Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phòng, chống tra tấn trong pháp luật quốc tế và pháp luật việt nam phân tích so ...

Tài liệu Phòng, chống tra tấn trong pháp luật quốc tế và pháp luật việt nam phân tích so sánh

.PDF
123
187
80

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HẢI YẾN PHßNG, CHèNG TRA TÊN TRONG PH¸P LUËT QUèC TÕ Vµ PH¸P LUËT VIÖT NAM: PH¢N TÝCH SO S¸NH Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con ngƣời Mã số: Chƣơng trin ̀ h đào ta ̣o thí điể m LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN KHẮC HẢI HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Hải Yế n MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG, CHỐNG TRA TẤN ............................................................................................ 9 1.1. Tra tấn ................................................................................................. 9 1.1.1. Khái niệm tra tấn .................................................................................. 9 1.1.2. Mục đích của Tra tấn .......................................................................... 12 1.1.3. Các hình thức của tra tấn .................................................................... 13 1.1.4. Nạn nhân của tra tấn và người thực hiện hành vi tra tấn ................... 14 1.1.5. Quan điểm về sử du ̣ng tra tấ n............................................................. 15 1.2. Phòng, chống tra tấn ........................................................................ 19 1.2.1. Vai trò của phòn,gchố ng tra tấ n trong viê ̣c đảm bảo quyề n con ngươ ........̀ i 19 1.2.2. Khái niệm phòng, chố ng tra tấ n ......................................................... 21 1.2.3. Nội dung của phòng, chống tra tấn ....................................................... 23 1.2.4. Nguyên tắ c phòng, chố ng tra tấ n........................................................ 28 1.2.5. Yêu cầu của phòng, chống tra tấn ..................................................... 29 Chương 2: PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÒNG, CHỐNG TRA TẤN................................................... 32 2.1. Pháp luật quốc tế về phòng chống tra tấn ..................................... 32 2.1.1. Luật nhân quyền quốc tế .................................................................... 32 2.1.2. Luật nhân đạo quốc tế.......................................................................... 48 2.1.3. Luật hình sự quốc tế ........................................................................... 51 2.2. Pháp luật Việt Nam về phòng, chống tra tấn ................................ 53 2.2.1. Pháp luật Việt Nam về phòng, chống tra tấn trong lịch sử ................ 53 2.2.2. Pháp luật Việt Nam về phòng, chống tra tấn hiện nay ................. 62 Chương 3: SỰ TƢƠNG THÍCH GIỮA PHÁP LUẬT VIỆT NAM SO VỚI PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ PHÒNG, CHỐNG TRA TẤN. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ ............................. 66 3.1. Sự tƣơng thích giữa pháp luật Việt Nam so với pháp luật quốc tế về phòng, chống tra tấn ...................................................... 66 3.1.1. Quy đinh ̣ về quyề n không bi ̣tra tấ n là mô ̣t quyề n không thể bi ̣ tước bỏ ................................................................................................ 66 3.1.2. Quy đinh ̣ về đinh ̣ nghiã tra tấ n ........................................................... 68 3.1.3. Quy đinh ̣ về hin ̀ h sự hóa hành vi tra tấ n ............................................ 72 3.1.4. Quy đinh 75 ̣ về tru ̣c xuấ t, trao trả hoă ̣c dẫn đô ....................................... ̣ 3.1.5. Quy đinh ̣ về thẩ m quyề n tài phán ...................................................... 79 3.1.6. Quy đinh ̣ về rà soát các biê ̣n pháp ngăn chă ̣n hành vi tra tấ n ............ 82 3.1.7. Quy đinh ̣ về đảm bảo điề u tra nhanh chóng và khách quan .............. 89 3.1.8. Quy đinh ̣ về đảm bảo quyề n khiế u na ̣i đố i với hành vi tra tấ n .......... 91 3.1.9. Quy đinh ̣ đảm bảo quyề n của na ̣n nhân bi ̣tra tấ n đươ ̣c khắ c phục và bồi thường ............................................................................. 93 3.1.10. Quy định về việc không sử dụng lời khai từ việc tra tấn ................... 96 3.2. Cơ sở hoàn thiêṇ pháp luâ ̣t và cơ chế phòng , chố ng tra tấ n tại Viêṭ Nam ...................................................................................... 97 3.3. Một số đề xuất , kiến nghị hoàn thiêṇ pháp luâ ̣t và cơ chế phòng, chố ng tra tấ n tại Việt Nam................................................ 100 3.3.1. Điều chỉnh chính sách và các biện pháp tổ chức ............................. 100 3.3.2. Về lập pháp, hoàn thiện pháp luật .................................................... 106 KẾT LUẬN .................................................................................................. 112 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 113 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ở nước ta, vào năm 1986 Việt Nam đã bắt đầu công cuộc Đổi Mới chính sách. Từ đó, Việt Nam đã gặt hái được những thành tựu nổi bật trong các lĩnh vực xã hội, chính trị và kinh tế. Nhờ có những thành tựu đó, quyền con người của người dân đã được nâng cao, quyền làm chủ đất nước của nhân dân được đảm bảo. Việt Nam cam kết tiếp tục chính sách đổi mới qua việc hội nhập tiên phong vào thế giới, cải cách thủ tục hành chính và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Khái niệm nhà nước pháp quyền của Việt Nam có đặc điểm bởi nguyên tắc hiến định là tất cả công dân bình đẳng trước pháp luật và quyền con người trong tất cả các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế và văn hóa đều được tôn trọng. Có thể nói rằng, theo cách khác, việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam đồng nghĩa với việc quyền con người được tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ. Trong mấy chục năm qua, cùng với sự ra đời của Liên hợp quốc, một hệ thống văn bản pháp luật và cơ chế quốc tế về bảo đảm quyền con người đã được thiết lập. Lẽ dĩ nhiên, việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do cơ bản của con người là nghĩa vụ của mỗi quốc gia trên thế giới. Trong những vi pha ̣m nhân quyề n thì tra tấ n là là hành vi bi ̣lên án và phủ nhận một cách mạnh mẽ và phổ quát nhất . Vấ n đề phòng chố ng tra tấ n đã đươ ̣c công nhâ ̣n rô ̣ng raĩ ở hầ u khắ p các nền văn hóa và tư tưởng đến nỗi dường như không có sự tranh caĩ hay nghi ngờ gì về sự thâ ̣t rằ ng những xâm phạm thể chất hay tinh thần khi được thực hiện ở diện rộng hoặc có hệ thống , sẽ cấu thành tội ác chống lại loài người , như tô ̣i diê ̣t chủng và tô ̣i ác chiế n tranh mà cô ̣ng đồ ng quố c tế phải lên án , ngăn chă ̣n và trừng tri ̣những kẻ thực hiê ̣n hành vi đó . Liên hơ ̣p quố c đã lên án tra tấ n như là mô ̣t trong những hành vi vô nhân đa ̣o và đê hèn nhấ t mà con người pha ̣m phải với đồ ng loa ̣i , bởi tra 1 tấ n phủ nhâ ̣n phẩ m giá , hủy hoại cả thể chất và tinh thần của nạn nhân – những người ở trong hoàn cảnh không thể chố ng cự đươ ̣c. Vấn đề cấm tra tấn, trừng phạt hay đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục được quy định đầu tiên trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948, sau đó được tái khẳng định trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 mà Việt Nam đã là thành viên. Đặc biệt, vấn đề này được quy định riêng trong một công ước - Công ước về cấm tra tấn, trừng phạt hay đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục (Công ước chố ng tra tấ n ) - là một trong sáu điều ước quốc tế đa phương quan trọng nhất về quyền con người, được thông qua ngày 1/12/1984 và có hiệu lực từ ngày 26/6/1987. Tuy nhiên, trên hết, cấm tra tấn, trừng phạt hay đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục còn là một quy phạm luật tập quán quốc tế, có hiệu lực ràng buộc với mọi quốc gia, kể cả những quốc gia chưa phê chuẩn Công ước trên . Trong thời gian tới, vấn đề này sẽ còn được cộng đồng quốc tế quan tâm nhiều hơn, với những cơ chế chặt chẽ hơn (gần đây, tra tấn cũng bị coi là một trong hành vi phạm tội có thể bị đem ra xét xử ở Tòa án hình sự quốc tế). Điều này đòi hỏi các nhà nước cần phải quan tâm và làm hài hòa hệ thống pháp luật quốc gia với các chuẩn mực quốc tế có liên quan, đồng thời phải có các biện pháp bảo đảm thực hiện có hiệu quả các quy định đó trên thực tế; có như vậy, quốc gia đó mới tránh được những sự chỉ trích, phê phán, thậm chí là trừng phạt xuất phát từ dư luận và các thể chế quốc tế trong vấn đề này. Thực tiễn trong những năm qua cho thấy rằng tại Việt Nam cũng còn