế sự tham nhũng của hàng ngũ quan lại, chức sắc phong kiến. Thế kỷ thứ XV là thời đại nhà Lê sơ. Trong thời gian 360 năm tồn tại, triều đại nhà Lê đã để lại những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực pháp luật. Trong đó Quốc Triều Hình Luật nổi bật lên như một nỗ lực đối với việc xây dựng một Nhà nước dân tộc và bảo hộ cho những quyền tư hữu hợp pháp. Bộ Quốc Triều Hình Luật được Vua Lê Thánh Tông cho ban hành vào năm 1483, 16 còn gọi là Bộ luật Hồng Đức, trong đó có đến hai phần ba số Điều mà đối tượng điều chỉnh là quan tướng, những người thi hành công vụ, được các nhà nghiên cứu cả trong và ngoài nước đánh giá rất cao. Ngay Ông Oliver Oldman - Chủ nhiệm Khoa Luật á Đông - Đại học Havard cũng nhận xét rằng, Bộ Luật Hồng Đức là “... Chúng ta cũng thấy trong nhiều thế kỷ đã qua sự cố gắng của nước Việt Nam thời Lê, một sự nỗ lực thường xuyên đối với việc xây dựng một nhà nước dân tộc và sự bảo hộ cho những quyền tư hữu hợp pháp bởi hệ thống pháp luật tiến bộ với nhiều sự tương đương về chức năng so với những quan niệm pháp luật phương Tây cận đại”. Cũng như các nhà nước phong kiến khác, những quan lại, chức sắc cũng có những đặc quyền riêng theo thứ bậc cao thấp. Các quan lại được cấp ruộng thế nghiệp, lộc điền, người phục dịch. Thế nhưng, trong Quốc Triều Hình Luật quy định một cách chặt chẽ và cụ thể hành vi được coi là tham nhũng và có chế tài nghiêm khắc trừng trị. Nghiên cứu toàn bộ Bộ luật đã chỉ ra, trong tổng số 722 Điều luật với 13 Chương chia làm 6 quyển thì có 78 Điều luật có quy định hành vi liên quan đến tham nhũng (chiếm 12,3%). Trong tổng số 13 Chương của Bộ luật thì có 7 Chương có các quy định về tham nhũng và có thể chia các tội phạm về tham nhũng thành 3 nhóm sau: Nhóm thứ nhất: các tội phạm liên quan đến nhận hối lộ, nhũng nhiễu để chiếm đoạt tiền của dân. Nhóm này gồm 14 Điều. Việc nhũng nhiễu ăn hối lộ trên nhiều lĩnh vực khác nhau như nhận hối lộ trong tuyển đinh tráng vào quân đội (Điều 170); nhận hối lộ khi mật tra của quan liêm phóng (Điều 197); nhận hối lộ để không tâu với quan trên về hành vi khinh nhờn (Điều 229) v.v... Hình phạt được áp dụng đối với tội hối lộ, nhũng nhiễu lấy tiền của dân đinh rất nghiêm khắc. Nếu là các quan lại phạm tội thì hình phạt nhẹ là cách chức, đi đầy, hình phạt nặng là chém đầu. Nếu là chức sắc thường phạm tội thì hình phạt nhẹ là bị đánh đòn, thích chữ vào mặt, đi đầy, hình phạt nặng là tử hình. Ví dụ Điều 138 quy định: “Quan ty làm trái pháp luật mà ăn hối lộ từ 1 quan đến 9 quan thì xử tội biếm (giáng chức) hay bãi chức, từ 10 quan 17 đến 19 quan thì xử tội đồ (lao dịch) hoặc lưu đày, từ 20 quan trở lên thì xử tội chém Những bậc công thần, quý thần, cũng như những người có tài mà được dự vào hàng bát nghị mà ăn hối lộ từ 1 quan đến 9 quan thì bị xử phạt tiền 50 quan, từ 10 quan đến 19 quan thì phạt tiền từ 60 đến 100 quan; từ 20 quan trở lên thì bị xử tội đồ, những tiền ăn hối lộ xử phạt gấp đôi nộp vào kho”. Điều 163 (Quan sách nhiễu dân) quy định: “Các quan, tướng, súy sách nhiễu tiền tài của dân thì bị hạ ba chức, bồi thường gấp đôi số tiền đã nhận, trả lại cho dân”. Nhóm thứ hai: các tội phạm liên quan đến lợi dụng chức quyền để chiếm đoạt tài sản là ruộng đất, thuế khóa hoặc lạm quyền chiếm đoạt tài sản của dân. Nhóm này gồm 4 Điều. Ví dụ: Điều 206 quy định: “những quan thu thuế không theo ngạch đã định mà thu, lại giấu bớt số thuế thì cũng coi như tội giấu đồ vật công; nếu thu thêm thuế để làm của riêng thì tội cũng như thế, lại phải bồi thường gấp đôi số tiền thuế lạm thu trả lại cho dân...”. Nhóm thứ ba: các tội phạm liên quan đến lợi dụng chức quyền để chiếm đoạt dân đinh hoặc sử dụng sức lao động của dân đinh, binh lính làm việc trái pháp luật. Nhóm này gồm 10 Điều. Ví dụ, Điều 166 quy định: “Các quan quản giám tự tiện đem dân đinh nói dối là quân lính hay quan khách để giấu giếm làm việc riêng trong nhà thì phải biếm hai tư và bãi chức...”. Như vậy, những hành vi tham nhũng của quan lại, chức sắc lợi dụng chức quyền của mình để trục lợi được quy định rất cụ thể trong Quốc Triều Hình Luật. Điều đó cho thấy, trong lịch sử pháp luật Việt Nam, đấu tranh chống tham nhũng với những hành vi lợi dụng chức quyền để trục lợi của các quan lại, chức sắc đặt ra như là một yêu cầu để bảo vệ chế độ phong kiến đương thời. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII là thời kỳ nội chiến phân liệt. Triều Lê mất dần vai trò lịch sử. Lê Tương Dục lên ngôi năm 1510 và năm 1511, ông đã ban hành Trị Binh Bảo Phạm gồm 50 Điều, trong đó có một số quy phạm 18 pháp luật hình sự liên quan đến tội phạm tham nhũng như: Lại bộ phải kính giữ công bằng, cân nhắc bổ dùng người, phải thận trọng dè dặt khi trao quan tước, giữ trong sạch quan tường... Ai dám hối lộ và riêng tư, tuyển bổ không có thứ tự, thì cho quan đô, đài kiểm xét tâu lên, theo luật trị tội. Quan đô, đài không biết kiểm xét tâu lên cũng bị nhất loại trị tội. Trong khoảng thời gian triều đại Tây Sơn trị vì đất nước, Quốc Triều Hình Luật được sử dụng như một Bộ luật chính thống, tuy nhiên có bổ sung một số lĩnh vực về kinh tế, tài chính, nhưng phần hình luật vẫn giữ nguyên. Điều đó có nghĩa rằng, những hành vi về tham nhũng đực coi là tội phạm vẫn bị xử theo điều luật quy định trong Quốc Triều Hình Luật. Năm 1815 Bộ Hoàng Việt Luật Lệ thường được gọi là Bộ luật Gia Long được xây dựng, thế nhưng nội dung của nó đã mô phỏng gần như luật lệ của nhà Đại Thanh (Trung Quốc). Tuy nhiên về phần hình luật, các quy định trong Bộ luật Gia Long liên quan đến các tội phạm trong đó có tội phạm tham nhũng thì hệ thống hình phạt cũng như hệ thống các nguyên tắc trừng trị về cơ bản tương tự như Quốc Triều Hình Luật thời Lê. Pháp luật hình sự thời kỳ nhà Nguyễn thế kỷ XIX cũng có những quy định các tội phạm về tham nhũng. Để đảm bảo hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước phong kiến, pháp luật hình sự nhà Nguyễn đã dành tới 9 Điều quy định về nhận đút lót như Điều 312 (Quan lại nhận tiền, của); Điều 314 (Nhận tiền của sau khi xong việc); Điều 317 (Đang làm quan nhận mượn ép hàng hóa của cải của người)... Điều 315 (Quan lại hứa nhận tiền, của) trong Hoàng Việt luật lệ quy định: “Phàm chưa trực tiếp với sự việc mà quan lại hứa nhận tiền, của, nếu làm cong luật pháp thì xử theo chỗ cong đó, còn việc không làm cong luật pháp thì xử theo chỗ không cong. Giảm một bực tội chỗ làm cong, luật mà nặng thì xử theo điều nặng”. Đáng chú ý là pháp luật thời kỳ nhà Nguyễn đã cấm quan lại không được mua sắm ruộng, nhà tại địa phương nơi mình làm việc. Chẳng hạn Điều 88 (Quan đương nhiệm sắm mua ruộng nhà) trong Hoàng Việt luật lệ quy định: “Phàm quan lại hữu quan đang 19 đi làm việc tại nơi nào thì không được mua sắm ruộng vườn nơi ấy. Nếu sai phạm thì phạt 50 roi giải nhiệm, ruộng nhà ấy cho vào quan”. Như vậy, trong lịch sử Nhà nước phong kiến Việt Nam, trên phương diện pháp luật, vấn đề đấu tranh chống những hành vi lợi dụng chức quyền nhằm trục lợi của đội ngũ quan lại, chức sắc được đặt ra như một yêu cầu xây dựng bộ máy nhà nước phong kiến. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận ở khía cạnh một Nhà nước phong kiến thì những vấn đề đấu tranh chống tham nhũng cũng có những hạn chế nhất định. 2. Sau cách mạng tháng Tám thành công (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm ngay đến vấn đề đấu tranh chống tham nhũng. Người đã sớm chỉ ra bản chất của tệ quan liêu, tham nhũng, nguồn gốc, nguyên nhân phát sinh, phát triển của tham nhũng cũng như tính phức tạp của cuộc đấu tranh phòng, chống tệ nạn này. Ngay trong quá trình đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng diễn đàn công khai để vạch trần, lên án tham nhũng trong bộ máy chính quyền thực dân ở Việt Nam. Trong tác phẩm: “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết hẳn một Chương về tệ nạn tham nhũng trong bộ máy cai trị, trong đó người đã vạch trần những hành vi tham nhũng của những người luôn tự xưng là “quan phụ mẫu” của dân. Người đã chỉ ra thói phung phí tiền của dân cho việc thăm quan, triển lãm, ăn uống, tiếp khách, giải trí, mua sắm biệt thự, xe cộ...; những thủ đoạn nhằm bòn rút tiền từ việc nhận thầu các công trình xây dựng, làm đường, khai man để chi tiêu, sử dụng nhân viên nhà nước vào làm việc riêng. Chính thói tham lam, xa hoa vô độ của bọn cai trị đã làm cho gánh nặng thuế khóa trên đôi vai của người dân thuộc địa càng trĩu xuống và buộc họ phải đấu tranh lật đổ chế độ cai trị của chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Ngày 17/10/1945, chỉ hơn một tháng sau khi bộ máy chính quyền các cấp được thành lập, Bác viết thư gửi Uỷ ban nhân dân các bộ, tỉnh, huyện, làng phê phán tệ quan quyền, tham nhũng của một số cán bộ, nhân viên nhà nước. Đó là sự kiện mở đầu cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng do Bác 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan