Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ PHONG CÁCH HỌC VÀ ĐẶC ĐIỂM TU TỪ TIẾNG VIỆT (Trịnh Đức Long)...

Tài liệu PHONG CÁCH HỌC VÀ ĐẶC ĐIỂM TU TỪ TIẾNG VIỆT (Trịnh Đức Long)

.DOC
41
4584
144

Mô tả:

PHONG CÁCH HỌC VÀ ĐẶC ĐIỂM TU TỪ TIẾNG VIỆT (Trịnh Đức Long)
CHUYÊN ĐỀ PHONG CÁCH HỌC VÀ ĐẶC ĐIỂM TU TỪ TIẾNG VIỆT Người biên soạn: Th. S. Trịnh Đức Long Trường CĐSP Đắk Lắk BUÔN MA THUỘT 2011 CHƯƠNG I. DẪN LUẬN VỀ PHONG CÁCH HỌC I. Phong cách học là gì? 1. Thuật ngữ + Thời Cổ đại người Hy Lạp dùng từ ”Stylos” để chỉ chiếc que dùng để viết. + Người Pháp sau này dùng từ “Style” ban đầu có nghĩa là nét chữ, sau đó chuyển nghĩa thành bút pháp với những đặc điểm ngôn ngữ và văn thể. Cuối cùng có nghĩa là “Phong cách” + Trên thế giới, các ngôn ngữ như : Anh, Pháp, Nga, Ðức... đều lấy từ nguyên có nguồn gốc ở tiếng Latin : Stylus ( Stilus ) nghĩa là phong cách - kết hợp với một hậu tố có nghĩa là ngành học để tạo thành thuật ngữ phong cách học. Ví dụ : Tiếng Pháp : Styl - istique;Tiếng Anh : Styl - istics; Tiếng Ðức : Styl - istik Tiếng Nga : CmuL - ucmuka Ở Việt Nam trước đây, các nhà ngôn ngữ học thường dùng thuật ngữ Tu từ học. Ðiều này do ảnh hưởng của tu từ học truyền thống. Về sau, do nhận thấy thuật ngữ phong cách học, một mặt có cách cấu tạo tương đồng với thuật ngữ của nhiều ngôn ngữ, mặt khác, có khả năng gợi lên sự liên tưởng đúng đến nội dung rất cơ bản của ngành khoa học này, nghiên cứu về phong cách ngôn ngữ, nên các nhà ngôn ngữ học Việt Nam hiện nay đã dùng thống nhất thuật ngữ phong cách học. 2. Phong cách học là gì? Phong cách học là một ngành khoa học bộ phận của ngôn ngữ học khảo sát quy luật sử dụng các phương tiện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của một ngôn ngữ để tạo nên những lời nói có hiệu quả xét về phương diện cách thức biểu đạt bắt nguồn từ nhu cầu diễn đạt ý tưởng nhằm đạt một mục đích nào đó trong giao tiếp. II. Lịch sử hình thành phong cách học trên thế giới và Việt Nam 1. Trên thế giới 1.1. Phương Tây - Theo truyền thuyết, vào thế kỉ thứ V Tr.CN, ở đảo Sicie, hai nhà hùng biện là Corax và Tisias đã sáng tạo ra môn Tu từ học, nghiên cứu hoạt động ngôn từ với tư cách là diễn từ. Sau này, các nhà hùng biện Hi Lạp và La Mã dù có nhấn mạnh bộ phận này hay bộ phận khác của tu từ học, nhưng về đại thể vẫn giữ lại những nét chung tiêu biểu. - Ðến thế kỉ thứ IV- III Tr.CN, một số triết gia Hi Lạp và La Mã như: Platon (428-347), Democrite (460- 370), Aristote (384- 322)... đã hình thành môn học đặt tên là Rhêtorikê (Mĩ từ pháp). Ðến thế kỉ thứ I Tr.CN, Virgile, nhà thơ La Mã, đề xuất ý kiến về sự phân chia các phong cách diễn đạt. Nội dung của Mĩ từ pháp cổ đại gồm: Các phép mĩ từ (Figura) dùng trong diễn đạt; Phong cách diễn đạt; Cơ cấu một bài văn. Mĩ từ pháp cổ đại đã có ảnh hưởng lớn đến ngôn từ hùng biện, đến nghệ thuật viết văn thời cổ đại và sau này truyền đi khắp châu Âu. - Ðầu thế kỉ XX, khoa học ngôn ngữ trên thế giới bước vào một thời kì mới, mở đầu bằng hệ thống các luận điểm trong bài giảng của nhà ngôn ngữ học vĩ đại người Thụy Sĩ, Ferdinand de Saussure (1857-1913). Ông đã đào tạo nên nhiều nhà ngôn ngữ học tài giỏi mà hai trong số đó là Charles Bally và Alber Sechehaye. - Năm 1908, Albert Sechehaye cho xuất bản cuốn Phong cách học và ngôn ngữ học lí thuyết. Ông là người đầu tiên chỉ ra sự cần thiết phải xem phong cách học là một ngành độc lập của khoa học ngữ văn. - Năm 1909, cuốn Khảo luận về phong cách học tiếng Pháp của Charles Bally ra đời; trong đó tác giả đề cập những vấn đề về đối tượng, nội dung, phương pháp nghiên cứu của phong 2 cách học. Charles Bally được coi như là người đề xướng và khai sinh cho ngành phong cách học ở nước Pháp nói riêng và trên thế giới nói chung. - Năm 1919, Leo Spilzer mở rộng sự quan tâm đến những thuộc tính phong cách của văn bản, nhấn mạnh đến những luận điểm của Buffon Phong cách chính là con người và cho rằng sự kiện phong cách bao gồm cả phần tư duy và phần tình cảm. Khuynh hướng này được mệnh danh là phong cách mới. - Suốt nửa đầu thế kỉ, các nhà ngôn ngữ học trên thế giới quan tâm nhiều đến các vấn đề ngôn ngữ học đại cương, lí luận âm vị học, lí luận ngữ pháp mà ít quan tâm đến phong cách học và chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ vào nửa sau thế kỉ XX. 1.2. Phương Ðông - Vào thế kỉ thứ IV Tr .CN, Mặc Tử đã có những ý kiến bàn luận về sự biến hoá của lời nói trong các văn cảnh khác nhau bằng khái niệm Thiên hành. Thực chất là bàn luận về sự hành chức của các đơn vị ngôn ngữ trong thực tiễn nói năng. Thời Chiến Quốc, một số danh gia như Huệ Thi, Công Tôn Long cũng có những luận bàn về mối quan hệ giữa tên gọi và sự vật. Dù lập luận còn mang màu sắc ngụy biện nhưng họ đã dùng đến các biện pháp tu từ mà nay chúng ta định danh là: so sánh, tương phản, ngoa dụ... - Cuối thời Chiến Quốc, Tuân Tử, một đại biểu xuất sắc của phái Nho gia đã có những phát hiện mới khi bàn về tính ước lệ (quy ước) của tên gọi nói riêng và của ngôn ngữ nói chung: Ước lệ đã thành thói quen thì bảo là đúng; khác với thói quen thì bảo là không đúng. Ðiều này có liên quan đến khái niệm mà phong cách học dùng sau này, đó là khái niệm chuẩn mực. 2. Ở Việt Nam 2.1. Trong các quyển Vân đài loại ngữ, Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Ðôn cho biết các nhà trí thức Việt Nam như: Hoàng Ðức Lương (thế kỉ XV), Phùng Khắc Khoan (thế kỉ XVI), Lê Hữu Kiều (thế kỉ XVIII)... đã có những ý kiến bàn luận về cách luyện văn, luyện câu, luyện chữ nghĩa trong văn chương. 2.2. Từ cuối thế kỉ XIX đến khoảng trước 1964, nhiều học giả đã nghiên cứu, khảo sát và khái quát những vấn đề về ngữ pháp, ngữ âm, từ vựng của tiếng Việt như: Trương Vĩnh Ký, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm, Lê Văn Lý, Nguyễn Hiến Lê,... 2.3. Năm 1964, quyển Giáo trình Việt ngữ ( tập III- phần Tu từ học ) của Ðinh Trọng Lạc ra đời. Có thể xem giáo trình này đánh dấu sự xuất hiện thực sự của khoa học về phong cách học ở Việt Nam. Từ đó đến nay, rất nhiều quyển giáo trình mới về phong cách học được xuất bản. Tiêu biểu như : Phong cách học tiếng Việt (1982) của tập thể tác giả Cù Ðình Tú (chủ biên), Lê Anh Hiền, Nguyễn Nguyên Trứ; Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt (1983) của Cù Ðình Tú; Phong cách học tiếng Việt (1993) của Ðinh Trọng Lạc,... III. Đối tượng nhiệm vụ của phong cách học 1. Đối tượng nghiên cứu của phong cách học Trên những nét chung nhất, phong cách học được hiểu là khoa học nghiên cứu sự vận dụng ngôn ngữ, nói khác đi, nó là khoa học về quy luật nói viết có hiệu lực. Sử dụng ngôn ngữ có hiệu lực cao ở đây có nghĩa là: nói, viết đạt được tính chính xác cao, tính đúng đắn và tính thẩm mĩ trong mọi phạm vi hoạt động của giao tiếp xã hội. Nói cách khác, ngôn ngữ được sử dụng có hiệu quả cao là ngôn ngữ phải thực hiện được tất cả chức năng xã hội của nó. Do nhấn mạnh về mặt này hay mặt khác đối với việc vận dụng ngôn ngữ mà các nhà nghiên cứu đã có những quan điểm khác nhau về đối tượng nghiên cứu. 1.1. Đối tượng nghiên cứu của phong cách học là yếu tố biểu cảm của ngôn ngữ: Người đề xướng quan điểm này là Charles Bally. Theo ông phong cách học nghiên cứu các sự kiện biểu đạt của ngôn ngữ trên quan điểm nội dung biểu cảm của chúng, nghĩa là sự biểu đạt các sự kiện tình cảm bằng ngôn ngữ và tác động của ngôn ngữ đối với tình cảm. Nhà từ điển học Tây Ban Nha, H .Casares cũng tán thành quan điểm này: Sự nghiên cứu và đánh giá các yếu tố đi kèm theo phần thông báo trung hòa - logic thuần trí tuệ là đối tượng của 3 phong cách học. Ông cho rằng Phong cách học có nhiệm vụ tách ra các yếu tố phi quan niệm, đồng thời nghiên cứu các yếu tố phi quan niệm có trong biểu đạt. *Nhận xét: Quan điểm của Charles Bally và những người ủng hộ quan điểm này là đúng nhưng chưa đủ. Trong việc vận dụng ngôn ngữ, các yếu tố biểu cảm đóng một vai trò hết sức quan trọng. Tài năng, sức hấp dẫn của người nói, người viết thể hiện một cách tập trung và rõ nét trong việc vận dụng và sáng tạo các yếu tố biểu cảm. Thế nhưng trong giao tiếp, không phải lúc nào các yếu tố biểu cảm cũng có thể có mặt. Ví dụ: trong giao tiếp hành chính và khoa học không cần có sự tham gia của yếu tố biểu cảm Cái quyết định tạo nên một lời nói có hiệu lực cao là ở chỗ lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ phù hợp với thực tế giao tiếp. Chính vì thế, quan điểm này không được các nhà ngôn ngữ học Việt Nam ủng hộ. 1.2. Đối tượng nghiên cứu phong cách học là các phong cách chức năng ngôn ngữ Một số nhà ngôn ngữ học Tiệp Khắc như : Havranek, Jedlicka, Dolejel... xuất phát từ sự xác định phạm trù chung nhất của phong cách học là phong cách ngôn ngữ, đã xem phong cách ngôn ngữ là đối tượng của phong cách học. Havranek cho rằng: Nghiên cứu thể văn là công việc khoa học về thể văn (phong cách) hoặc phong cách học . Còn Dolejel cho rằng phạm trù chung quan trọng nhất là phong cách học. * Nhận xét: Trong giao tiếp, phong cách chức năng ngôn ngữ là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá tính chất đúng đắn, tính có hiệu lực cao của lời nói. Mỗi cá nhân trong quá trình vận dụng ngôn ngữ, tự giác hay không tự giác đều phải theo một phong cách chức năng ngôn ngữ nhất định. Do vậy quan điểm của các nhà ngôn ngữ học trên là có cơ sở nhưng cũng chưa đủ. Phong cách chức năng ngôn ngữ phải là một trong những nội dung quan trọng của phong cách học nhưng nếu xem đấy là nội dung duy nhất thì có phần cực đoan vì còn có vấn đề lựa chọn và vận dụng các phương tiện ngôn ngữ biểu cảm cũng như cả các phương tiện ngôn ngữ trung hoà. Thực tế trong giao tiếp đều thực hiện ở một phong cách chức năng ngôn ngữ nào đó nhưng ta không thể rập khuôn theo một cách nói năng (dù thống nhất và phù hợp với PC) nếu đối tượng, tình huống giao tiếp thay đổi. Mỗi phong cách chức năng ngôn ngữ cũng lại tồn tại dưới những biến thể. Ví dụ: Phong cách khẩu ngữ có khẩu ngữ văn hoá và khẩu ngữ thông tục ứng với những hoàn cảnh, đối tượng và mục đích giao tiếp khác nhau. Do vậy quan điểm này cũng không được các nhà ngôn ngữ học Việt Nam ủng hộ. 1.3. Đối tượng nghiên cứu phong cách học là quy luật lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ Một số nhà ngôn ngữ học Pháp và Liên Xô như: Julies, Maroujeau, K.Moren, R.G.Piotroski... xem việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện biểu đạt của ngôn ngữ là đối tượng của phong cách học. Moren viết phong cách học là ngành ngữ văn độc lập, nghiên cứu những nguyên tắc lựa chọn và sử dụng các phương tiện ngôn ngữ nhằm biểu đạt một nội dung nhất định trong những hoàn cảnh giao tiếp nhất định . * Nhận xét: Trong ngôn ngữ cũng như trong lời nói, luôn luôn có khả năng tồn tại những biến thể cùng nghĩa. Do vậy, trong giao tiếp chúng ta đều phải làm công việc lựa chọn các biến thể cùng nghĩa: - Lựa chọn các biến thể cùng nghĩa để nói hoặc viết khi phát tin. - Lựa chọn những biến thể cùng nghĩa để hiểu khi nhận tin. Lựa chọn là một hoạt động thường xuyên trong giao tiếp. Nội dung của sự lựa chọn là: lựa chọn các yếu tố biểu cảm và không biểu cảm, lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ và phương pháp diễn đạt phù hợp với phong cách. Sự lựa chọn cách nói, cách hiểu như trên thường diễn ra trong tiềm thức, một cách tự nhiên và đôi khi nếu không để ý, ta không nhận ra điều đó. Chỉ khi nào gặp phải trường hợp viết không ra ý, nói chẳng thành lời chúng ta mới thấy vấn đề nói, viết không phải dễ dàng và việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ đễ diễn đạt thật quan trọng biết bao. Thao tác lựa chọn này (cả thao tác kết hợp) diễn ra một cách trừu tượng. Trong 4 sáng tác văn chương, sự lựa chọn này rất quan trọng và bộc lộ rõ ràng hơn. Người nói càng thành thạo thao tác lựa chọn bao nhiêu, càng tập hợp được nhiều đơn vị ngôn ngữ tương đồng và dị biệt để lựa chọn thì hiệu quả diễn đạt của họ càng cao bấy nhiêu Ở Việt Nam, quan điểm này được các nhà ngôn ngữ học ủng hộ. Thực tế giao tiếp cho ta thấy khi vận dụng ngôn ngữ mỗi cá nhân đều bị chi phối bởi quy luật này. Người nói luôn phải suy nghĩ đến điều kiện và hậu quả cũng như kết quả của lời nói mình. Kho tàng tục ngữ của ta có rất nhiều câu nói về kinh nghiệm nói, viết . Ví dụ: - Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. - Ăn có nhai, nói có nghĩ. - Bút sa gà chết. Khi nói, viết cần phải suy nghĩ và trả lời các câu hỏi sau: - Nói, viết cho ai nghe? - Nói, viết về cái gì? - Nói, viết để làm gì? - Nói, viết như thế nào? - Nói, viết lúc nào? Có như thế mới có thể đạt hiệu quả cao khi giao tiếp. Và để trả lời các câu hỏi trên, chúng ta phải lựa chọn ngôn từ cho phù hợp. Như thế, lựa chọn là hoạt động cơ bản nhất chi phối toàn bộ quá trình vận dụng ngôn ngữ. => Đối tượng của phong cách học: Phong cách học là một bộ phận của ngôn ngữ học nghiên cứu nguyên tắc, quy luật lựa chọn và hiệu quả lựa chọn, sử dụng toàn bộ các phương tiện ngôn ngữ nhằm biểu hiện một nội dung tư tưởng tình cảm nhất định trong những phong cách chức năng ngôn ngữ nhất định. Lựa chọn để sử dụng các phương tiện ngôn ngữ đạt hiệu quả cao trong giao tiếp là một yêu cầu tất yếu khi nói, viết. Khi lựa chọn sử dụng các phương tiện ngôn ngữ cần chú ý các thao tác lựa chọn: - Xác định nội dung biểu đạt - Xác định phong cách lời nói - Liên hội những hình thức biểu đạt cùng nghĩa - Thử nghiệm và lựa chọn những hình thức biểu đạt cùng nghĩa cần thiết - Kiểm tra lại văn bản hay phát ngôn đã lựa chọn 2. Nhiệm vụ nghiên cứu của phong cách học 2.1. Chỉ ra khả năng và hiệu lực biểu đạt của các phương tiện ngôn ngữ trong từng phong cách ngôn ngữ. 2.2. Cách vận dụng các phương tiện ngôn ngữ để đạt hiệu quả cao trong giao tiếp, đúng phong cách ngôn ngữ. Việc chỉ ra khả năng và hiệu lực biểu đạt của các phương tiện ngôn ngữ trong từng phong cách chức năng ngôn ngữ là rất quan trọng. Các phương tiện ngôn ngữ bao giờ cũng tồn tại dưới dạng lớn hơn một, tức dưới dạng những biến thể. Ví dụ: âm vị có các âm tố thể hiện; ý nghĩa từ vựng có các từ cùng nghĩa thể hiện; ý nghĩa ngữ pháp có các dạng thức thể hiện. Trong thực tế giao tiếp có những cách nói cùng nghĩa xuất hiện rất linh động, đa dạng và phong phú. Mỗi dạng biến thể này đều có những đặc điểm tu từ riêng đòi hỏi cần phải nắm rõ, hiểu đúng. Có như thế mới vận dụng phù hợp trong từng phát ngôn cụ thể. Phong cách học có liên quan mật thiết đến những vấn đề sau : - Xây dựng chuẩn mực ngôn ngữ, trong đó có chuẩn mực phong cách - Trau giồi ngôn ngữ - Giữ gìn sự trong sáng của tiếng nói dân tộc IV. Phong cách học với chuẩn mực ngôn ngữ và chuẩn mực phong cách 1.Chuẩn mực ngôn ngữ 1.1.Chuẩn mực ngôn ngữ là hệ thống các phương tiện biểu hiện tốt nhất, hợp lí nhất và được mọi người thừa nhận, cùng sử dụng để giao tiếp với nhau trong một thời kỳ nhất định; trở 5 thành những quy ước ngôn ngữ trong xã hội. Chuẩn mực ngôn ngữ được thể hiện trong các phạm vi: Phát âm, chữ viết, dùng từ và đặt câu. Ví dụ: Phát âm Chính tả Dùng từ Đặt câu Chuẩn mực Con trâu trắng nằm trong bụi tre Rượu, tra cứu, năng suất, quyên góp Gội đầu, chẻ củi Bằng nghệ thuật so sánh, tác giả đã làm nổi bật sự hy sinh to lớn của những người mẹ Việt Nam Không chuẩn mực Con tâu tắng nằm tong bụi te Riệu, cha kíu, năng xuất. khuyên góp Rửa đầu, thái củi Với nghệ thuật so sánh của tác giả đã làm nổi bật sự hy sinh to lớn của những người mẹ Việt Nam 1.2. Chuẩn mực ngôn ngữ phụ thuộc vào lịch sử, nó thể hiện những quy luật lịch sử của sự phát triển của ngôn ngữ cũng như những khuynh hướng phát triển tiêu biểu của thời đại. Chuẩn mực ngôn ngữ là tập hợp những phương tiện ngôn ngữ phù hợp với yêu cầu của xã hội, rút ra từ sự lựa chọn trong các yếu tố ngôn ngữ. VD: Chánh trị – Chính trị (Biến thể ngữ âm) 1.3. Ðể lựa chọn tốt, tìm những yếu tố ngôn ngữ nhằm sử dụng phù hợp tất phải có sự so sánh nên chuẩn mang tính chất so sánh. Vì thế, không có biến thể, không có sự lựa chọn biến thể thì không có sự so sánh và chuẩn. Giải quyết vấn đề biến thể là công việc của chuẩn mực ngôn ngữ. Chức năng của chuẩn chính là sự quy định và điều chỉnh cách sử dụng các biến thể ngôn ngữ. Chuẩn mực ngôn ngữ chỉ trả lời câu hỏi dùng có đúng với ngôn ngữ văn hóa hay không?. Chuẩn mực ngôn ngữ chỉ giải quyết vấn đề nên sử dụng các phương tiện ngôn ngữ nào cho phù hợp với cái chung. Việc sử dụng ngôn ngữ như thế nào để đạt hiệu quả cao thì chuẩn mực ngôn ngữ không bàn đến. 2. Chuẩn mực phong cách: 2.1. Chuẩn mực phong cách là toàn bộ cách chỉ dẫn thể hiện tính quy luật bắt buộc ở một thời kì nhất định của một ngôn ngữ sao cho phù hợp với phong cách của hoạt động lời nói và với các kiểu và thể loại văn bản. Chuẩn mực phong cách gắn với phạm vi đặc trưng của hoạt động lời nói, với một kiểu, một thể loại văn bản cụ thể. Chuẩn mực phong cách chỉ trả lời câu hỏi: Dùng có phù hợp với ngữ cảnh hay hoàn cảnh này không ? Ví dụ: Trong nói năng thân mật hàng ngày, dùng các từ như : Cây số, kí, cân, lạng, thước... là phù hợp, nhưng trong phong cách khoa học chúng ta phải dùng: Kilomet, kilogam, mét,... 