nhiều trường hợp vi phạm quyền con người đặc biệt là trong quá trình tiến hành điều tra, truy tố và thi hành án, tại các cơ sở giam giữ. Những vi phạm đó xảy ra do nhiều nguyên nhân, trong đó có bất cập, hạn chế của cơ chế, nhận thức thái độ của cơ quan, người có thẩ m quyề n và đă ̣c biê ̣t là những ha ̣n chế từ các quy đinh ̣ của pháp l uâ ̣t… Vì vậy có thể nói việc nghiên cứu đảm 2 bảo quyền con người nói chung, trong đó có quyền không bị tra tấn nói riêng từ góc độ luật pháp có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung và trong công cuộc cải cách tư pháp nói riêng ở nước ta. 2. Tình hình nghiên cứu Đối với quốc tế, cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu đưa ra được những nội dung về tra tấn cũng như phòng, chống tra tấn, trong đó có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như: Amnesty International (2003), Combating Torture – A manual for Action; Redress Trust (2006), Bring the International Prohibition of Torture home; William F. Schulz (2007), The Phenomenon of Torture: Readings and Commentary; Haque, A. A. (2007), “Torture, Terror and the Invasion of Moral Principles”; Steven Lee (2007), Intervention, Terrorism, and Torture: Contemporary Challenges to Just War Theory v.v… Tại Việt Nam, từ trước đến nay đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề phòng, chống tra tấn, trong đó chủ yếu là các công trình nghiên cứu trong liñ h vực tố tu ̣ng hình sự và thi hành án hình sự với nô ̣i dung đảm bảo quyề n của những người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và những người chấ p hành hình phạt tù. Những đố i tươ ̣ng này là những người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ phụ thuộc vào rất nhiều vào việc tuân thủ đúng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Và trên thực tế quyền và lợi ích này rất hay bị xâm phạm và họ có khả năng bị tra tấn cao do đă ̣c thù môi trường giam giữ , chính vì thế đã có rất nhiều công trình khoa học quan tâm đến vấn đề bảo vệ những quyền của các chủ thể này. Có thể kể đến: - Về sách đáng chú ý là: cuốn sách Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội (Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1999) của Luật sư, PGS.TS Phạm Hồng Hải; cuốn sách Về bảo đảm quyền, lợi ích hợp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 3 2009) của TS. Trần Quang Tiệp; cuốn sách Họ vẫn chưa bị coi là có tội (Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1989) của PTS. Vũ Đức Khiển và Phạm Xuân Chiến; cuốn sách Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003) của TS.Trần Quang Tiệp. - Về các công trin ̀ h đề tài , luâ ̣n văn, luâ ̣n án, có thể kể đến luận án tiến sỹ luật học Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay của Nguyễn Huy Hoàng; luận án tiến sĩ luật học Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự của Hoàng Thị Sơn (Đại học Luật Hà Nội , 2003); luâ ̣n án tiế n sỹ Thực hiê ̣n pháp luật về quyề n con người của phạm nhân trong thi hành án phạt tù ở Việt Na m của Nguyễn Đức Phúc (Học viện C hính trị quố c gia Hồ Chí Minh , 2012); đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam do GS.TSKH Lê Văn Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí. Ths. Trịnh Quốc Toản đồng chủ trì; luận văn thạc sĩ luật học Hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người trong xét xử hình sự ở nước ta hiện nay của Hoàng Hải Hùng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000); Khóa luận tốt nghiệp Công ước Chống tra tấn năm 1984 và khả năng gia nhập của Việt Nam của Đào Thị Thùy Nga (Khoa Luật - Đại học Quốc gia, 2011). - Ngoài ra, vấn đề đảm bảo quyề n của người bị tạm giữ , bị can, bị cáo và người chấ p hành hình pha ̣t tù còn được đề cập ở các mức độ khác nhau trong các công trình của một số tác giả khác như: Đảm bảo quyề n con người trong viê ̣c bắ t, tạm giữ, tạm giam (Tạp chí Khoa học pháp lý số 3/2006) của Nguyễn Tiế n Đa ̣t ; bài viết Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền, nghĩa vụ của bị can, bị cáo và cơ chế bảo đảm thực hiện (Tạp chí Nghiên cứu luật pháp, số 5/2009) của TS. Chu Thị Trang Vân; Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự (tạp chí Tòa án 4 nhân dân số 9/1992) của PGS.TS Trần Văn Độ; Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự: Khái quát từ góc độ lịch sử nhân loại (tạp chí Tòa án nhân