2.2. Chuẩn mực phong cách không thủ tiêu mà lợi dụng các biến thể, quy định phạm vi sử dụng cho từng biến thể để tận dụng khả năng diễn đạt của ngôn ngữ nhằm đáp ứng các yêu cầu diễn đạt ngày càng đa dạng, phức tạp, tinh tế của trí tuệ và tình cảm của con người. VD: Tiêu đề “Tràng giang” (thơ Huy Câ ân) biến âm của từ “trường giang”: sông dài) 2.3. Sự biểu đạt được đánh giá là tốt theo quan điểm phong cách học trước hết phải là sự biểu đạt phù hợp với chuẩn mực ngôn ngữ trên các bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp; sự biểu đạt đó phải phù hợp với chuẩn mực phong cách chức năng ngôn ngữ. Không được mượn cớ sáng tạo, bất chấp chuẩn mực, tạo nên những kiểu nói lập dị hoàn toàn xa lạ với ngôn ngữ tiếng Việt Vd: no cơm áo, cười thênh thênh, cặp mắt đĩnh ngộ, đẹp dã man... * Lưu ý: Trong thực tế sáng tác văn chương ta thường bắt gặp những cách nói có vẻ lệch chuẩn ngôn ngữ, nhưng đây là sự lệch chuẩn với dụng ý tu từ nhằm thể hiện ý đồ nghệ thuật của tác giả; Ở những nhà văn tài hoa, hiện tượng lệch chuẩn thành công góp phần tạo nên sự độc đáo về nghệ thuật. Ví dụ: Một câu hỏi lớn. Không lời đáp ( Huy Cận) Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa (Xuân Diệu) Một tiếng chim kêu sáng cả rừng (Khương Hữu Dụng) V. Những khái niệm cơ bản của phong cách học 6 1. Ðặc điểm tu từ 1.1. Điểm khác biệt giữa hệ thống tín hiệu ngôn ngữ và hệ thống tín hiệu khác ở chỗ cùng một đối tượng, một nội dung thông báo nhưng ngôn ngữ có nhiều cách diễn đạt khác nhau. Nói cách khác, có nhiều hình thức biểu đạt cùng nghĩa để cùng chỉ một đối tượng, một thông báo nào đó. Trước tình hình này, người phát ngôn hay người thu ngôn đều cần phải cân nhắc, lựa chọn một hình thức biểu đạt nào đem lại hiệu quả tối ưu nhất. Nguyên nhân của hiện tượng này là do: - Mỗi hình thức biểu đạt cùng nghĩa gắn với một cách thức nhìn nhận, một thái độ đánh giá tình cảm nhất định. - Mỗi hình thức biểu đạt cùng nghĩa cũng lại gắn với một phạm vi nói, viết một phong cách chức năng ngôn ngữ nhất định. Vd: Hiện tượng sử dụng các từ gần nghĩa mang màu sắc phong cách:  Tặng: Sắc thái thân mật, chân tình  Biếu: Sắc thái lễ phép, kính trọng  Hiến: Sắc thái thiêng liêng ,cao cả  Thí: Sắc thái xem thường, coi khinh Mỗi từ được chọn lựa sử dụng cho phù hợp trong từng hoàn cảnh, đối tượng giao tiếp khác nhau. 1.2. Khái niệm đặc điểm tu từ được rút ra từ hiện tượng biểu đạt cùng nghĩa nói trên. Ðặc điểm tu từ là phần nội dung biểu hiện bổ sung của tín hiệu ngôn ngữ khi tồn tại dưới hình thức biểu đạt cùng nghĩa (nội dung cơ sở). Phần này một mặt chỉ rõ thái độ đánh giá tình cảm của đối tượng được nói đến, một mặt chỉ rõ chức năng phong cách của tín hiệu ngôn ngữ. Có thể thấy rõ điều này khi so sánh đặc điểm tu từ của các từ xưng hô trong những câu thơ sau: Mình về với Bác đường xuôi Thưa dùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người Nhớ ông Cụ mắt sáng ngời Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường ( Việt Bắc - Tố Hữu) Tín hiệu Nội dung cơ sở ngôn ngữ (thuần ý niệm) BÁC NGƯỜI ÔNG CỤ Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách công dân Nội dung biểu hiện bổ sung (ngoài ý niệm) Sắc thái biểu cảm Thành kính, một cách thân thiết, ruột thịt Thành kính một cách thiêng liêng, cao cả Kính trọng một cách bình dân, mộc mạc Màu sắc phong cách Khẩu ngữ dụng trong nhiều phạm vi Gọt giũa dụng trong phạm vi trang nghiêm Lời nói thông dụng của đồng bào Việt Bắc 2. Màu sắc phong cách: 2.1. Ngôn ngữ là một hệ thống gồm nhiều nguyên tắc, quy luật và ước lệ mà những người cùng sống chung trong một cộng đồng ngôn ngữ quy định. Do thói quen sử dụng trong quá trình hành chức, mỗi đơn vị ngôn ngữ thường gắn với một hoặc vài phạm vi giao tiếp nào đó. Chính những phạm vi được hình thành do thói quen mang tính truyền thống này mà các phương tiện ngôn ngữ thu nhận cho mình cái dấu ấn riêng của môi trường nói vốn quen thuộc với chúng. Dấu ấn về phạm vi sử dụng của các phương tiện ngôn ngữ được gọi là màu sắc phong cách. Vậy màu sắc phong cách của đơn vị ngôn ngữ là nội dung biểu hiện bổ sung chỉ rõ giá trị chức năng của đơn vị ngôn ngữ, gợi cho ta liên tưởng đến phong cách chức năng, đến môi trường, phạm vi mà đơn vị ngôn ngữ thường được sử dụng. Ví dụ: Các đơn vị từ vựng như: Vác mặt, chí phải, bằng vai phải lứa, bằng anh bằng em...thường xuất hiện trong phong cách khẩu ngữ tự nhiên mang màu sắc khẩu ngữ. 7 Các đơn vị từ vựng như: thừa lệnh, ủy quyền, quyết định, thực thi, đính kèm... thường xuất hiện trong phong cách hành chính... 2.2. Màu sắc phong cách của các phương tiện ngôn ngữ thể hiện ở tất cả các cấp độ như: Ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Căn cứ vào sự xuất hiện tự do hay hạn chế của các đơn vị ngôn ngữ khi xuất hiện trong các phong cách chức năng ngôn ngữ mà người ta chia ra làm hai loại: Ða phong cách và đơn phong cách. - Đơn vị ngôn ngữ nào có khả năng xuất hiện trong tất cả các phong cách được gọi là đơn vị có màu sắc đa phong cách. - Ðơn vị ngôn ngữ nào chỉ xuất hiện ở một hoặc vài phong cách chức năng ngôn ngữ nhất định được gọi là đơn vị có màu sắc đơn phong cách. Ví dụ: - Các từ: cha mẹ, to lớn, sông núi, cây cỏ, ... có phạm vi sử dụng khá rộng rãi, phù hợp với nhiều phong cách ngôn ngữ, nên có màu sắc đa phong cách. - Các từ: phụ mẫu, vĩ đại, giang sơn, thảo mộc,... thường chỉ xuất hiện trong giao tiếp mang tính nghi thức, nên có màu sắc đơn phong cách. 3. Sắc thái biểu cảm : 3.1. Trong quá trình nhận thức, con người luôn luôn bày tỏ sự đánh giá, nhận xét của mình về các đối tượng được đề cập. Sự đánh giá nhận xét này có thể được thể hiện bằng các phương tiện ngôn ngữ hoặc các phương tiện ngoài ngôn ngữ. Trong việc thể hiện thái độ đánh giá tình cảm của mình bằng các phương tiện ngôn ngữ, không phải những đơn vị ngôn ngữ nào cũng mang sắc thái biểu cảm như khái niệm này. Nếu sự thể hiện tình cảm bằng những từ định danh tình cảm như : vui, buồn, yêu, ghét, đau đớn, phẫn nộ,... thì nó không tạo ra sắc thái biểu cảm (expressive colouring) như khái niệm mà ta đề cập ở đây. Sắc thái biểu cảm là nội dung biểu hiện bổ sung chỉ rõ thái độ đánh giá tình cảm của người nói đối với đối tượng được đề cập, được nhận thức trong các đơn vị ngôn ngữ. Ví dụ: Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh (Lượm - Tố Hữu) Sắc thái biểu cảm của đoạn thơ trên được thể hiện qua các thông tin bổ sung từ các từ láy: loắt choắt, xinh xinh, thăn thoắt, nghênh nghênh biểu thị vẻ đẹp hồn nhiên trong sáng trẻ thơ của chú bé liên lạc được thể hiện qua cái nhìn đầy âu yếm, thương yêu của tác giả. 3.2. Sắc thái biểu cảm có thẻ là khẳng định, dương tính (tôn vinh, ca ngợi, tán dương, tự hào...). cũng có thể là phủ đinh, âm tính (chê bai, lên án, phẫn nộ, mỉa mai, giễu cợt...) có thể biểu thị qua cách sử dụng từ ngữ, cấu trúc câu văn, giọng điệu ngôn ngữ... Vd: Giọng văn giễu nhại trong “Số đỏ” mỉa mai đả kích xã hội thượng lưu” “Còn lai lịch Phó Đoan kể ra nghe cũng hay hay. Hồi đương xuân bà bị lính Tây hiếp… Sau cuộc hiếp trái phép đến ngày cuộc hiếp đúng luật, nghĩa là cuộc làm đám cưới. Người lính ấy sau thành ông Phó Đoan. Ăn ở với nhau độ 10 năm, chết trung thành với nhà nước, chết chung tình với vợ, chết như những người yêu vợ quá sức. Rồi bà lấy ông phán trẻ 2 năm sau thì ông chồng nội hóa cũng lăn ra chết. Vì lẽ chưa ai thấy có 3 nhân tình, nên những ngọn lưỡi rắn độc phao rằng những ngọn lửa tình do những kẻ chim bà không được đã khêu lên, bà bắt ông phán phải rập tất cả. Bà chính chuyên đến nỗi chồng bà kiệt lực, cạn sức phải trốn xuống suối vàng” 4. Phong cách chức năng ngôn ngữ 4.1. Phong cách chức năng ngôn ngữ Đây là một trong những vấn đề trung tâm và là một phạm trù cơ bản nhất của phong cách học. Đây là một dạng tồn tại của ngôn ngữ dân tộc được định hình thành những dạng nhất định bởi quy luật lựa chọn và sử dụng các phương tiện biểu hiện do các nhân tố ngoài ngôn ngữ (hoàn cảnh giao tiếp, đối tượng giao tiếp, mục đích giao tiếp, nội dung giao tiếp) chi phối và quy định. 8 4.2. Những nhân tố tạo nên phong cách chức năng ngôn ngữ Phong cách chức năng ngôn ngữ được tạo nên bởi hai nhân tố: nhân tố ngôn ngữ và nhân tố ngoài ngôn ngữ. a. Nhân tố ngôn ngữ : Bao gồm các phương tiện ngôn ngữ như: ngữ âm, từ vựng, cú pháp. Các yếu tố này giữ vai trò là phương tiện biểu hiện, tức làm rõ diện mạo, cụ thể hóa diện mạo của phong cách chức năng ngôn ngữ. Chính nhờ các phương tiện này mà chúng ta có thể khảo sát các đặc trưng diễn đạt và đặc điểm ngôn ngữ của từng phong cách. b. Nhân tố ngoài ngôn ngữ : Có rất nhiều các nhân tố chi phối việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ khi giao tiếp. Ví dụ như hoàn cảnh của người nói (viết) và người đọc (nghe); hoàn cảnh xã hội; nói điều gì cho thích hợp; nói để làm gì và nhằm mục đích gì; tổ chức nội dung và cách thức nói năng như thế nào cho thích hợp; thời điểm giao tiếp...Nói cách khác, khi nói năng , chúng ta phải xử lí hàng loạt các vấn đề như: Phát ngôn cho ai? Tình huống phát ngôn như thế nào? Phát ngôn về cái gì? Phát ngôn để làm gì? Phát ngôn như thế nào? Tuy nhiên, chúng ta thấy có ba nhân tố quan trọng nhất chi phối việc chúng ta lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ khi giao tiếp và cũng chính từ ba nhân tố này (tất nhiên cùng cả những nhân tố có liên quan khác) đã góp phần hình thành nên các phong cách chức năng ngôn ngữ. Nhân tố ngoài ngôn ngữ bao gồm: Ðối tượng giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp và mục đích giao tiếp. - Ðối tượng giao tiếp: Ðối tượng tham gia giao tiếp là nhân tố quan trọng nhất có tác dụng quyết định đến việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ trong giao tiếp. Mỗi người trong giao tiếp bao giờ cũng xuất hiện với một tư cách, một cương vị nhất định mà mối quan hệ gia đình và xã hội đã quy định. Nói cho ai nghe ? Viết cho ai đọc ? Người nghe là ai ? Tâm tư tình cảm thế nào, quan hệ với chúng ta ra sao? Trình độ học vấn, nghề nghiệp ?... Tất cả những điều đó ta cần phải tìm hiểu khi tham gia giao tiếp, xác định rõ trước khi nói viết. Có như thế mới đạt hiệu quả cao trong giao tiếp. VD: Tùy theo đối tượng giao tiếp mà tư lựa chọn đại từ nhân xưng cho phù hợp (Vai xã hô âi) - Hoàn cảnh giao tiếp: Giao tiếp xã hội hiện nay thường được xuất hiện và tồn tại ở hai dạng: giao tiếp theo nghi thức và giao tiếp không theo nghi thức. Hoàn cảnh theo nghi thức là hoàn cảnh xã hội trong đó diễn ra hành vi giao tiếp bằng lời nói mang tính chất đúng đắn, nghiêm túc, hoàn chỉnh. Hoàn cảnh không theo nghi thức là hoàn cảnh xã hội trong đó diễn ra hành vi giao tiếp mang tính chất tự nhiên, thoải mái, đôi khi tùy tiện. Do hoàn cảnh giao tiếp khác nhau nên có những phương tiện ngôn ngữ phù hợp cho mỗi dạng. Giao tiếp có hoàn cảnh không theo nghi thức thì việc vận dụng các phương tiện ngôn ngữ không cần gọt giũa lắm, ít chú ý hay có ý thức hướng tới chuẩn mực, thường tự do thoải mái trong phát âm, ít khi chuẩn bị trước. Giao tiếp thuộc hoàn cảnh theo nghi thức thì việc sử dụng các phương tiện ngôn ngữ có những yêu cầu và đòi hỏi ngược lại. VD: Sử dụng từ ngữ khi giao tiếp trong hô âi họp khác với trong sinh hoạt đời thường - Mục đích giao tiếp: Mục đích là cái vạch ra làm đích nhằm đạt cho được trong hoạt động có ý thức của con người. Mọi hành vi lời nói đều hướng tới một mục đích thực tiễn nhất định và đều cần phải chọn một hình thức diễn đạt thích hợp. Cùng một nội dung giao tiếp nhưng nếu xuất phát từ những mục đích giao tiếp khác nhau như: thông báo, trao đổi, tác động, chứng minh, sai khiến hay thẩm mỹ... sẽ dẫn đến cách dùng từ, đặt câu và phương pháp diễn đạt khác nhau. VD: Cách sử dụng từ ngữ trong văn bản hành chính khác với văn bản biểu cảm 4.3. Phong cách ngôn ngữ và lời nói cá nhân: - Trong nói năng, dù muốn hay không, mọi người đều nói, viết theo một phong cách ngôn ngữ nhất định . Tuy nhiên, việc vận dụng đó còn tuỳ thuộc vào năng lực ngôn ngữ của mỗi người, không phải ai cũng sử dụng phù hợp, đúng đắn, sâu sắc và tinh tế như nhau. Lời nói cá nhân là kết quả của việc thực hiện phong cách ngôn ngữ của mỗi cá nhân ở trong thực tế. Lời 9 nói cá nhân vừa bao hàm cái chung, phong cách ngôn ngữ, vừa chứa đựng cái riêng, do cá nhân sử dụng. - Phong cách chức năng ngôn ngữ là cái chung, cái trừu tượng tồn tại trong ý thức của mỗi người, còn lời nói cá nhân là cái riêng, cái cụ thể tồn tại trong những phát ngôn cụ thể. Mối quan hệ giữa phong cách chức năng ngôn ngữ và lời nói cá nhân là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái có tính logic và cái có tính lịch sử. Phong cách chức năng ngôn ngữ không chỉ quy định lời nói cá nhân mà ngược lại nó còn được lời nói cá nhân nuôi dưỡng. Mỗi biến đổi của phong cách chức năng ngôn ngữ đều bắt đầu từ lời nói cá nhân. Xét cho cùng, mối quan hệ giữa phong cách chức năng ngôn ngữ và lời nói cá nhân được xây dựng và xác định trên cơ sở của mối quan hệ biện chứng giữa ngôn ngữ và lời nói. VII. Các phương pháp phân tích và nghiên cứu phong cách học 1. Phép thế tu từ (Thử nghiệm tu từ) Phép thế tu từ là cách thay đổi một vài từ trong câu, một vài câu trong đoạn văn có ý nghĩa tượng trưng để làm nổi bật giá trị của những từ và câu dùng trong nguyên tác. Vd: Xắn tay mở khóa động đào Rẽ mây thông tỏ lối vào thiên thai (Truyện Kiều – Nguyễn Du) ( Xắn tay bẻ cái hàng rào Rẽ cây thông tỏ lối vào nhà Kim) 2. Phép đối chiếu - so sánh Phép đối chiếu - so sánh là cách xếp đặt những sự kiện biểu đạt đồng nghĩa cạnh nhau để làm nổi bật những giá trị của sự kiện được đối chiếu Vd: Đã tan tác những bóng thù hắc ám Đã sáng lại trời thu tháng Tám (Tố Hữu) (Bóng thù hắc ám đã tan tác, mùa thu tháng Tám đã sáng lại) 3. Phép thống kê tu từ (phong cách học) Phép thống kê là phương pháp được sử dụng trong nhiều ngành khoa học trong đó có thống kê ngôn ngữ học. Phép thống kê tu từ là sự lựa chọn xếp đặt các đơn vị có nghĩa và màu sắc tu từ để nhận diện một phong cách chức năng hay phong cách biểu đạt của một phong cách cá nhân, từ đó đưa ra nhận xét về giá trị. Vd: Để phân tích phong cách ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương, ta có thể thống kê tần số sử dụng những đơn vị từ láy, từ tượng hình, tượng thanh xuất hiện ở cuối dòng thơ: Chín mõm mòm, hõm hòm hom, vỗ phập phòm, rơi lõm bõm, trơ toen hoẻn... những màu sắc đậm, những động từ chỉ hành động mạnh mẽ (vấn đề thi pháp ngôn từ). 4. Phép bình giá các giá trị (phân tích định tính) Các phép thay thế, đối chiếu - so sánh hay thống kê tu từ học thường được sử dụng để nhận diện một phong cách ngôn ngữ nhưng mục đích cuối cùng là phải đưa ra những phán đoán giá trị (đặc biệt khi phân tích văn bản). - Giá trị biểu đạt: dựa vào phép thế, đối chiếu so sánh, thống kê tu từ để khẳng định đây là sự lựa chọn tối ưu các phương tiện của tiếng Việt. Giá trị biểu đạt trả lời câu hỏi: hay hoặc không hay - Giá trị sử dụng: dựa vào hoàn cảnh giao tiếp để sử dụng các phương tiện tu từ cho lời nói có hiệu quả. Giá trị sử dụng trả lời câu hỏi: Hợp hay không hợp?.Khi viết thường đặt ra những yêu cầu: Viết để làm gì? viết cho ai? viết như thế nào?. Những yêu cầu đó chính là cơ sở để xác định tiêu chí sử dụng đạt hiệu quả. ˜ ™ 10 Chương II. CÁC PHONG CÁCH CHỨC NĂNG TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI A. Việc phân loại phong cách chức năng ngôn ngữ 1. Từ thời cổ đại Arixtốt cho đến thế kỷ XVIII giới nghiên cứu ngôn ngữ đã chú ý đến việc phân loại phong cách ngôn ngữ thành 3 loại: - Loại thượng đẳng : Ngôn ngữ quý tộc - Loại trung đẳng: Ngôn ngữ bình dân - Loại hạ đẳng : Ngôn ngữ hạ lưu Tuy nhiên cách phân chia trên rất phiến