dân số 7/2009) của tác giả Nguyễn Thành Long; Các giải pháp phòng, chống oan, sai trong tố tụng hình sự nhìn từ góc độ cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay (tạp chí Tòa án nhân dân số 1/2010) của tác giả Hồ Sỹ Sơn; Cần sửa đổi, bổ sung nội dung sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm (tạp chí Tòa án nhân dân số 11/2010) của tác giả Bùi Thị Nghĩa; Một số ý kiến về việc người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành hình phạt tù xin kết hôn (tạp chí Tòa án nhân dân số 10/2010) của tác giả Trần Ngọc Tú; Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự (tạp chí Tòa án nhân dân số 5/2009) của tác giả Mai Bộ; Chuẩn mực quốc tế về đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự (tạp chí Kiểm sát số 13/2006) của tác giả Tưởng Duy Kiên; Quyền của Luật sư trong giai đoạn Điều tra vụ án hình sự- những hạn chế, bất cập qua thực tiễn áp dụng (tạp chí Tòa án nhân dân số 4/2009) của tác giả Vũ Huy Khánh. Tiếp đến là mô ̣t số Giáo trình và tài liệu tham khảo như: Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Nxb Công an nhân dân, 2010) của trường Đại học Luật Hà Nô ̣i; Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Nxb Đại học Quốc gia, 2010) do TS. Nguyễn Ngọc Chí chủ biên; Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Nxb Công an nhân dân, 2010) của Trường Đại học Luật Hà Nội do PSG.TS Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên; Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, (Nxb Học viện cảnh sát nhân dân, 2005) của Bộ môn pháp luật, Học viện Cảnh sát nhân dân do TS. Khổng Văn Hà chủ biên; Bình luận Luật Thi hành án hình sự năm 2010 (Nxb Chính tri ̣quố c gia, 2012) do GS.TS Nguyễn Ngọc Anh chủ biên ; Tài liệu Bình luận Công ước chống tra tấn và sử dụng các hình thức trừng phạt hay đối xử khác tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người của Vụ Pháp chế, Bộ Công an năm 2008. 5 Bên cạnh đó, cũng đã có một số hội thảo có liên quan đế n vấ n đề phòng , chố ng tra tấ n , ví dụ như hội thảo quốc tế Công ước Chống tra tấn và sử dụng các hình thức trừng phạt hay đối xử khác tàn bạo, vô nhân đạo hoặc nhục hình do Trung tâm nghiên cứu Quyề n con người – Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phố i hơ ̣p với Bô ̣ Ngoa ̣i giao tổ chức tháng 12 năm 2003; Hội thảo Nghiên cứu khả năng Việt Nam gia nhập Công ước chống tra tấn của Liên hợp quốc do Bô ̣ Công an tổ chức tháng 11 năm 2008; Hô ̣i thảo Về viê ̣c tham gia Công ước chố ng tra tấ n do Ban nghiên cứu gia nhâ ̣p công ước chố ng tra tấ n – Bô ̣ Công an tổ chức tháng 6 năm 2013; Hô ̣i thảo Công ước Chố ng tra tấ n và các hình thức đố i xử hoặc trừng phạt tàn bạo , vô nhân đạo hoặc hạ nhục con ngườ i do Bô ̣ Ngoa ̣i giao phố i hơ ̣p với Chương triǹ h phát triể n Liên hơ ̣p quố c tổ chức tháng 6 năm 2014. Đánh giá chung về các công trình đã được công bố có nội dung đề cập đến vấn đề bảo vệ quyền con người nói chung, và vấn đề phòng, chống tra tấn nói riêng đươ ̣c tiếp cận, có thể nhận thấy rằng các tác giả đã nêu được những nội dung đảm bảo quyền con người liên quan đến phòng , chống tra tấn mà chủ yếu là quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người chấ p hành hình phạt tù trong hệ thống tư pháp hình sự , trong đó có quyền không bị bức cung, nhục hình, quyền được coi là không có tội cho đến khi có bản án có hiệu lực của Tòa án , vấn đề phòng , chống tra tấn trong các nghiên cứu này phầ n nào đã đươ ̣c thể hiê ̣n thông qua các nô ̣i dung đảm bảo quyề n của những người tham gia tố tu ̣ng cũng như vấ n đề truy cứu trách nh iê ̣m đố i với người tiế n hành tố tụng . Tuy nhiên, kể từ khi Hiến pháp 2013 đươ ̣c thông qua với quy đinh ̣ về viê ̣c cấ m tra tấ n tại Điều 20 và cùng với việc Việt Nam đã ký kết Công ước Chố ng tra tấ n và đang trong quá trình gia n hâ ̣p Công ước này , thì chưa có công trình nào phân tích so sánh một cách toàn diện giữa pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về phòng, chố ng tra tấ n . Cũng chưa có công 6 trình nào nêu ra những giải pháp toàn diện, cụ thể hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như cơ chế trong vấn đề phòng, chống tra tấn tại Việt Nam. Nhận thấy đây là một vấn đề còn mới mẻ chưa được nghiên cứu một cách hệ thống, đồng bộ tại Việt Nam, vì thế tôi đã quyết định chọn đề tài: “Phòng, chống tra tấn trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam: Phân tích so sánh” cho luận văn thạc sỹ của mình. 3. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu của luận văn này là phân tích những nội dung của pháp luật quốc tế và Việt Nam trong vấn đề phòng, chống tra tấn, từ đó tìm ra những khoảng trống giữa pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam trong vấn đề này. Tiếp đến, đề xuất những nội dung cần phải sửa đổi, bổ sung để làm hài hòa hệ thống pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế trong vấn đề phòng, chống tra tấn cũng như cơ chế phòng chống tra tấn hiệu quả tại Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Phân tích làm rõ phạm vi, nội hàm của các quy định trong các văn kiện pháp lý quốc tế và Việt Nam về phòng, chống tra tấn. - Đánh giá mức độ tương thích giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế trong vấn đề phòng, chống tra tấn. - Nghiên cứu nội dung cần sửa đổi, bổ sung để hòan thiện pháp luật Việt Nam về phòng, chống tra tấn phù hợp với các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế có liên quan. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam về Nhà nước và Pháp luật, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về đảm bảo quyền con người. 7 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong Luân văn này bao gồm: Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh v.v… 6. Kết cấu của Luận văn Để đạt được mục tiêu kể trên, Luận văn kết cấu thành ba chương như sau: Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về phòng, chống tra tấn Chƣơng 2: Pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về phòng, chống tra tấn Chƣơng 3: Sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế về phòng, chống tra tấn. Một số đề xuất, kiế n nghi.̣ 8 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG, CHỐNG TRA TẤN 1.1. Tra tấn 1.1.1. Khái niệm tra tấn Tổ chức Ân xá quốc tế là tổ chức đầu tiên định nghĩa Tra tấn từ góc độ chính trị và điều hành để sử dụng trong vận động nhân quyền và nghiên cứu dịch tễ học và khảo sát. Theo đó một định nghĩa tra tấn khá rộng và đơn giản được sử dụng trong Báo cáo về tra tấn năm 1973 như sau: “Tra tấn là sự gây tổn hại có hệ thống và có chủ ý bởi một người này đối với người khác, hoặc đối với người thứ ba, để thực hiện mục đích của người tra tấn trái với ý muốn của người kia” [62]. Định nghĩa của Hiệp hội Dược Thế giới, trong Tuyên bố Tokyo 1975 cũng có nội dung tương tự: Tra tấn được coi là sự gây tổn hại về thể chất hoặc tinh thần một cách có chủ ý, hệ thống hoặc bừa bãi do một hoặc nhiều người tự mình thực hiện hoặc theo mệnh lệnh của người có thẩm quyền, để ép buộc người khác đưa ra thông tin, thú tội, hoặc vì bất kỳ lý do nào Theo từ điển Tiếng Việt thì Tra tấn là việc đánh đập tàn nhẫn để bắt cung khai. Còn theo Từ điển Webster‟s New Collegiate Dictionary thì tra tấn được hiểu như sau: 1. Gây ra đau đớn dữ dội (như đốt, đánh đập, gây thương tích) để trừng phạt, ép buộc hoặc để thỏa mãn thú vui tàn bạo. 2. Gây ra đau đớn về thể chất hoặc tinh thần. 3. Để trừng phạt hoặc ép buộc thông qua việc gây đau đớn. 4. Để gây ra sự chịu đựng đau đớn, để gây ra đau khổ. Và đinh ̣ nghiã đươ ̣c chấ p nhâ ̣n rô ̣ng raĩ nhấ t cho đế n nay là định nghĩa tra tấ n theo Công ước chố ng tra tấ n và các hiǹ h thức đố i xử hoă ̣c trừng pha ̣t 9 tàn bạo, vô nhân đa ̣o hoă ̣c ha ̣ nhu ̣c con người của Liên hơ ̣p quố c 1984 (Sau đây go ̣i tắ t là Công ước Chố ng tra tấ n): Tra tấn có nghĩa là bất kỳ hành vi nào cố ý gây đau đớn hoặc khổ đau nghiêm trọng về thể xác hay tinh thần cho một người, vì những mục đích như lấy thông tin hoặc lời thú tội từ người đó hay một người thứ ba, hoặc để trừng phạt người đó vì một hành vi mà người đó hay người thứ ba thực hiện hay bị nghi ngờ đã thực hiện, hoặc để đe doạ hay ép buộc người đó hay người thứ ba, hoặc vì bất kỳ một lý do nào khác dựa trên sự phân biệt đối xử dưới mọi hình thức, khi nỗi đau đớn và khổ đau đó do một công chức hay người nào khác hành động với tư cách chính thức gây ra, hay với sự xúi giục, đồng tình hay ưng thuận của một công chức [9]. Theo như những điểm trên có thể nhận thấy tra tấ n đươ ̣c đinh ̣ nghi ̃ a ở nhiề u văn bản khác và ta ̣i nhiề u thời điể m khác nhau tuy nhiên tựu chung la ̣i thì thấy rằng những hành vi gây ra đau đớn chỉ được coi là tra tấn khi nó được thực hiện với mục đích nhất định với thẩ m quyề n nhấ t đinh ̣ . Như vậy nếu có một vụ ẩu đả, đánh đập diễn ra trên đường phố chẳng hạn thì dù có thể nạn nhân bị thương tích, bị xâm hại nhưng những người thực hiện hành vi đó không theo bất kỳ một mệnh lệnh, hay dưới quyền lực của chính quyền, quân đội hay tư pháp thì đó không phải là tra tấn. Trái lại nếu một nhóm người thuộc quân đội thực hiện hành vi như trên thì đó là tra tấn. Điểm khác biệt chính giữa một hành vi dã man đơn thuần với một hành vi tra tấn đó là ở hành vi đó được thực hiện theo một thẩm quyền chính thức và với mô ̣t mu ̣c đích nhấ t đinh ̣ . Như vậy trong những định nghĩa này có ngụ ý rằng khi tra tấn được thực hiện dưới danh nghĩa chính quyền thì nó sẽ được chấp nhận. Và thông qua việc truy cứu trách nhiệm cho những người trong việc ra lệnh và điều 10 hành việc tra tấn đã tạo cho những người thực hiện hành vi tra tấn lợi thế để có thể không phải chịu trách nhiệm khi đưa ra lời biện hộ rằng “Chúng tôi chỉ làm theo lệnh” [55]. Tra tấ n phải đươ ̣c thực hiê ̣n cố ý , trái ý muốn nạn nhân và khi nạn nhân trong tình tra ̣ng không thể tự vê ̣ đươ ̣c . Như vâ ̣y trong các trường hơ ̣p những sự đau đớn nghiêm tro ̣ng đươ ̣c thực hiê ̣n mô ̣t cách vô ý như A vô tình làm bỏng B; A cố tin ̣ ̉ ng và B đồ ng ý để cho A làm bỏng miǹ h ; và ̀ h làm B bi bo trong cả trường hơ ̣p dù B không muố n A làm miǹ h bi ̣bỏng nhưng B đã có thể chố ng trả và tự vê ̣ ngăn chă ̣n lại hành vi của A thì tất cả các trường hợp này không phải là tra tấ n. Trên thực tế tra tấ n không thể xảy ra nế u không tước bỏ quyề n tự chủ của nạn nhân trong quá trình tra tấn . Tra tấ n đươ ̣c thực hiê ̣n với mu ̣c đić h phá vỡ ý chí của nạn . Ít nhất người thực hiện hành vi tra tấn sẽ cố ý thực hiện việc kiể m soát đố i với cơ thể và các cảm giác của nạn nhân (gây ra sự đa u đớn nghiêm tro ̣ng). Qua đó cơ thể của na ̣n nhân không còn là của na ̣n nhân , thay vào đó trở thành công cu ̣ của người tra tấ n. Cầ n phải phân biê ̣t tra tấ n với cưỡng ép . Trong trường hơ ̣p cưỡng ép , thì người bi ̣cưỡng ép bi ̣bắ t phải làm những viê ̣c mình không muố n . Điề u này có điể m giố ng với tra tấ n ở chỗ lấ y đi sự kiể m soát hành đô ̣ng và ra quyế t đinḥ của nạn nhân, ví dụ trong trường hợp mô ̣t vu ̣ cướp tài sản , mô ̣t người miễn cưỡng phải đưa tài sản khi bị kẻ cướp đe do ̣a xâm ha ̣i tiń h ma ̣ng . Trong ví du ̣ này , cưỡng ép không bắ t buô ̣c phải có yế u tố gây ra đau đớn nghiêm tro ̣ng về thể chấ t hay tinh thầ n, do vâ ̣y nó không phải là tra tấ n. Và trong trường hơ ̣p cưỡng ép có sử dụng vũ lực ví dụ như cảnh sát sử dụng dụng cụ sốc điện để trấn áp đám đông biể u tin ̀ h thì đây cũng không phải là tra tấn , nế u những người biể u tình không nằ m dưới sự kiể m soát của cảnh sát, và họ có thể tự vệ được . Tuy nhiên, tra tấ n vẫn có sự liên quan đế n cưỡng ép trong nhiề u trường hơ ̣p , đă ̣c biê ̣t khi người thực hiê ̣n hành vi tra tấ n muố n tìm kiế m thông tin từ na ̣n nhân. 11 1.1.2. Mục đích của Tra tấn Vào buổi sơ khai, tra tấn ở dưới hình thức rộng hay hẹp tùy thuộc vào tội phạm và được sử dụng như là một cách để trừng phạt những người phạm tội. Vào thời xa xưa, khi mà cuộc sống ngắn ngủi, dã man và tàn bạo, thì khó có thể có hình phạt nào khác hơn. Khi những người phạm tội vi phạm những quy tắc đạo đức thì họ sẽ bị hành hình công khai một cách man rợ, đó cũng là cách để chứng tỏ rằng pháp luật được thực thi, xã hội được đảm bảo an toàn và những ai tuân theo pháp luật cũng sẽ được an toàn. Những hình ảnh thực thi pháp luật như vậy là để làm hài lòng đám đông và cho họ cảm giác về công lý được thực thi. Tra tấn còn được sử dụng như là công cụ để duy trì sự kiểm soát và thực thi quyền lực đối với những người đối lập hay những người có tư tưởng cấp tiến và có khả năng đe dọa đến chính quyền và hệ thống cai trị. Trải qua nhiều thiên niên kỷ, hàng ngàn các nền văn minh trỗi dậy rồi lại sụp đổ, nhưng việc sử dụng tra tấn và những lý do đằng sau việc sử dụng nó vẫn còn duy trì khá liên tục. Mục đích sử dụng tra tấn đầu tiên với tư cách là hình thức trừng phạt thường không quá phức tạp, đó là khi người phạm tội bị xác định là có tội thì họ bị trừng phạt. Nhưng qua thời gian, mục đích của việc sử dụng tra tấn chuyển từ việc trừng phạt đơn thuần sang việc lấy thông tin, đó là khi các nạn nhân bị đưa đến