diện, không phù hợp với tiếng Việt 2. Việc phân loại phong cách ngôn ngữ khá đa dạng, có thể dựa theo nhiều tiêu chí khác nhau: 2.1. Phân loại theo đặc điểm sinh lý - Phong cách giới tính: Phong cách ngôn ngữ của nam giới và nữ giới - Phong cách lứa tuổi: Phong cách ngôn ngữ người già, trung niên, trẻ em... 2.2. Phân loại theo quan điểm xã hội học - Phong cách ngôn ngữ giai cấp: phong cách ngôn ngữ bình dân, quý tộc, nông dân, tư sản.. - Phong cách ngôn ngữ nghề nghiệp: ngôn ngữ thợ thuyền, binh lính, học sinh - Phong cách ngôn ngữ địa phương: ngôn ngữ thủ đô, tỉnh lẻ... 2.3. Phân loại theo quan điểm nghệ thuật học Phong cách ngôn ngữ trữ tình, chính luận, phong cách tả thực, lãng mạn Đây là tiêu chí phân loại tự nhiên không mang tính khoa học. 3. Sự phân loại phong cách có tầm quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn là dựa vào tiêu chí chức năng xã hội của ngôn ngữ. Dựa trên tiêu chí này mới có thể cắt nghĩa vì sao khi sử dụng ngôn ngữ phải tuân thủ theo những quy tắc nhất định. B. Các phong cách tiếng Việt hiện đại I. Phong cách khẩu ngữ 1. Khái niệm 1.1. Phong cách khẩu ngữ là phong cách được dùng trong giao tiếp sinh hoạt hàng ngày, thuộc hoàn cảnh giao tiếp không mang tính nghi thức. Giao tiếp ở đây thường với tư cách cá nhân nhằm để trao đổi tư tưởng, tình cảm của mình với người thân, bạn bè, hàng xóm, đồng nghiệp, đồng hành,... 1.2. Các dạng thức: Phong cách khẩu ngữ có các dạng thức biểu hiện như : chuyện trò, nhật kí, thư từ. Trong đó chuyện trò thuộc hình thức hội thoại, nhật kí thuộc hình thức văn bản tự thoại và thư từ thuộc hình thức văn bản cách thoại. Tuy nhiên, có thể thấy ở phong cách này, dạng nói là dạng giao tiếp chủ yếu. Ở dạng này tất cả những nét riêng trong sự thể hiện như: đặc trưng, đặc điểm ngôn ngữ được bộc lộ rõ và hết sức tiêu biểu. Có điều cần phải chú ý là không phải dạng nói nào cũng thuộc Phong cách khẩu ngữ. Chỉ có những lời nói (chuyện trò) trong giao tiếp mang tính không nghi thức mới thuộc phong cách khẩu ngữ . Ở phong cách này người ta còn chia làm hai dạng: Phong cách khẩu ngữ văn hoá và Phong cách khẩu ngữ thông tục. Ở mỗi dạng này lại có sự thể hiện riêng cả về đặc trưng cũng như về đặc điểm ngôn ngữ. Do đó, mỗi phong cách chức năng ngôn ngữ không phải là một khuôn mẫu khô cứng. 2. Chức năng và đặc trưng phong cách khẩu ngữ 2.1. Chức năng Phong cách khẩu ngữ thực hiện chức năng trao đổi tư tưởng tình cảm và chức năng tạo tiếp. Những vấn đề mà phong cách khẩu ngữ đề cập không chỉ là những vấn đề cụ thể, đơn giản 11 trong đời sống tình cảm, sinh hoạt hàng ngày mà còn là những vấn đề trừu tượng, phức tạp như chính trị xã hội, khoa học, nghệ thuật, triết học,... 2.2. Ðặc trưng a. Tính cá thể Ðặc trưng này thể hiện ở chỗ khi giao tiếp, người nói bao giờ cũng thể hiện vẻ riêng về thói quen ngôn ngữ của mình khi trao đổi, chuyện trò, tâm sự với người khác. Ngôn ngữ là công cụ chung dùng để giao tiếp trong một cộng đồng nhưng ở mọi người có sự vận dụng và thể hiện không giống nhau do nhiều nguyên nhân như: nghề nghiệp, lứa tuổi, giới tính, tâm lí, tính cách, trình độ học vấn, văn hoá... Ðặc trưng này khiến cho sự thể hiện của phong cách khẩu ngữ cực kì phong phú, phức tạp, đa dạng. Vd: trong lời nói sinh hoạt hàng ngày, mỗi người có giọng nói, cách diễn đạt, dùng từ theo cách riêng của mình b. Tính cụ thể: Ở phong cách khẩu ngữ , những cách nói trừu tượng, chung chung tỏ ra không thích hợp. Ðiều này do giao tiếp ở đây thường là giao tiếp hội thoại, sự tiếp nhận và phản hồi thông tin, tình cảm cần phải tức thời và ngắn gọn. Ðặc trưng này đã giúp cho sự giao tiếp trong sinh hoạt hàng ngày trở nên nhanh chóng, dễ dàng, ngay trong trường hợp phải đề cập đến những vấn đề trừu tượng. Ví dụ: Tôi cười nhạt: - Nghe anh nói, tôi nản quá. Như vậy cuộc kháng chiến của ta có lẽ đến hỏng à? Anh chộp lấy câu của tôi, nhanh như một con mèo vồ con chuột: - Ấy đấy, tôi bi lắm. Cứ quan sát kĩ thì rất nản. Nhưng tôi chưa nản có lẽ chỉ vì tôi tin vào Ông Cụ. Tôi cho rằng cuộc Cách mạng tháng Tám cũng như cuộc kháng chiến hiện nay chỉ ăn vì người lãnh đạo cừ. Hồ Chí Minh đáng lẽ phải cứu vãn một nước như thế nào kia, mới xứng tài. Phải cứu một nước như nước mình kể cũng khổ cho Ông Cụ lắm. Anh tính tượng trưng cho phong trào giải phóng cả một cái đệ tứ cường quốc là Ðại Pháp mà cũng chỉ có đến thằng Ðờ Gôn. Tôi nhắc đến tên mấy nhân vật kháng chiến cũ của Pháp, còn đáng tiêu biểu bằng mấy Ðờ Gôn. Anh lắc đầu: - Bằng thế nào được Hồ Chí Minh! Và anh tiếp: - Ông Cụ làm những việc nó cừ quá, đến nỗi tôi cứ cho rằng dù dân mình có tồi đi nữa, Ông Cụ xoay quanh rồi cũng cứ độc lập như thường. Những cú như cú Hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 thì đến chính thằng Mĩ cũng phải lắc đầu: nó cho rằng không thể nào bịp Ông Già nổi. Thằng Pháp thì nghĩa lí gì? Bệt lắm rồi. Không có thằng Mĩ xui thì làm gì Pháp dám trở mặt phản Hiệp định mồng 6 tháng 3? Mình cho nó như vậy là đã phúc đời nhà nó rồi. Ðáng lẽ nó phải làm chằng chằng lấy chứ? (Đôi mắt - Nam Cao) c. Tính cảm xúc Ðặc trưng này gắn chặt với tính cụ thể. Khi giao tiếp người ta luôn luôn bộc lộ thái độ tư tưởng, tình cảm của mình đối với đối tượng được nói đến. Những cách diễn đạt đầy màu sắc tình cảm đã nảy sinh trực tiếp từ những tình huống cụ thể trong thực tế đời sống muôn màu muôn vẻ. Chính thái độ, tình cảm, cảm xúc làm thành nội dung biểu hiện bổ sung của lời nói, giúp người nghe có thể hiểu nhanh chóng, hiểu sâu sắc nội dung cơ bản và nhất là mục đích, ý nghĩa của lời nói. Ví dụ: Anh Mịch nhăn nhó nói: - Lạy ông, ông làm phúc tha cho con, mai con phải đi làm trừ nợ cho ông Nghị, kẻo ông ấy đánh chết. 12 Ông Lí cau mặt, lắc đầu, giơ roi song to bằng ngón chân cái lên trời, dậm dọa: - Kệ mày, theo lệnh quan, tao chiếu sổ đinh, thì lần này đến lượt mày rồi. - Cắn cỏ con lạy ông trăm nghìn mớ lạy, ông mà bắt con đi, thì ông Nghị ghét con, cả nhà con khổ. - Thì mày hẹn làm ngày khác với ông ấy, không được à? - Ðối với ông Nghị, con là chỗ đầy tớ, con sợ lắm. Con không dám nói sai lời, vì là chỗ con nhờ vả quanh năm. Nếu không, vợ con con chết đói. - Chết đói hay chết no, tao đây không biết, nhưng giấy quan đã sức, tao cứ phép tao làm. Ðứa nào không tuân, để quan gắt, tao trình thì rũ tù. ( Nguyễn Công Hoan) 3. Ðặc điểm sử dụng ngôn ngữ 3.1. Ngữ âm a. Khi nói năng người ta không có ý thức hướng tới chuẩn mực ngữ âm mà nói năng thoải mái, không những trong phát âm mà cả trong điệu bộ cử chỉ. Chính vì đặc điểm này mà chúng ta thấy phong cách khẩu ngữ tồn tại rất nhiều những biến thể ngữ âm. b. Ngữ điệu trong phong cách khẩu ngữ mang dấu ấn riêng của cá nhân, có tính chất tự nhiên, tự phát. Trong một số trường hợp, ngữ điệu là nội dung thông báo chính chứ không phải là lời nói. Vd: Sự thay đổi giọng điê âu thể hiê nâ thái đô â tình cảm của người nói 3.2. Từ ngữ: a. Ðặc điểm nổi bật nhất của phong cách khẩu ngữ là thường dùng những từ mang tính cụ thể, giàu hình ảnh và sắc thái biểu cảm. Người ta thường dùng phép thế các từ gần nghĩa cho nhau Ví dụ: - Chỉ hành động nói chứa đựng thái độ xấu: Giở giọng, mở miệng, quạc cái mồm - Chỉ hành động gây chia rẽ, xích mích: đâm thọc, thầy dùi, đâm bị thóc chọc bị gạo - Chỉ hành động đánh đau: Chẻ xác, no đòn, đánh ựa cơm, đánh sặc tiết, thượng cẳng chân hạ cẳng tay b. Khi gọi tên hàng ngày, người ta không thích dùng tên khai sinh vì cách gọi này thường kém cụ thể, ít gợi cảm. Người ta tìm những cách đặt tên khác có khả năng gợi ra hình ảnh, đặc điểm cụ thể riêng biệt thường có ở một cá nhân. Vd: Lão sứt môi, gã cổ vịt, thằng ba lé, lão tư râu... c. Những từ biểu thị các nhu cầu vật chất và tinh thần thông thường (như ăn, ở, đi lại, học hành, thể dục thể thao, chữa bệnh, mua bán, giao thiệp, vui chơi, giải trí, sinh hoạt trong gia đình, trong làng xóm...) chiếm tỉ lệ lớn, có tần suất cao. d. Một số hiện tượng từ ngữ thường xuất hiện trong phong cách khẩu ngữ: - Có một lớp từ chuyên dùng cho phong cách khẩu ngữ mà rất ít dùng ở các phong cách khác. Ví dụ: Hết xảy, hết ý, số dách,tuyệt cú mèo, bỏ bố, bỏ mẹ, cút, chuồn... Những tiếng tục, tiếng lóng (cớm, chôm, mẹ kiếp...) cũng chỉ dùng ở phong cách này. - Sử dụng nhiều từ láy và đặc biệt là láy tư. Ví dụ như: đỏng đa đỏng đảnh, nhí nha nhí nhảnh, tầm bậy tầm bạ, lí la lí lắt... Có khi sử dụng kiểu láy chen như: khách đến thì ít mà khứa đến thì nhiều. - Sử dụng cách nói tắt. Ví dụ: Nhân khẩu ( khẩu); chán nản ( nản); bi quan (bi). - Sử dụng những kết hợp không có quy tắc. Ví dụ: Ðẹp (đẹp mê hồn, đẹp mê li rụng rốn, đẹp tàn canh giá lạnh, đẹp ve kêu, đẹp bá chấy...) - Thường dùng những từ tượng thanh, tượng hình. - Thường dùng cách nói ví von, so sánh, chuyển nghĩa ẩn dụ hoặc hoán dụ. 3.3. Cú pháp - Cấu trúc cú pháp được sử dụng trong phong cách khẩu ngữ, câu đơn chiếm tỉ lệ lớn và có tần suất cao. Ðặc biệt, câu gọi tên ( như: câu cảm thán, câu chào hỏi, ứng xử...) được sử dụng nhiều. 13 - Ðặc điểm nổi bật ở phong cách này là tồn tại hai xu hướng trái ngược nhau. Một mặt, khẩu ngữ dùng kết cấu tỉnh lược, có khi tỉnh lược đến mức tối đa nói bằng sự để trống hoàn toàn, mặt khác, dùng các kết cấu cú pháp có xen những yếu tố dư, lặp lại, có khi dư thừa một cách dài dòng lủng củng. Ví dụ về cách nói có xen nhiều yếu tố dư: Bác Phô gái, dịu dàng, đặt cành cau lên bàn, ngồi xổm ở xó cửa, gãi tai, nói với ông Lí: - Lạy thầy, nhà con thì chưa cất cơn, mấy lại sợ thầy mắng chửi, nên không dám đến kêu. Lạy thầy, quyền phép trong tay thầy, thầy tha cho nhà con, đừng bắt nhà con đi xem đá bóng vội. - Ồ, việc quan không phải như chuyện đàn bà của các chị! - Thì lạy thầy, thế này, làng ta thì đông, thầy cắt ai không được. Tại nhà con ốm yếu, nên xin thầy hoãn cho đến lượt sau. - Ốm gần chết cũng phải đi. Lệnh quan như thế. Ai cũng lấy cớ ốm yếu mà không đi, thì người ta đá bóng cho chó nó xem à? ( Nguyễn Công Hoan) 3.4. Diễn đạt - Do được dùng trong sinh hoạt hàng ngày nên phong cách khẩu ngữ diễn đạt một cách tự do, tuỳ tiện, phóng khoáng và phụ thuộc rất nhiều vào tâm lí, cảm hứng của người trong cuộc. Khuynh hướng diễn đạt cơ bản của phong cách này là cụ thể hóa, biểu cảm hóa sự diễn đạt Vd: Thở ra đằng tai, bở hơi tai : Mệt Da bọc xương : gầy - Phong cach khẩu ngữ được thực hiện trong hoàn cảnh giao tiếp trực tiếp, đề tài mang tính tự phát, luôn thay đổi. Ðiều này dẫn đến tình trạng đề tài, đối tượng được đề cập trong phong cách khẩu ngữ ít khi tập trung, đứt đoạn, ý nọ xọ ý kia, thiếu tính liên tục. II. Phong cách khoa học 1. Khái niệm 1.1.Phong cách khoa học được dùng trong lĩnh vực nghiên cứu, học tập và phổ biến khoa học. Ðây là phong cách ngôn ngữ đặc trưng cho các mục đích diễn đạt chuyên môn sâu. Khác với phong cách khẩu ngữ, phong cách khoa học chỉ tồn tại chủ yếu ở môi trường của những người làm khoa học chủ yếu xuất hiện ở dạng văn bản viết. 1.2. Phong cách khoa học có ba biến thể: phong cách khoa học chuyên sâu, phong cách khoa học giáo khoa và phong cách khoa học phổ cập. 2. Chức năng và đặc trưng 2.1. Chức năng Phong cách khoa học có hai chức năng là: thông báo và chứng minh. Chính chức năng chứng minh tạo nên sự khu biệt giữa Phong cách khoa học với các phong cách khác. Văn bản khoa học không chỉ thuần thông báo nêu khái niệm về các sự kiện, sự vật tồn tại trong thực tế khách quan mà còn phải chứng minh, làm tường minh ý nghĩa của các sự kiện ấy. 2.2. Ðặc trưng a. Tính trừu tượng khái quát Mục đích của khoa học là phát hiện ra các quy luật tồn tại trong các sự vật, hiện tượng nên phải thông qua trừu tượng hoá, khái quát hoá khi nhận thức và phản ánh hiện thực khách quan. Trừu tượng hoá chính là con đường của nhận thức lí tính giúp ta thoát khỏi những nhận biết lẻ tẻ, rời rạc ở giai đoạn cảm tính. b. Tính logic: Cách diễn đạt của phong cách khoa học phải biểu hiện năng lực tổng hợp của trí tuệ, phải tuân theo quy tắc chặt chẽ từ tư duy logic hình thức đến tư duy logic biện chứng. Các nội dung ý tưởng khoa học của người viết phải được sắp xếp trong mối quan hệ logic, tránh trùng lặp hoặc mâu thuẫn; những khái quát, suy lí khoa học không được phủ định lại những tài liệu (cứ liệu) làm cơ sở cho nó... Vd: "Sóng âm là những sóng cơ học dọc truyền trong môi trường vật chất, có tần số khoảng 16Hz -2000Hz và gây ra cảm giác âm thanh trong tai con người. Sóng âm vừa có đặc tính vật 14 lý, vừa có đặc tính sinh lý. Xét về đặc tích vật lý, sóng âm, sóng siêu âm, sóng hạ âm không khác gì sóng cơ học khác. dặc tính sinh lý của sóng âm phụ thuộc cấu tạo tai của con người"(vật lý lớp 12) c. Tính chính xác - khách quan Phong cách khoa học không được phép tạo ra sự khác biệt giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Một văn bản khoa học chỉ có giá trị thực sự khi đưa đến người tiếp nhận những thông tin chính xác về các phát hiện, phát minh khoa học. Muốn vậy, văn bản khoa học phải đảm bảo tính một nghĩa. Nghĩa là nó không cho phép nhiều cách hiểu khác nhau hoặc hiểu một cách mơ hồ. Chân lí khoa học luôn phụ thuộc vào các quy luật khách quan, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người. Những từ ngữ biểu cảm, những ý kiến nhận định mang tính chủ quan không thích hợp ở phong cách này. VD: vấn đề sử dụng thuâ tâ ngữ khoa học phải chính xác và nhất quán (Hình ảnh /Hình tượng) d. Tính trí tuệ Ngôn ngữ khoa học là ngôn ngữ của sự nhận thức trí tuệ, không dụng nạp yếu tố cảm xúc truyền cảm. Ngôn ngữ khoa học tuyết phục người đọc bằng hệ thống các luận điểm, luận cứ và lập luận bằng phương pháp tư duy chặt chẽ chứ không phải bằng cảm giác và sự rung động của con tim. 3. Đặc điểm sử dụng ngôn ngữ 3.1. Ngữ âm Khi thông báo khoa học người ta thường có ý thức hướng đến chuẩn mực ngữ âm. Để tăng thêm sức thuyết phục của sự lập luận, có thể sử dụng ngữ điệu nhằm nhấn mạnh các luận điểm chính nhưng không được lạm dụng. 3.2. Từ ngữ: - Sử dụng nhiều và chính xác những thuật ngữ khoa học chuyên ngành, từ ngữ sử dụng thường mang tính đơn nghĩa, hạn chế sử dụng từ ngữ tượng hình gợi tả. Vd: Ngữ âm, hình vị, âm tiết, hàm ngôn, nghĩa tường minh, biện pháp tu từ.... - Những từ ngữ trừu tượng, trung hòa về sắc thái biểu cảm xuất hiện với tần số cao luôn thích hợp với sự diễn đạt của phong cách này. - Các đại từ nhân xưng ngôi thứ ba (người ta) và ngôi thứ nhất (ta, chúng ta, chúng tôi ) với ý nghĩa khái quát được dùng nhiều. Ví dụ: Và như vậy, ta lại trở về với một cách hiểu xuất phát của từ phong cách mà không chỉ là ngôn ngữ hay hoạt động ngôn ngữ nghệ thuật hay phi nghệ thuật v.v... đó là: những đặc trưng hoạt động bằng lời nói được lặp đi lặp lại ở một người nào đó, ở một môi trường ngôn ngữ hay một cộng đồng có khả năng khu biệt với những kiểu biểu đạt ngôn ngữ khác; nói cách khác nó là tổng số của những dấu hiệu khu biệt của các sự kiện lời nói trong giao tiếp, phản ánh một cấu trúc bên trong và một cơ chế hoạt động ngôn ngữ. 3.3. Cú pháp - Phong cách khoa học sử dụng các hình thức câu hoàn chỉnh, kết cấu câu chặt chẽ, rõ ràng để đảm bảo yêu cầu chính xác, một nghĩa và tránh cách hiểu nước đôi nước ba. - Các phát ngôn hàm chứa nhiều lập luận khoa học, thể hiện chất lượng tư duy logic cao. - Câu điều kiện - hệ quả và câu ghép được sử dụng nhiều tươn đương với mệnh đề logic. Nội dung của các phát ngôn đều minh xác. Sự liên hệ giữa các vế trong câu và giữa các phát ngôn với nhau thể hiện những luận cứ khoa học chặt chẽ. Vì vậy, độ dư thừa trong các phát ngôn nói chung là ít, mà cũng có thể nói là ít nhất, so với các phát ngôn khác. - Văn phong khoa học thường sử dụng những cấu trúc câu khuyết chủ ngữ, hoặc câu có chủ ngữ không xác định. Vd: "Đánh giá một nền văn học cũng như đánh giá một trào lưu nghệ thuật không thể căn cứ vào số lượng mà phải căn cứ vào chất lượng. Vì nghệ thuật chân chính không dung nạp những cái bình thường và tầm thường" (Tạp chí văn học) 15 III. Phong cách thông tấn báo chí 1. Khái niệm Phong cách thông tấn báo chí được dùng trong lĩnh vực thông tin của xã hội về tất cả những vấn đề tin tức thời sự trên các lãnh vực chính trị, văn hóa, xã hội, thể thao xảy ra trong đời sống (Thông tấn: có nghĩa là thu thập và biên tập tin tức để cung cấp cho các nơi.) - Phong cách thông tấn báo chí có các loại: văn bản cung cấp tin tức, văn bản phản ánh công luận và văn bản thông tin - quảng cáo. Phong cách thông tấn tồn tại cả ba dạng: dạng nói (kênh nói được dùng ở các đài phát thanh); dạng hình và nói (kênh nói và hình được dùng ở đài truyền hình); dạng viết ( kênh viết được dùng trên báo và tạp chí...). 2. Chức năng và đặc trưng 2.1. Chức năng Phong cách thông tấn báo chí có hai chức năng là thông báo và tác động. - Báo chí ra đời trước hết là do nhu cầu thông tin. Qua báo chí, người ta tiếp cận được nhanh chóng các vấn đề thời sự mà mình quan tâm. Do đó, phong cách thông tấn trước tiên phải đáp ứng được chức năng này. - Báo chí còn đảm nhận một nhiệm vụ to lớn khác là tác động đến dư luận làm cho người đọc, người nghe, người xem hiểu được bản chất của sự thật để phân biệt cái đúng cái sai, cái thật, cái giả, cái nên ngợi ca, cái đáng phê phán để từ đó định hướng suy nghĩ và hành động đúng. 2.2. Ðặc trưng a.Tính thời sự Thông tin phải truyền đạt kịp thời, nhanh chóng. Chỉ có những thông tin mới mẻ, cần thiết mới hấp dẫn người đọc, người nghe. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu trao đổi và tiếp nhận thông tin của con người ngày càng lớn. Báo chí sẽ thoả mãn nhu cầu thông tin đó của con người, nhưng đồng thời người ta đòi hỏi đấy phải là những thông tin kịp thời, nóng hổi. b. Tính chân thực chính xác Những thông tin báo chí cung cấp phải đảm bảo tính chính xác, tính chân thực. Người làm báo không được xuyên tạc, bóp méo hiện thực cuộc sống, không được lồng ghép thiên kiến chủ quan một cách tùy tiện trái với sự thật. Thông tin về sự việc hiện tượng phải cụ thể (Công thức 6W (what, where, when, who, why, which) c. Tính chiến đấu Báo chí là công cụ đấu tranh chính trị của một nhà nước, một đảng phái, một tổ chức. Tất cả công việc thu thập và đưa tin đều phải phục vụ cho nhiệm vụ chính trị đó. Tính chiến đấu là một yếu tố không thể thiếu được trong quá trình tạo nên sự ổn định và phát triển của xã hội trên mặt trận chính trị tư tưởng. Ðấy chính là các cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới; giữa cái tiến bộ và lạc hậu; giữa tích cực và tiêu cực... "Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy" (Hồ Chí Minh) d. Tính hấp dẫn: Tin tức của báo, đài cần phải được trình bày và diễn đạt hấp dẫn để khêu gợi hứng thú của người đọc, người nghe. Tính hấp dẫn được coi như là một trong những yếu tố quyết định sự sinh tồn của một tờ báo, tạp chí hay các đài phát thanh, truyền hình. Ðiều này đòi hỏi ở hai mặt: nội dung và hình thức. - Về nội dung: Thông tin phải luôn luôn cập nhật mới, đề tài phong phú đa dạng. - Về hình thức: Ngôn ngữ phải có sức thu hút, lôi cuốn người đọc, đặc biệt là ở các tiêu đề. 3. Ðặc điểm sử dụng ngôn ngữ 3.1. Ngữ âm Với các đài phát thanh và truyền hình trung ương, đòi hỏi khi đưa tin phải phát âm chuẩn mực. Với các đài phát thanh và truyền hình của địa phương hoặc khu vực, có thể sử dụng một 16 cách có chừng mực một số biến thể phát âm thuộc một phương ngôn nào đó, nơi mà đài phủ sóng (tuy nhiên không lạm dụng âm địa phương). 3.2. Từ ngữ - Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng. Do vậy, từ ngữ được dùng trong phong cách thông tấn trước hết phải là từ ngữ toàn dân, có tính thông dụng cao. Tuy nhiên, ở mỗi thể loại có sự thể hiện khác nhau: + Từ ngữ trong các bản tin thời sự phần lớn là lớp từ ngữ chuyên dùng trong các hoạt động của bộ máy Nhà nước và các đoàn thể. Ví dụ: "Theo phóng viên TTXVN tại Nhật Bản, trong ngày làm việc thứ hai của chuyến thăm Nhật Bản, đồng chí Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư T.Ư Ðảng, đã hội đàm với Thủ tướng Nhật Bản Na-ô-tô Can, tiếp Bộ trưởng Tài chính, Chủ tịch Ðảng Cộng sản Nhật Bản, lãnh đạo Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và Liên đoàn các tổ chức kinh tế Nhật Bản (KEIDANREN)" (Báo Nhân dân online). + Từ ngữ các mẫu quảng cáo thường là tên các hàng hoá, các từ chỉ địa danh, nhân danh và các tính từ chỉ phẩm chất. Ví dụ: Với đội ngũ Kiến trúc sư trong nước và nước ngoài nhiều kinh nghiệm trong thiết kế văn phòng, thi công nội thất văn phòng, QualiDecor đến nay đã hoàn thành nhiều dự án thiết kế văn phòng đạt chất lượng, thẩm mỹ hoàn hảo nhất, mang lại được nhiều sự hài lòng cho khách hàng. Đến với chúng tôi, Quý khách hàng không chỉ hài lòng với chất lượng thiết kế văn phòng, thi công văn phòng mà còn yên tâm với công việc lắp đặt và dịch vụ bảo hành, hậu mãi sau đó. Công ty Kiến trúc nội thất QualiDecor Tên giao dịch quốc tế: QualiDecor Architect and Interior Company Tên viết tắt: QUALIDECOR Địa chỉ: 53-55 Khuat Duy Tien, Thanh Xuan, Hanoi Văn phòng: 043-5539523- 0932327588 Website: www.noithatvanphong247.comwww.qualidecor.vn + Từ ngữ trong các bài phỏng vấn, phóng sự thì thường là những từ ngữ chuyên dùng trong lĩnh vực được tiến hành phỏng vấn hay phóng sự. Ví dụ: * Hội đồng văn hoá khi giới thiệu ông với giải thưởng Rockefeller III đã đánh giá về bảo tàng do ông làm giám đốc là một trong những bảo tàng có ấn tượng nhất trong loại hình này ở châu Á. Thưa ông, về phiïa chủ quan mình, chữ ấn tượng này nên hiểu như thế nào? TS Nguyễn Văn Huy: Có lẽ trước hết vì bảo tàng này giới thiệu một cách bình đẳng 54 nền văn hoá của 54 dân tộc ở Việt Nam. Ðó là điều không phải ở đâu cũng làm được. Chủ thể của những nền văn hoá này được tôn trọng trong các cách giới thiệu từng thành tố văn hoá. Bảo tàng đã phản ánh một cách chân thật lịch sử, đời sống văn hoá và cuộc sống của các dân tộc... ( Báo Tuổi trẻ CN ) - Từ ngữ dùng thường có màu sắc biểu cảm . Có xu hướng đi tìm cái mới trong ý nghĩa của từ. Ðiều này bộc lộ những khả năng tìm tòi, phát hiện những năng lực tiềm tàng ẩn chứa trong từ hoặc trong các kết hợp mới mẻ có tính năng động dễ đi vào lòng người. Ví dụ: Hội chứng chiến tranh vùng Vịnh, tội ác xuyên quốc gia, cuộc chiến chống bệnh tật đói nghèo, quả bom dân số, chiến tranh lạnh, xa lộ thông tin, bùng nổ thông tin, cái chết trắng, bên bờ vực phá sản, liên minh ma quỷ... 3.3. Cú pháp - Cấu trúc cú pháp thường lặp đi lặp lại một số kiểu nhất định. Trong đó, quảng cáo thường sử dụng câu đơn; bài đưa tin thường sử dụng nhiều câu ghép hoặc câu đơn có kết cấu phức tạp; bài phỏng vấn phóng sự thì tùy lĩnh vực nó đi sâu mà cấu trúc cú pháp có thể đơn giản hay phức tạp, nhưng thường là hay sử dụng nhiều câu ghép và câu phức tạp. 17 Ví dụ: Theo Kyodo, trong cuộc họp ngay sau khi kết thúc Hội nghị thượng đỉnh G-8 ở Okinawa ngày 23-7, Tổng thống Nga Vlađimia Putin và Thủ tướng Nhật Bản Yoshiro Mori đã thoả thuận rằng ông Putin sẽ đi thăm Nhật Bản từ 3 đến 5-9 để có các cuộc hội đàm về kế hoạch kí kết một hiệp ước hoà bình song phương. Nga và Nhật đã thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1956 nhưng chưa kí hiệp ước hoà bình vì còn bất đồng về chủ quyền quần đảo Kurin. (Báo Tuổi trẻ ) - Thường theo những khuôn mẫu văn bản và công thức hành văn nhất định. Ðưa tin có khuôn mẫu và công thức hành văn riêng; quảng cáo, phỏng vấn, phóng sự,...tuy khuôn mẫu văn bản và công thức hành văn có khác nhau nhưng cũng đều có những quy định chuẩn về những phương diện đó. - Trong các bài phóng sự điều tra, tiểu phẩm... những cấu trúc câu khẩu ngữ, câu trong phong cách văn chương như: câu hỏi, câu cảm thán, câu chuyển đổi tình thái, câu tỉnh lược, câu đảo trật tự các thành phần cú pháp cũng được khai thác sử dụng nhằm thực hiện chức năng riêng của mỗi thể loại. IV. Phong cách hành chính 1. Khái niệm - Phong cách hành chính đuợc dùng trong hoạt động giao tiếp thuộc lĩnh vực hành chính. Ðây là hoạt động giao tiếp giữa Nhà nước với nhân dân, giữa nhân dân với cơ quan Nhà nước, giữa cơ quan với cơ quan, giữa nước này và nước khác. Phong cách hành chính thường tồn tại dưới dạng văn bản viết. - Phong cách hành chính thường dụng trong những dạng văn bản: Hiến pháp, luật, điều lệ, nội quy, Bằng khen, văn bằng, giấy chứng nhận các loại,đơn từ, hợp đồng, hóa đơn, biên nhận, tờ trình... 2. Chức năng và đặc trưng 2.1. Chức năng Phong cách hành chính có hai chức năng: thông báo và sai khiến. Chức năng thông báo thể hiện rõ ở giấy tờ hành chính thông thường (văn bằng, chứng chỉ các loại, giấy khai sinh, hoá đơn, hợp đồng...). Chức năng sai khiến bộc lộ rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản của cấp trên gởi cho cấp dưới, của nhà nước đối với nhân dân, của tập thể với các cá nhân (nghị định, chỉ thị, thông báo, thông tư, chỉ thị, quyết định...). 2.2. Ðặc trưng a. Tính chính xác - minh bạch về pháp lý Văn bản hành chính chỉ cho phép một cách hiểu. Nếu hiểu không thống nhất sẽ dẫn đến việc thi hành các văn bản hành chính theo những cách khác nhau. Tính chính xác này đòi hỏi từ dấu chấm câu đến từ ngữ, câu văn và kết cấu của văn bản. Nói cách khác, quan hệ giữa hình thức và nội dung biểu đạt là quan hệ 1-1. Ðặc trưng này đòi hỏi người tạo lập văn bản không được dùng các từ ngữ, các kiểu cấu trúc ngữ pháp mơ hồ. Vd: Quy chế thi phải chuẩn xác từng câu chữ, sử dụng dấu câu b. Tính nghiêm túc- khách quan Tính khách quan gắn với chuẩn mực luật pháp nhằm để diễn đạt tính chất xác nhận, khẳng định của những tài liệu này. Văn bản hành chính thuộc loại giấy tờ có quan hệ đến thể chế quốc gia, của xã hội có tổ chức cho nên sự diễn đạt ở đây phải luôn luôn thể hiện tính nghiêm túc. Các văn bản như : hiến pháp, luật, quyết định, thông tư,... mang tính chất khuôn phép cao cho nên không chấp nhận phong cách diễn đạt riêng của cá nhân. Ngay cả những văn bản hành chính mang tính cá nhân cũng phải đảm bảo đặc trưng này. VD: Viết đơn khác với viết thư c. Tính khuôn mẫu của nhà nước Văn bản hành chính được soạn thảo theo những khuôn mẫu nhất định do nhà nước quy định. Những khuôn mẫu này được gọi là thể thức văn bản hành chính. Thể thức đúng không những làm cho văn bản được sử dụng có hiệu quả trong hoạt động hiện hành của các cơ quan mà còn 18 làm cho văn bản có giá trị bền vững về sau. Tính khuôn mẫu thể hiện qua những quy định về cấu trúc văn bản, dùng từ, hình thức trình bày văn bản... VD: Cấu trúc văn bản hành chính: Quyết định d. Tính hiệu lực thực thi Văn bản hành chính không phải nhằm mục đích thể hiện tình cảm mà sử dụng vào mục đích thực thi quyền lực. Vì vậy văn bản không dung nạp yếu tố biểu cảm. Người viết không phải nhân danh cá nhân để bộc bạch tình cảm mà nhân danh nhà nước để ban hành chủ trương, nhân danh công dân để thực hiện quyền công dân đối với cơ quan nhà nước. Do vậy trong văn bản thường xuất hiện những cụm từ như: Căn cứ vào, nay quyết định, yêu cầu thực hiện, đề nghị, yêu cầu, mong được giải quyết... 3. Ðặc điểm sử dụng ngôn ngữ 3.1. Ngữ âm Khi phát âm ở phong cách này phải hướng tới chuẩn mực ngữ âm, phát âm phải rõ ràng, chính xác. Khác với các loại phong cách khác, khi tồn tại ở dạng nói, phong cách hành chính không phải là sự trình bày, diễn đạt theo văn bản đã viết hoặc soạn đề cương mà là đọc lại. Nghĩa là chúng không chịu một sự biến đổi nào bên trong. Ngữ điệu đọc hoàn toàn bị phụ thuộc vào cấu trúc của nội dung văn bản. 3.2. Từ ngữ - Những từ ngữ xuất hiện nhiều ở phong cách này là lớp từ ngữ chuyên dùng trong các hoạt động của bộ máy nhà nước và các đoàn thể, còn được gọi là từ hành chính. Loại từ này tạo nên vẻ trang trọng, nghiêm túc, đảm bảo thể chế của sự diễn đạt hành chính. - Có khuynh hướng dùng những từ ngữ thật chính xác đứng về mặt nội dung và những từ ngữ trung hoà hoặc những từ ngữ trang trọng đứng về mặt sắc thái biểu cảm. Những từ ngữ này góp phần biểu thị tính chất thể chế nghiêm chỉnh của các giấy tờ và văn kiện hành chính. - Từ Hán Việt chiếm một tỉ lệ khá lớn. Ví dụ * Điều 1: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển và các hải đảo. (Trích hiến pháp nước CNXHCN Việt Nam) 3.3. Cú pháp - Dùng câu tường thuật là chủ yếu, các kiểu câu cảm thán , nghi vấn không thích hợp với yêu cầu thông tin của phong cách này. - Câu văn hành chính không chấp nhận sự mơ hồ. Tính thống nhất và chặt chẽ của các văn bản hành chính không cho phép sử dụng những câu trong đó quan hệ ngữ pháp giữa các thành phần không rõ ràng khiến nội dung câu văn bị hiểu theo nhiều cách. - Câu văn hành chính không cho phép sự sáng tạo về ngôn ngữ của cá nhân, những yếu tố cảm xúc của cá nhân. Do yêu cầu cao về sự thống nhất theo thể thức hành chính nên một số văn bản hành chính viết theo mẫu đã quy định thống nhất. - Cú pháp của bất kỳ một quyết định hành chính nào cũng chỉ được trình bày trong một câu. V. Phong cách chính luận 1. Khái niệm - Phong cách chính luận dùng trong lĩnh vực chính trị xã hội. Người giao tiếp bày tỏ chính kiến, bộc lộ công khai quan điểm chính trị, tư tưởng của mình đối với những vấn đề thời sự chính trị xã hội đương đại. - Phong cách chính luận thường sử dụng trong các dạng văn bản: Hịch, cáo, lời kêu gọi, tuyên ngôn, báo cáo chính trị, xã luận bình luận trên báo chí phát thanh truyền hình. 2. Chức năng và đặc trưng 2.1. Chức năng 19 - Chức năng thông báo nhằm truyền đạt cho mọi người nhận thức đúng các vấn đề thời sự chính trị xã hội, công bố chủ trương đường lối chính sách (đây là điểm giao thoa với phong cách báo chí). - Chức năng tác động nhằm tuyên truyền giáo dục, cổ vũ động viên mọi người hưởng ứng. Hai chức năng trên có mối quan hệ mật thiết tác động qua lại ảnh hưởng nhau, thông báo đã bao hàm mục đích tác động, việc tác động có hiệu quả nhờ vào sự thông báo tường minh chân lý. Chính vì thực hiện các chức năng này mà ta thấy phong cách chính luận có điểm gặp gỡ với phong cách thông tấn báo chí, phong cách khoa học và cả phong cách văn chương. 2.2. Ðặc trưng a. Tính bình giá công khai Người nói, người viết bao giờ cũng bộc lộ công khai một cách rõ ràng trực tiếp quan điểm, thái độ của mình đối vè những vấn đề chính trị xã hội. Ðây là đặc trưng khu biệt phong cách chính luận với phong cách khoa học và phong cách văn chương. Nếu văn chương là bình giá gián tiếp, khoa học là tránh sự thể hiện những yếu tố cảm tính chủ quan thì chính luận bao giờ cũng bộc lộ trực tiếp quan điểm, thái độ của mình về một vấn đề thời sự của xã hội. Sự bình giá này có thể là của cá nhân hoặc nhân danh một tổ chức, đoàn thể chính trị nào đó. b. Tính lập luận chặt chẽ Ðể bày tỏ chính kiến, giải thích, thuyết phục và động viên mọi người tham gia vào việc giải quyết những vấn đề thời sự nóng hổi của đất nước, sự diễn đạt ở phong cách này đòi hỏi có tính chất lập thuyết. Nghĩa là phải bằng những lí lẽ đúng đắn, có căn cứ vững chắc, dựa trên cơ sở những luận điểm, luận cứ khoa học mà đấu tranh, thuyết phục, động viên. Tính lập luận chặt chẽ thể hiện ở việc khai thác những quan hệ chiều sâu giữa hình thức ngôn ngữ và mục đích biểu đạt. Một văn bản chính luận hay thường là những văn bản chưá đựng nhiều hàm ý sâu sắc, có sức chinh phục lòng người, có sức cuốn hút mãnh liệt. Ví dụ: Nét sắc sảo trong cách lập luận của tuyên ngôn độc lập c. Tính truyền cảm Để thuyết phục người nghe, đọc, phong cách chính luận có tính truyền cảm mạnh mẽ, diễn đạt hùng hồn, sinh động có sức hấp dẫn và đạt hiệu quả cao, thuyết phục cả bằng lí trí, cả bằng tình cảm, đạo đức. Ðặc trưng này tạo nên sự khu biệt giữa phong cách chính luận với khoa học, thông tấn và khiến phong cách này gần với phong cách văn chương. Trong văn bản chính luận, chúng ta thường bắt gặp các biện pháp tu từ, những từ ngữ có đặc điểm tu từ cao nhằm gây ấn tượng mạnh mẽ về mặt âm thanh và ý nghĩa. 3. Ðặc điểm sử dụng ngôn ngữ 3.1. Ngữ âm Có ý thức hướng tới chuẩn mực ngữ âm. Khi phát biểu trong hội nghị hoặc diễn thuyết trong mít tinh, ngữ điệu được xem là phương tiện bổ sung để tăng thêm sức hấp dẫn, lôi cuốn người nghe. 3.2. Từ ngữ - Ðặc điểm nổi bật nhất là sự có mặt của lớp từ chính trị, công cụ riêng của phong cách chính luận. phong cách này đòi hỏi khi dùng từ chính trị phải luôn luôn tỏ rõ lập trường, quan điểm và tình cảm cách mạng của mình. Ví dụ: "Ai dám bảo cuộc Cách mạng tháng Tám của ta là cuộc đảo chính? Ðảo chính là hai bọn thống trị trong nước hất cẳng nhau. Bọn này quật đổ bọn kia để lập chính phủ mới, nhưng căn bản chế độ cũ vẫn để nguyên. Ðằng này nhân dân bị áp bức nổi dậy tự giải phóng giành chính quyền, sao gọi là đảo chính?" (Trường Chinh) - Từ ngữ đòi hỏi sự minh xác cao. Ðề tài được đưa ra bàn luận ở phong cách chính luận là những vấn đề thời sự nóng hổi của xã hội cho nên khi cần thiết người ta phải dùng tất cả các lớp từ ngữ có quan hệ đến đề tài này. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

thumb
Mau 5 datn...
14
666
69