nơi hành hình và chứng kiến tận mắt quá trình của việc hành hình mà mình sẽ sắp phải trải qua, sau đó họ lại được đưa về nơi giam giữ để suy nghĩ. Như vậy thì những hình ảnh đó cũng đủ để cho những người đó phải khai tất cả những gì mình biết, tuy vậy cũng không loại trừ những người có ý chí mạnh khi không khai gì cả vì biết rằng dù có khai hay không thì họ vẫn bị hành hình, tra tấn như vậy. Việc chỉ ra một các rõ ràng những hình thức trừng phạt nào được coi là tra tấn, và những hình thức nào là không phải tra tấn sẽ khó khăn hơn khi coi tra tấn là một công cụ để thu thập thông tin hay lời thú tội. Vào bất kỳ lúc nào 12 khi mà thông tin bị cưỡng ép thu thập từ người đang bị giam cầm thì rất có khả năng rằng tra tấn đã được thực hiện bởi nếu là người vô tội, thì họ không có thông tin gì để cung cấp cả và nếu là người có tội, thì họ sẽ không muốn đưa ra bất kỳ thông tin gì. Mặt khác, theo bản chất của việc trừng phạt thì người phạm tội sẽ chịu trừng phạt nặng hay nhẹ tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tội phạm. Bất kể là tội phạm gì thì khi các quy chuẩn xã hội bị phá vỡ thì việc trừng phạt sẽ được thực thi, để đảm bảo rằng chính quyền đang làm đúng công việc của mình. Thất bại trong việc này sẽ dẫn đến tình trạng bất ổn, và sự sụp đổ của xã hội là không thể tránh khỏi. Vậy khi nào thì việc trừng phạt trở thành tra tấn? Không nghi ngờ gì khi việc trừng phạt một cách chậm rãi và dưới cách thức gây ra đau đớn dữ dội chính là tra tấn. Liệu hình phạt nhẹ hơn có được coi là tra tấn hay không là do tập tục hiện hành của xã hội quyết định. Vào thời xa xưa, khi mà cuộc sống mông muội và man rợ thì thậm chí trong thời điểm yên bình nhất, chỉ có ba loại hình phạt chính: đánh – cho tội nhẹ; hình phạt nợ máu trả bằng máu (nhưng không tử hình) cho tội nghiêm trọng; và cuối cùng là hành hình. Vì các tội nhẹ phổ biến hơn so với các tội nghiêm trọng nên việc đánh thường được áp dụng, và mức độ nghiêm trọng của tội phạm cũng như tính tàn bạo của các chuẩn mực xã hội sẽ quyết định người phạm tôi sẽ bị đánh bằng công cụ gì. Ngày nay, mục đích của tra tấn có thể phức tạp và đa dạng hơn, nó không những đươ ̣c sử du ̣ng để làm công cu ̣ trừng tri ̣ hay lấ y thông tin từ người pha ̣m tô ̣i mà còn được sử du ̣ng để “trả thù một hay nhiề u người hoặc để khủng bố , gây hoảng loạn trong cộng đồ ng” v.v... [68]. 1.1.3. Các hình thức của tra tấn Tra tấ n có thể chia thành hai nhóm : tra tấ n về thể chấ t và tra tấ n về tinh thầ n. Tuy nhiên hai nhóm này có nhiề u điể m khá giố ng nhau do vâ ̣y hâ ̣u quả 13 của hai nhóm này khó có thể phân biệt được : sự tra tấn thể xác có thể để lại những vết sẹo tâm lý nghiêm trọng, trong khi sự tra tấn tâm lý có thể gây nên những vấn đề nghiêm trọng về thể xác. Hầ u hế t các hiǹ h thức tra tấ n là nhằ m làm cho nạn nhân phải đau đớn và sợ hãi trong một thời gian càng lâu càng tốt mà không để lại dấu vết gì trên cơ thể họ . Mô ̣t số hiǹ h thức phổ biế n của tra tấ n về thể chấ t có thể đế n là đánh đâ ̣p, số c điê ̣n, dìm vào nước, làm nghẹt thở hoă ̣c gây bỏng v.v... Hình thức phổ biến của tra tấn tinh thần có thể gồm cách ly, đe do ̣a, làm nhục, chế nha ̣o, không cho ngủ , ăn hay uố ng hoă ̣c phải chứn g kiế n cảnh người thân trong gia điǹ h của miǹ h bi ̣tra tấ n . Hiế p dâm và xâm ha ̣i tình dục cũng là những hình thức của tra tấn và được thực hiện cả với phụ nữ và đàn ông trong quá trình bắt giữ hoặc giam cầm , hoă ̣c trong cá c cuô ̣c xung đô ̣t hoă ̣c chiế n tranh. 1.1.4. Nạn nhân của tra tấn và người thực hiện hành vi tra tấn Nạn nhân của tra tấn có thể là bất kỳ ai , bao gồ m chiń h tri ̣gia , nhà báo, nhân viên y tế , những người hoa ̣t đô ̣ng nhân quyề n , những người bi giam giữ ̣ hoă ̣c tù nhân, thành viên của các nhóm thiểu số , và cả những người dân bình thường, cả trẻ em và người trưởng thành . Nạn nhân bị tra tấn không chịu đựng những hâ ̣u quả mô ̣t mình mà trong nhiề u trường hơ ̣p tra tấ n còn có ảnh hưởng đế n cả gia đình , bạn bè và cộng đồng của họ . Đôi khi trẻ em bi ̣bắ t buô ̣c phải chứng kiế n cảnh cha me ̣ mình bi ̣tra tấ n và ngươ ̣c la ̣i trẻ em có thể bị tra tấn để dày vò cha mẹ của đứa trẻ đ ó. Cô ̣ng đồ ng cũng có thể bi ̣ảnh hưởng từ viê ̣c thành viên trong cô ̣ng đồ ng bi ̣tra tấ n , khi thành viên của cô ̣ng đồ ng phải gánh chiụ những chấ n thương thể chấ t cũng như tâm lý , thâ ̣m chí tra tấ n còn làm cho những thành viên k hác trong cộng đồng đó cảm thấy rằng những quyề n con người cơ bản không đươ ̣c đảm bảo và tôn tro ̣ng. Tra tấ n có thể đươ ̣c thực hiê ̣n bởi sự xúi giu ̣c hoă ̣c với sự chấ p thuâ ̣n của người có thẩ m quyề n . Họ có thể là nhân viên canh giữ nhà tù , trại tạm giam , 14 tạm giữ; công an, quân đô ̣i, nhân viên y tế . Ngoài ra, nạn nhân thậm chí cũng có thể bị tra tấn bởi những người giam giữ cùng mình khi những người giam giữ đó thực hiê ̣n hành vi dưới sự chấ p thuâ ̣ n hoă ̣c ra lê ̣nh của người có thẩ m quyề n. Còn trong bố i cảnh xung đô ̣t vũ trang , tra tấ n có thể đươ ̣c thực hiê ̣n bởi các lực lươ ̣ng đố i lâ ̣p. 1.1.5. Quan điểm về sử dụng tra tấ n Dù có sự đồng thuận về vấ n đề lên án và loa ̣i tr ừ tra tấ n , thì tra tấn vẫn diễn ra ta ̣i các quố c gia bấ t kể quố c gia đó có hê ̣ thố ng chiń h tri, ̣ pháp luật như thế nào . Viê ̣c dường như không thể loa ̣i bỏ tra tấ n trên thực tế (hay thâ ̣m chí trên luâ ̣t pháp ) là thách thức lớn nhấ t đố i với phong trào nhân quyề n thế giới . Trong nhiề u trường hơ ̣p , ở nhiều quốc gia tra tấn vẫn được sử dụng , hơ ̣p lý hóa cũng như hợp pháp hóa . Chính vì thế mà vấn đề tra tấn luôn được quan tâm và không ngừng đươ ̣c đưa ra. Đã có nhiều quan điểm trong vấn đề sử dụng tra tấn , tuy nhiên nổi bật nhất có thể kể đến hai quan điểm , đó là quan điểm dựa vào cơ sở đa ̣o lý và quan điểm dựa vào cơ sở nhân quả. Quan điểm dựa vào cơ sở đạo lý Từ góc độ đạo lý, thì việc tra tấn có tính chất tàn bạo và hạ thấp nhân phẩm và chính vì những đặc điểm này , tra tấn là sai trái về mặt đạo lý . Và sự vi phạm nhân phẩm con người và không tôn trọng quyền tự quyết của nạn nhân là xuất phát từ việc tra tấn . Vì mỗi người có các quyền cơ bản cần được người khác tôn trọng, do đó tra tấn không thể được bao biện về mặt đạo lý. Về vấn đề này có một số người cho rằng các hình thức khác của bạo lực, mà có tính chất ngang bằng với sự tàn bạo và hạ thấp nhân phẩm mà có thể được sử dụng và đươ ̣c coi là hợp pháp trong một số trường hợp . “Nếu việc giết người có thể được bào chữa trong chiến tranh và vì lý do tự vệ thì theo đó tra tấn cũng cần được bào chữa trong những điều kiện tương tự như vậy” [60, tr.337-353]. Mặc dù ý kiến này có vẻ hợp lý nhưng sự so sánh tra tấn với tự vệ là sai lầm vì 15 những lý do sau: thứ nhất, việc bào chữa một trong những hình thức bạo lực không có nghĩa là sẽ bào chữa cho việc sử dụng hình thức bạo lực khác. Thứ hai, bào chữa việc giết người trong chiến tranh và tự vệ là có cơ sở từ việc có một mối đe dọa từ người khác đối với tính mạng của chính chúng ta, do đó chúng ta có quyền tự bảo vệ bản thân mình. Tra tấn trái lại là một hành vi bạo lực đối với người không có sự tự vệ, không phản kháng được và không có một mối đe dọa trực tiếp hay trước mắt nào . Hành vi tra tấn luôn luôn bao hàm một quan hệ quyền lực không cân xứng giữa người tra tấn và nạn nhân , trong đó người tra tấn có sự kiểm soát tình hình một cách tuyệt đối và sử dụng sự khống chế và vũ lực lên nạn nhân không thể phản kháng được. Việc lấy tự vệ để bào chữa cho hành vi tra tấn là không thể vì hành vi tra tấn là hành vi sử dụng vũ lực đối với nạn nhân không thể phản kháng được. Quan điểm dựa vào cơ sở nhân quả Mặc dù hầu hết các học giả đồng ý rằng từ góc độ đạo lý, tra tấn không thể được bào chữa, nhưng cuộc tranh luận về việc bào chữa đối với tra tấn từ góc độ nhân quả phức tạp hơn. Những học giả gạt bỏ tất cả những bào chữa cho việc sử du ̣ng tra tấn xuất phát từ nguồn gốc đạo lý, cho rằng việc sử du ̣ng tra tấn vào những trường hợp ngoại lệ là có thể chấp nhận từ góc độ nhân quả, miễn sao hậu quả tích cực từ việc sử dụng tra tấn lớn hơn hâ ̣u quả tiêu cực của việc tra tấn. Tranh luận này có nguồn gốc từ phân tích giá-lợi ích cho rằng tra tấn có thể được bào chữa nếu đó là cái ít có hại hơn và được sử dụng để tránh hậu quả lớn hơn. Để phát triển và tăng cường lý lẽ này, những người bào chữa cho việc sử dụng tra tấn dựa chủ yếu vào “giả thiết diễn tiến của bom hẹn giờ” [66, tr.221] được phát triển bởi Bentham. Học thuyết này mô tả tình huống khẩn cấp trong đó tra tấn được sử dụng để lấy thông tin từ người khủng bố về địa điểm đặt bom hẹn giờ. Trong vụ việc này, việc sử dụng tra tấn có thể được coi là ít có 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan