ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
------------
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ
GVHD: GS. Vũ Văn Gầu
Lớp
: Cao học Quản lý Môi trường
HVTH: Nguyễn Ngọc Tiến
MSHV: 11260579
TP.HCM - 06/2012
GVHD: GS. Vũ Văn Gầu
HVTH: Nguyễn Ngọc Tiến
MỤC LỤC
MỤC LỤC .............................................................................................................. 1
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Tư tưởng triết học Hêghen .............................................................................. 2
1.1.
Điều kiện lịch sử ....................................................................................... 2
1.2.
Sơ lược về triết học Hêghen ..................................................................... 2
1.2.1.
Hệ thống triết học duy tâm của Hêghen ............................................ 5
1.2.2.
Triết học tự nhiên ............................................................................... 8
1.2.3.
Quan điểm về xã hội của Hêghen ...................................................... 9
2. Những giá trị và hạn chế của phép biện chứng duy tâm Hêghen .................... 9
2.1.
Những giá trị của phép biện chứng duy tâm Hêghen ............................. 10
2.2.
Những hạn chế của phép biện chứng duy tâm Hêghen .......................... 22
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................... 26
Phép biện chứng duy tâm Hêghen - những giá trị và hạn chế
GVHD: GS. Vũ Văn Gầu
HVTH: Nguyễn Ngọc Tiến
LỜI MỞ ĐẦU
Hêghen là nhà biện chứng lỗi lạc của triết học cổ điển Đức. Ông cho rằng
“nguồn gốc của mọi sự vật hiện tượng tự nhiên và xã hội là ý niệm tuyệt đối. Từ
xuất phát này ông đã xây dựng một hệ thống triết học duy tâm khách quan”. Triết
học theo Hêghen là sự xem xét đối tượng một cách có suy nghĩ, “không thừa
nhận bất kỳ năng lực tinh thần nào của con người, đặt biệt năng lực quan trọng
nhất là lý tính”. Đối tượng của triết học theo ông là trùng với đối tượng của tôn
giáo đó là khách thể tuyệt đối vô hạn Thượng đế. Còn tư duy nói chung là cái làm
cho con người khác với động vật. Thành tựu quan trọng của triết học Hêghen là
phương pháp biện chứng mà hạt nhân hợp lý của nó là tư tưởng về phép biện
chứng.
Đề tài tiểu luận này mục đích để nhận thức đúng những nét đặc thù đồng
thời cũng là để đánh giá chính xác hơn ý nghĩa của triết học Hêghen đối với sự
phát triển của tư tưởng triết học nói chung, một khi chúng ta tính đến kinh
nghiệm lịch sử từ lúc xuất hiện triết học đó cho đến nay. Đương nhiên khi xem
xét các quan điểm của những nhà triết học nổi tiếng qua các thời đại trước đây,
chúng ta tuyệt nhiên không được tô vẽ, không được hiện đại hóa quan điểm của
họ. Đồng thời chúng ta cũng không được ca ngợi, không được biện hộ một chiều
các quan điểm đã lỗi thời hoặc bị hạn chế bởi những điều kiện của lịch sử. Một
mặt, khi xem xét di sản của một nhà triết học thì không bỏ qua những hạn chế
lịch sử những khiếm khuyết sai lầm của nhà tư tưởng đó, phải đặt nó trong điều
kiện lịch sử cụ thể để có được những đánh giá khách quan và chính xác nhất.
Làm tốt được điều trên đối với hệ thống triết học Hêghen không phải dễ dàng, bởi
vì triết học Hêghen không những quá đồ sộ và uyên bác về nhiều mặt mà còn
chứa đựng trong chính nó không ít những mâu thuẫn, những xu hướng khác nhau,
và đó là lý do em chọn đề tài này.
Phép biện chứng duy tâm Hêghen - những giá trị và hạn chế
Trang 1
GVHD: GS. Vũ Văn Gầu
HVTH: Nguyễn Ngọc Tiến
1. Tư tưởng triết học Hêghen
1.1.
Điều kiện lịch sử
Nước Đức ở nửa cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, được mở đầu từ hệ
thống triết học của I.Cantơ, trải qua Phíchtơ, Senlinh đến triết học duy tâm khách
quan của Hêghen và triết học duy vật nhân bản của Phoiơbắc. Chỉ trong một thời
kỳ lịch sử khoảng một thế kỷ, triết học cổ điển Đức đã tạo những tiền đề lý luận
hết sức quan trọng cho sự ra đời của triết học Mác vào giữa thế kỷ XIX.
Triết học cổ điển Đức ra đời trong một điều kiện lich sử hết sức đặc biệt.
Nước Đức vào cuối XVIII đầu XIX vẫn còn là một quốc gia phong kiến điển hình
với 360 quốc gia tự lập trong Liên bang Đức hết sức lạc hậu về kinh tế và chính
trị. Trong khi đó, ở nước Anh cuộc cách mạng công nghiệp,ở nước Pháp cuộc
cách mạng tư sản đã nổ ra làm rung chuyển Châu Âu, đưa châu Âu bước vào nền
văn minh công nghiệp.
Chính thực tại đau buồn của nước Đức và tấm gương của các nước Tây Âu
đã thức tỉnh tinh thần phản kháng của giai cấp tư sản Đức. Nhưng giai cấp này
sống rải rác ở hững vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém
về kinh tế và chính trị, nên họ vừa muốn làm cách mạng, lại vừa muốn thoả hiệp
với tầng lớp phong kiến qúy tộc Phổ đang thống trị thời đó, giữ lập trường của
mình trong việc giải quyết những vấn đề phát triển của đất nước.Chính điều này
đã quy định nét đặc thù của triết học cổ điển Đức: nội dung cách mạng dưới một
hình thức duy tâm, bảo thủ,đề cao vai trò tích cực của tư duy con người, coi con
người là một thực thể hoạt động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề
triết học.
Trên một ý nghĩa nhất định, triết học cổ điển Đức không chỉ là sự phản
ánh những điều kiện kinh tế - chính trị và xã hội nước Đức mà còn của cả các
nước Châu Âu lúc đó.
1.2.
Sơ lược về triết học Hêghen
Georg Wilhelm Friedrich Hêghen, sinh ngày 27 tháng 8 năm 1770, mất
năm 1831. Hêghen sinh tại Stuttgart vào ngày 27/8/1770, là con trai của Georg
Phép biện chứng duy tâm Hêghen - những giá trị và hạn chế
Trang 2
GVHD: GS. Vũ Văn Gầu
HVTH: Nguyễn Ngọc Tiến
Ludwig Hêghen, một nhân viên hải quan thuộc lãnh địa
công tước của Wurttemburg. Là anh cả trong số ba đứa
con (em trai ông, Georg Ludwig, sớm qua đời lúc là một
sĩ quan trong quân đội Napoleon trong chiến dịch Nga),
ông được nuôi dưỡng trong một môi trường Tin Lành
ngoan đạo. Mẹ ông dạy ông tiếng Latinh trước khi ông
tới trường, nhưng bà đã mất khi ông lên 11. Ông rất gắn
bó với chị mình, Christiane, sau này bà thường gây nên những ghen tỵ thất
thường trong vợ của ông khi ông kết hôn vào độ tuổi 40 và đã tự vẫn ba tháng sau
cái chết của ông. Hêghen phải bận tâm rất nhiều đến chứng rối loạn thần kinh của
chị ông và phát triển những ý tưởng về tâm thần học dựa trên những khái niệm
biện chứng.
Hêghen đã sớm thông thuộc các học giả kinh điển Hy lạp và La Mã cổ đại
khi đang còn học tại trường trung học Stuttgart và nắm rất rõ văn học và khoa học
Đức. Cha ông cổ vũ ông trở thành một giáo sĩ, và Hêghen đã vào trường dòng tại
đại học Tübingen năm 1788. Ở đó ông đã phát triển tình bạn với nhà thơ
Friedrich Holderlin và nhà triết học Friedrich Wilhelm Joseph von Schelling. Đặc
biệt là do ảnh hưởng từ Holderlin, Hêghen đã phát triển một niềm say mê sâu sắc
đối với văn học và triết học Hy Lạp. Từ rất sớm và xuyên suốt cả cuộc đời,
Hêghen đã ghi lại và nhớ tất cả những gì ông đọc – và số lượng ông đọc thì nhiều
vô kể! Ông khâm phục Goethe và tự luôn đặt mình thấp hơn những thiên tài
đương thời ông, Holderlin và Schelling.
Nước Đức thời Hêghen cực kì lạc hậu về kinh tế, là một liên hợp do rất
nhiều quốc gia nhỏ và lạc hậu hợp lại, tương đối cách ly với những biến động sôi
nổi của châu Âu. Hêghen rất say mê đọc Schiller và Rousseau. Năm Hêghen 18
cũng là lúc nhà ngục Bastille bị đánh chiếm và Nền cộng hòa ra công khai ở
Pháp, Hêghen đã nhiệt tình ủng hộ cho cuộc cách mạng, và là thành viên trong
một nhóm ủng hộ được thành lập ở Tübingen. Hêghen hoàn thành tác phẩm vĩ đại
đầu tiên của mình, Hiện tượng học tinh thần vào ngay trước ngày xảy ra cuộc
chiến quyết định Jena, trong đó Napoleon đã phá tan quân đội Phổ và chia cắt
Phép biện chứng duy tâm Hêghen - những giá trị và hạn chế
Trang 3
GVHD: GS. Vũ Văn Gầu
HVTH: Nguyễn Ngọc Tiến
Vương quốc đó ra. Binh lính Pháp ập vào và đốt nhà của Hêghen ngay sau khi
ông kịp nhét nốt trang bản thảo cuối cùng của Hiện tượng học vào trong túi và ẩn
náu vào nhà một viên công chức cao trong thị trấn. Trong Hiện tượng học ông cố
gắng để hiểu được nỗi kinh hoàng cách mạng của những người Gia-cô-banh
thông qua những lời phát biểu của họ về Tự do. Hêghen ăn mừng ngày chiếm
ngục Bastille trong suốt cuộc đời mình.
Sau khi hoàn thành khóa học về triết học và thần học và quyết định không
vào đoàn mục sư, Hêghen đã trở thành một gia sư tư ở Berne, Switzerland. Vào
khoảng năm 1794, theo đề xuất của bạn ông Holderlin, Hêghen bắt đầu nghiên
cứu về Immanuel Kant và Johann Fichte nhưng những trước tác đầu tiên của ông
trong thời kì này lại là Cuộc đời Jesus và Sự xác thực của đạo Cơ-Đốc.
Năm 1796, Hêghen viết Cương lĩnh đầu tiên cho một hệ thống duy tâm
chủ nghĩa Đức cùng với Schelling. Trong tác phẩm này có đoạn: “… quốc gia là
một cái gì đó hoàn toàn máy móc – và không có ý niệm (phi vật chất) về một cái
máy. Chỉ cái gì là khách thể của tự do mới có thể gọi là “Ý niệm”. Do đó chúng
ta cần phải vượt quá quốc gia! Mọi quốc gia cần đối xử với những người tự do
như những cái răng trong một cái máy. Và đây chính là điều không nên xảy ra; do
đó quốc gia phải bị lụi tàn”. Năm 1797, Holderlin tìm được cho Hêghen một địa
điểm ở Frankfurt, nhưng hai năm sau đó cha ông mất, giải thoát cho ông khỏi
nghề gia sư.
Triết học Hêghen là biểu hiện của sự phát triển đầy đủ nhất và rực rỡ nhất
của chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức. Hêghen là nhà tư tưởng của giai cấp tư sản
Đức, người thể hiện chính sách thoả hiệp về chính trị của giai cấp tư sản với giai
cấp phong kiến quý tộc Phổ. Quan điểm triết học của ông là hệ thống duy tâm cổ
điển cuối cùng, là trình độ cao nhất của sự phát triển phép biện chứng duy tâm.
Hêghen là nhà duy tâm khách quan. Ông coi tinh thần thế giới là cái có
trước, vật chất với tính cách dường như là sự thể hiện, sự biểu hiện cụ thể của
tinh thần thế giới, là cái có sau; tinh thần là đấng sáng tạo ra vật chất.
Tinh thần thế giới – ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn và chứa đựng dưới dạng
tiềm năng tất cả mọi hiện tượng của tự nhiên và xã hội. Nó là nguồn gốc và động
Phép biện chứng duy tâm Hêghen - những giá trị và hạn chế
Trang 4
GVHD: GS. Vũ Văn Gầu
HVTH: Nguyễn Ngọc Tiến
lực của mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội. Tinh thần thế giới hay ý niêm tuyệt
đối trong quá trình tự phát triển của nó diễn ra qua các giai đoạn khác nhau, ngày
càng thể hiện đầy đủ nội dung bên trong của nó. Đầu tiên nó phát triển trong bản
thân nó, sau đó nó thể hiện dưới hình thức tự nhiên – thế giới vô cơ, hưu cơ và
con người, tiếp nữa là thể hiện dứoi hình thức nhà nước, nghệ thuật, tôn giáo và
triết học. Theo hệ thống của Hêghen, toàn bộ thế giới muôn màu, muôn vẻ là sản
phẩm của sự phát triển tự nhiên của ý niệm với tính cách là lực lượng sáng tạo, là
tổng hoà của mọi hình thức khác nhau của sự biểu hiện của ý niệm. Bởi vậy, học
thuyết của Hêghen coi tính thứ nhất là tinh thần, tính thứ hai là vạt chất. Đó cũng
chính là sự thể hiện riêng về mặt triết học những lời khưảng định của tôn giáo
rằng Thượng đế sáng tạo ra thế giới.
Có thể nói, trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, Hêghen chỉ
lặp lại những điều mà các nhà duy tâm trước đó đã nói. Song, cái mới trong học
thuyết của ông, chính là chỗ ông xem xét tinh thần thế giới, ý niệm tuyệt đối là
một quá trình tự phát triển không ngừng, và ông là một nhà triết học hoàn chỉnh
phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng của ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế
giới với tính cách là cơ sở đầu tiên và nguồn gốc của mọi tồn tại. Hêghen đã phê
phán phép siêu hình thống trị lúc đó và ông đã lấy phép biện chứng đem đối lập
với nó. Các yếu tố biện chứng duy tâm có trong các tác phẩm triết học duy tâm
trước Hêghen, nhưng phép biện chứng duy tâm với tính cách là phương pháp ít
nhiều hoàn chỉnh thì do Hêghen lập ra.
Công lao của Hêghen so với những người tiền bối của ông là ở chỗ đã
phân tích một cách tổng hợp và biện chứng tất cả các phạm trù quan trọng nhất
của triết học và hình thành trên cơ sở duy tâm ba quy luật cơ bản của tư duy: quy
luật chuyển hoá từ lượng thành chất, quy luật thâm nhập lẫn nhau của các mặt đối
lập và quy luật phủ định của phủ định.
1.2.1. Hệ thống triết học duy tâm của Hêghen
a. Chủ nghĩa duy tâm khách quan
Theo Hêghen, cơ sở cho sự tồn tại của thế giới không phải là vật chất mà
là “Ý niệm tuyệt đối” hay là “Tinh thần tuyệt đối”. Đó là một thực thể tinh thần
Phép biện chứng duy tâm Hêghen - những giá trị và hạn chế
Trang 5
GVHD: GS. Vũ Văn Gầu
HVTH: Nguyễn Ngọc Tiến
có trước giới tự nhiên, nó tự thiết định bản thân nó và tự phân biệt với bản thân.
Ý niệm tuyệt đối được hiểu như một đấng sáng tạo tối cao sản sinh ra toàn bộ
giới tự nhiên và con người; tất cả các sự vật, hiện tượng, từ những sự vật tự nhiên
cho đến các sản phẩm hoạt động của con người, đều được coi là hiện thân của ý
niệm tuyệt đối.
Ý niệm tuyệt đối là một thực thể biện chứng, luôn luôn vận động và phát
triển tự thân. Hêghen là người đầu tiên nhìn nhận toàn bộ giới tự nhiên, xã hội và
tư duy là một quá trình phát triển thống nhất, nhưng theo tinh thần duy tâm - coi
sự phát triển của ý niệm là nền tảng cho sự phát triển của tự nhiên và con người.
Sự phát triển của “Ý niệm tuyệt đối” được diễn đạt theo mô hình Tam đoạn thức
là: chính đề - phản đề - hợp đề (theo quy luật phủ định của phủ định), trong đó
các yếu tố có mối liên hệ hữu cơ và chuyển hóa lẫn nhau. Sự phát triển của ý
niệm tuyệt đối được coi là hiện thân của quá trình phát triển lịch sử của nhân loại
(chủ yếu là phát triển của đời sống tinh thần mà biểu hiện cao nhất là tư tưởng),
tuy được Hêghen phân ra thành tám phần khác nhau nhưng theo C. Mác nó chỉ
bao gồm qua ba giai đoạn chính là: tinh thần thuần túy (tư duy), tinh thần khách
quan (tự nhiên và xã hội), tinh thần tuyệt đối (hoạt đông nhận thức và cải tạo thế
giới của con người).
+ Tinh thần thuần túy là giai đoạn ý niệm tuyệt đối tồn tại và phát triển
trong mình. Theo Hêghen, trong sự vận động biện chứng ý niệm tuyệt đối đã đạt
tới sự phát triển đầy đủ từ trước khi giới tự nhiên xuất hiện. Nó mang trong mình
đầy đủ những tính quy định sau này, giống như cái mầm cây mang sẵn trong
mình toàn bộ bản chất của cái cây như mùi, vị, hình dáng quả… Sự phát triển của
tinh thần thần túy là phi không gian và phi thời gian.
+ Sự phát triển của tinh thần thuần túy, khi đạt đến đầy đủ thì “tha hóa” ra
thành giới tự nhiên - tức “Tinh thần khách quan”. Như vậy giới tự nhiên chỉ là
một giai đoạn trong quá trình phát triển của ý niệm tuyệt đối, là sự “tha hóa” của
ý niệm, là “Hình thức tồn tại khác” của ý niệm. Hêghen giải thích: sở dĩ ý niệm
tuyệt đối tha hóa thành giới tự nhiên vì nó là một thực thể tinh thần, bản tính của
Phép biện chứng duy tâm Hêghen - những giá trị và hạn chế
Trang 6
GVHD: GS. Vũ Văn Gầu
HVTH: Nguyễn Ngọc Tiến
nó là ham hiểu biết, để hiểu biết về mình thì nó phải tha hóa ra thành một cái
khác mình nhưng vẫn là chính mình.
+ Con người được coi là sản phẩm, là giai đoạn phát triển cao nhất của ý
niệm tuyệt đối. Thông qua hoạt động nhận thức và thực tiễn cải tạo thế giới của
con người để ý niệm tuyệt đối tự nhận thức chính mình. Như vậy quá trình nhận
thức của con người chẳng qua chỉ là quá trình tự nhận thức mình của ý niệm tuyệt
đối. Theo Hêghen, nhận thức khái niệm là dạng nhận thức cao nhất của con
người. Khái niệm được coi là bản chất tinh thần, là linh hồn của các sự vật: “Nếu
như gọi tri thức là khái niệm, còn bản chất hay chân lý - là tồn tại, tức sự vật, thì
vấn đề là xác định liệu khái niệm có phù hợp với sự vật hay không (giải thích:
khái niệm với tính cách là kết quả nhận thức?). Nếu chúng ta gọi bản chất (hay
tồn tại - tự nó) của sự vật là khái niệm và … sự vật là khái niệm như một sự vật
(giải thích: khái niệm có trước sự vật với tính cách là bản chất của sự vật) … thì
vấn đề là xác định liệu sự vật có phù hợp với khái niệm của mình không. Hiển
nhiên là hai cách hiểu trên đây là như nhau. Khi nào con người nhận thức đầy đủ
giới tự nhiên thì khi đó ý niệm tuyệt đối sẽ quay trở về với chính nó, đó chính tà
tinh thần tuyệt đối. Như vậy, điểm khởi đầu của sự phát triển là tinh thần, nhưng
đó là “Tinh thần thế giới” (phi cá nhân) và điểm kết thúc của sự phát triển cũng là
tinh thần, nhưng đó là “tinh thần tuyệt đối” tồn tại ở mỗi các nhân con người. Nó
biểu hiện dưới các hình thức nhận thức tôn giáo, nghệ thuật và triết học của con
người, trong đó triết học là hình thức cao nhất. Như vậy hệ thống triết học của
Hêghen là duy tâm khách quan và siêu hình. Duy tâm khách quan ở chỗ nó thừa
nhận tinh thần là có trước và quyết định; siêu hình ở chỗ nó thừa nhận sự kết thúc
của quá trình phát triển, cho rằng khi con người nhận thức hết về giới tự nhiên thì
nó không vận động, phát triển về thời gian mà chỉ vận động trong không gian.
Tương ứng với ba giai đoạn phát triển của ý niệm tuyệt đối hệ thống triết học của
Hêghen được phân ra thành ba học thuyết: Khoa học lôgích - triết học tự nhiên triết học tinh thần.
b. Quan niệm về bản chất của triết học và lịch sử triết học
Phép biện chứng duy tâm Hêghen - những giá trị và hạn chế
Trang 7
GVHD: GS. Vũ Văn Gầu
HVTH: Nguyễn Ngọc Tiến
Coi tinh thần tuyệt đối là thực thể và bản chất của toàn bộ thế giới, trong
đó con người và xã hội là giai đoạn phát triển cao nhất, Hêghen cho rằng có ba
hình thức thể hiện nó, đó là: nghệ thuật, tôn giáo và triết học. Trong đó triết học
là hình thức biểu hiện cao nhất của tinh thần tuyệt đối.
Theo Ông, triết học là học thuyết về tinh thần tuyệt đối mà lịch sử nhân
loại (chủ yếu là lịch sử tư tưởng) là giai đoạn cao nhất của nó. Cho nên mỗi học
thuyết triết học là một giai đoạn phát triển của lịch sử tư tưởng nhân loại, thể hiện
tinh hoa tinh thần của thời đại, là thời đại thể hiện dưới dạng tư tưởng. Ông coi
triết học là “Khoa học của mọi khoa học”, cho nên nó đóng vai trò là nền tảng của
toàn bộ thế giới quan con người.
Lịch sử triết học cho chúng ta một bức tranh khái quát về toàn bộ tiến
trình phát triển của tư tưởng nhân loại. Đó không phải là sự sưu tầm các học
thuyết triết học, mà là là lịch sử phát triển của bản thân triết học theo những quy
luật tất yếu: “Lịch sử triết học chỉ ra, thứ nhất, tất cả các học thuyết triết học
tưởng như khác nhau đều thực chất chỉ là một triết học trên các giai đoạn phát
triển khác nhau của nó; thứ hai, những nguyên lý đặc thù, mà mỗi chúng là nền
tảng của một hệ thống nào đó, thực chất chỉ là những chi nhánh của cùng một
chỉnh thể. Học thuyết triết học cuối cùng, và do vậy cần phải chứa đựng các
nguyên lý của tất cả chúng, cho nên nó là học thuyết triết học phát triển nhất, cụ
thể nhất”. Như vậy, đối tượng của lịch sử triết học cũng chính là đối tượng của
bản thân triết học; sự thống nhất giữa chúng là sự thống nhất giữa lịch sử và
lôgích.
1.2.2. Triết học tự nhiên
Triết học tự nhiên là sự nghiên cứu lý luận về giới tự nhiên. Giới tự nhiên
được Hêghen hiểu là một hình thức tồn tại khác của ý niệm tuyệt đối, nó nằm
trong quá trình phát triển thống nhất của ý niệm tuyệt đối cho nên không ngừng
vận động và phát triển.
Tiếp thu những thành tựu khoa học tự nhiên ông khẳng định sự tồn tại
nhiều cấp độ khác nhau của vật chất như cơ học, vật lý, hóa học, sự sống… với
những đặc điểm khác nhau về bản chất và vận động. Tuy triết học tự nhiên là
Phép biện chứng duy tâm Hêghen - những giá trị và hạn chế
Trang 8
GVHD: GS. Vũ Văn Gầu
HVTH: Nguyễn Ngọc Tiến
điểm yếu nhất trong hệ thống của Hêghen, nhưng ông cũng đã nêu được nhiều tư
tưởng biện chứng sâu sắc về nó, thấy được sự thống nhất giữa vật chất với vận
động, không gian với thời gian…
1.2.3. Quan điểm về xã hội của Hêghen
Tuy coi lịch sử nhân loại là lịch sử phát triển của đời sống tinh thần, là
hiện than của ý niệm tuyệt đối theo tinh thần duy tâm, nhưng Hêghen đã nêu
những tư tưởng biện chứng sâu sắc về sự phát triển xã hội.
Hêghen giải thích nguồn gốc nhà nước không phải từ khế ước xã hội, mà
từ mâu thuẫn xã hội. Ông không cho rằng con người sinh ra vốn đã bình đẳng, mà
ngược lại là bất bình đẳng. Do đó trong xã hội luôn có sự khác biệt về đẳng cấp,
của cải… vì vậy cần có nhà nước để điều hoà mâu thuẫn. Ông cho rằng nhà nước
tồn tại vĩnh viễn, ở mọi thời kỳ lịch sử. Nó là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, nhờ
nó mà gia đình và xã hội công dân mới tồn tại được. xét về bản chất, nhà nước
không chỉ là cơ quan hành pháp, mà còn bao gồm tổng thể các quy chế, kỷ
cương, chuẩn mực và mọi lĩnh vực đạo đức, pháp quyền, chính trị, văn hóa…
Ông coi Nhà nước Quân chủ Phổ là đỉnh cao của sự phát triển xã hội, là “Nhà
nước quân chủ chân chính”, trong đó tất cả mọi người đều được tự do.
Ông đề cao vai trò của chiến tranh, cho rằng nó tồn tại vĩnh viễn mà nhờ
nó các dân tộc mới “Tránh khỏi sự thối nát”. Ông theo chủ nghĩa Sôvanh, đề cao
dân tộc Đức.
Hêghen coi lịch sử là sự thống nhất giữa tính khách quan và tính chủ quan.
Một mặt, lịch sử là quá trình tất yếu, vận động theo quy luật khách quan, theo xu
thế thời đại. Nhưng mặt khác, lịch sử phải do các cá nhân, các dân tộc thực hiện.
Tuy nhiên, hoạt động của con người phải tuân thủ tính tất yếu, phải phù hợp với
xu thế của thời đại; vĩ nhân phải suy nghĩ và hành động theo những gì là hợp thời.
Ông coi phát triển tự do của con người là chuẩn mực, ưu việt của thời đại
này so với thời đại khác, tuy nhiên lại hiểu tự do một cách duy tâm. Ông coi “Tự
do là hiểu và làm theo ý Chúa”; “Lịch sử toàn thế giới là lịch sử tiến bộ trong ý
thức tự do”; “ Tự do là cái tất yếu đã được nhận thức”.
2. Những giá trị và hạn chế của phép biện chứng duy tâm Hêghen
Phép biện chứng duy tâm Hêghen - những giá trị và hạn chế
Trang 9
GVHD: GS. Vũ Văn Gầu
2.1.
HVTH: Nguyễn Ngọc Tiến
Những giá trị của phép biện chứng duy tâm Hêghen
Hêghen là người đầu tiên xây dựng nên một phép biện chứng tự giác, có
hệ thống và tương đối toàn diện mà cốt lõi của nó là học thuyết về sự phát triển.
Tuy nhiên phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm, là phép biện
chứng “lộn đầu xuống đất”. Các tư tưởng biện chứng được Hêghen trình bày
trong cả ba phần, nhưng tập trung nhất là trong “Khoa học lôgích”.
a. Đối tượng và nhiệm vụ của khoa học lôgích
Nghiên cứu các học thuyết lôgích học trước đó Hêghen chỉ ra hạn chế của
chúng là: thứ nhất, tư duy với tính cách là đối tượng của lôgích học, mới chỉ được
hiểu theo nghĩa hẹp, đó là tư duy chủ quan trong phạm vi ý thức cá nhân. Thứ
hai, việc xác định ranh giới giữa lôgích học với các khoa học khác về tư duy như
tâm lý học, nhân bản học là chưa rõ ràng. Thứ ba, lôgích học trước đây chỉ dựa
trên những phạm trù bất động, không có sự lien hệ và chuyển hóa với nhau.
Hêghen cho rằng phải xây dựng một lôgích học mới. Tuy vẫn xác định
lôgích học là khoa học về tư duy, nhưng cần phải hiểu một cách biện chứng về tư
duy. Tư duy ở đây không phải là ý thức cá nhân, mà là tinh thần thuần túy (dưới
khía cạnh tôn giáo thì đó là Chúa). Như vậy, Hêghen phân biệt hai loại tư duy là:
thứ nhất, tư duy tự nó - tức ý niệm tuyệt đối, là nền tảng và bản chất của mọi tồn
tại; và tư duy cho nó - tức tư duy cá nhân con người. Tư duy con người là giai
đoạn cao nhất, trong đó ý niệm tuyệt đối có thể tự ý thức về mình, nên tư duy con
người phải hoạt động theo những quy luật khách quan chung của tư duy.
Giới tự nhiên cũng chỉ là hình thức biểu hiện khác của tư duy, là tư duy
khách quan vô thức. Chúng đồng nhất về nội dung, chỉ khác nhau về hình thức.
Như vậy, đối tượng của lôgích học là tư duy lôgích, nó là sự thống nhất giữa tư
tưởng và hiện thực, giữa tinh thần và vật chất, giữa chủ quan và khách quan. Cho
nên, “lôgích học vì vậy đồng nhất với siêu hình học – khoa học về các sự vật
được thể hiện trong tư tưởng”.
b. Cái gì hợp lý, thì hiện thực và cái gì hiện thực, thì hợp lý
Đây là nguyên lý xuất phát của khoa học lôgích. Luận điểm này không chỉ
nhằm bảo vệ cho nhà nước quân chủ Phổ, mà chủ yếu là khẳng định rằng không
Phép biện chứng duy tâm Hêghen - những giá trị và hạn chế
Trang 10
GVHD: GS. Vũ Văn Gầu
HVTH: Nguyễn Ngọc Tiến
phải mọi cái đang tồn tại đều là hiện thực; cái hiện thực phải là cái tồn tại tất yếu:
“Tính hiện thực, trong sự phát triển của nó, tự biểu lộ ra là tính tất yếu”.
Ăngghen chỉ ra thực chất của luận điểm này là trong quá trình phát triển,
những gì trước đây là hiện thực thì nay trở thành không hiện thực, mất đi tính tất
yếu, mất quyền tồn tại và bị tiêu vong; những gì là hợp lý trong tư duy con người,
dù có mâu thuẫn với hiện thực bề ngoài cũng được quy định trở thành hiện thực.
Cho nên mệnh đề trên trở thành một mệnh đề khác: “Cái gì đang tồn tại đều đáng
tiêu vong”.
Theo nguyên lý trên của Hêghen, cần phải hiểu là: thứ nhất, các phạm trù
tư duy không phải là hình thức trống rỗng, chủ quan của tư duy mà còn là bản
chất của sự vật khách quan. Lênin nhận xét: “lôgích không phải là những hình
thức bên ngoài của tư duy, mà là học thuyết về những quy luật phát triển của “tất
thảy mọi sự vật vật chất, tự nhiên và tinh thần”, … tức là sự tổng kết, tổng số, kết
luận của lịch sử nhận thức thế giới”. Thứ hai, nó khẳng định sự thống nhất giữa
tư duy và tồn tại, tư tưởng và hiện thực như một quá trình phát triển biện chứng.
Cho nên, để thể hiện bản chất của tư duy các phạm trù, quy luật lôgích cũng phải
không ngừng vận động, phát triển, liên hệ và chuyển hóa lẫn nhau. Nhiệm vụ của
khoa học lôgích là phải đào thải những hình thức tư tưởng không thể hiện đúng
bản chất của tư duy sống động, trang bị phương pháp tư duy biện chứng để khám
phá chân lý.
c. Ba yếu tố của tư duy
Hêghen coi tư duy là một quá trình phát triển biện chứng, bao gồm ba yếu tố cơ
bản là: giác tính, biện chứng và tư biện.
- Giác tính: là yếu tố phù hợp với tư duy thông thường của mọi người. Tư
duy này còn mang nặng tính trực quan, nên xem xét sự vật trong trạng thái cứng
đờ, tách rời các mặt đối lập với nhau, không thấy được sự thống nhất giữa chúng.
Trình độ này của tư duy tương ứng với giai đoạn trước I.Cantơ.
- Yếu tố biện chứng: Hêghen hiểu phép biện chứng không phải là nghệ
thuật tranh luận, mà là học thuyết về sự phát triển của các khái niệm với tính cách
là bản chất tinh thần của mọi sự vật. Cho nên mọi sự vật vật chất và tinh thần đều
Phép biện chứng duy tâm Hêghen - những giá trị và hạn chế
Trang 11
GVHD: GS. Vũ Văn Gầu
HVTH: Nguyễn Ngọc Tiến
phát triển theo các quy luật biện chứng. Đó là quá trình thống nhất giữa chất và
lượng; là quá trình nảy sinh và giải quyết mâu thuẫn và là sự phủ định của phủ
định. Như vậy, theo tinh thần phép biện chứng không có gì là đứng vững nổi,
không có gì là cố định, vĩnh viễn… Yếu tố này tương ứng với giai đoạn I.Cantơ.
- Yếu tố tư biện: là sự thống nhất của hai yếu tố trên, đồng thời là kết quả
phát triển của chúng. Chỉ ở đây phép biện chứng mới đạt đến trạng thái chín
muồi, khi mà bản chất đích thực của mọi cái đều được biểu hiện ra là sự thống
nhất và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. Yếu tố này tương ứng với triết học của
Hêghen.
Theo Hêghen, sự phân chia các yếu tố như trên chỉ mang tính chất tương
đối về không gian và thời gian. Trong thực tế chúng liên hệ mật thiết với nhau
trong từng giai đoạn phát triển của sự vật và khái niệm. Mối khái niệm, phạm trù
lôgích học và toàn bộ triết học nói chung đều chứa đựng đầy đủ cả ba yếu tố trên.
Mỗi phạm trù lôgích học thể hiện một khía cạnh hay một giai đoạn nào đó trong
quá trình phát triển của tư duy.
d. Những nguyên lý cơ bản xác định điểm khởi đầu của khoa học lôgích
Quá trình nhận thức phải đi từ hiện tượng đến bản chất, từ cảm tính đến lý
tính, cuối cùng mới đi đến khái niệm. Tương ứng với quá trình này Hêghen chia
khoa học lôgích ra thành ba học thuyết: học thuyết về tồn tại, học thuyết về bản
chất, học thuyết về khái niệm. Để xây dựng khoa học lôgích cần xác định điểm
khởi đầu của nó. Hêghen đã chỉ ra những nguyên lý cơ bản xác định điểm khởi
đầu của khoa học lôgích, đồng thời cũng là điểm khởi đầu của nhận thức lý luận
nói chung.
- Một là, tính khách quan là nguyên lý hàng đầu, đòi hỏi các nhà nghiên
cứu phải xuất phát từ bản thân sự vật khách quan, phù hợp với từng sự vật chứ
không được tuỳ tiện, chủ quan.
- Hai là, nguyên lý đơn giản và trừu tượng. Điểm khởi đầu phải là cái đơn
giản nhất, chưa hoàn thiện nhất, trừu tượng nhất. Như vậy Hêghen là người đầu
tiên đề xuất nguyên tắc đi từ trừu tượng đến cụ thể.
Phép biện chứng duy tâm Hêghen - những giá trị và hạn chế
Trang 12
GVHD: GS. Vũ Văn Gầu
HVTH: Nguyễn Ngọc Tiến
- Ba là, nó phải chứa đựng mâu thuẫn cơ bản của toàn bộ hệ thống – đó là
mâu thuẫn giữa tinh thần và vật chất. Mâu thuẫn được coi là nguồn gốc của sự
phát triển, có mặt ở mọi sự vật vật chất và tinh thần. Hêghen đã chỉ ra cơ chế phát
triển của mâu thuẫn thông qua phạm trù bản chất. Phạm trù bản chất được hiểu
như sau:
Giai đoạn 1. Đồng nhất, nhưng đồng thời cũng là sự khác nhau
Giai đoạn 2. Khác nhau bề ngoài
Giai đoạn 3. Khác nhau cơ bản
Giai đoạn 4. Sự đối lập
Giai đoạn 5. Mâu thuẫn
Giai đoạn 6. Cơ sở hay sự đồng nhất, nhưng ở trình độ cao hơn với
tính cách là sự phủ định của phủ định.
- Bốn là, Sự thống nhất giữa lịch sử và lôgích. Hêghen hiểu lôgích không
phải là sự khái quát lịch sử, mà ngược lại lịch sử chính là hiện than của lôgích.
Cho nên lôgích là có trước và quyết định đối với lịch sử (duy tâm).
Tóm lại, biện chứng của khái niệm nói riêng, của toàn bộ hiện thực vật
chất và tinh thần nói chung được hiểu là:
Thứ nhất, các khái niệm không chỉ khác nhau, mà còn làm trung giới cho
nhau, có liên hệ mật thiết với nhau.
Thứ hai: Mỗi khái niệm đều nằm trong quá trình phát triển, được thực hiện
theo ba quy luật phổ biến là lượng - chất, mâu thuẫn và phủ định của phủ định.
e. Ý nghĩa của phép biện chứng duy tâm Heghen
Điều này là hoàn toàn hợp quy luật vì rằng nhiều vấn đề tuổi học hiện đại
đã được đặt ra ở các thời đại phát triển khác nhau xa xôi trước kia của triết học.
Hơn bất cứ một khoa học nào khác triết học kể cả các khuynh hướng mới về
nguyên tắc đều đòi hỏi phải dựa vào cội nguồn lịch sử kể từ khi mới hình thành
và vào toàn bộ tiến trình phát triển lịch sử của mình.
Nếu xem xét một cách cẩn thận và khoa học thì chúng ta thấy rằng các
phạm trù cơ bản của triết học vẫn giữ được ý nghĩa của chúng suốt nhiều thế kỷ
mặc dù nội dung của chúng có thể biến đổi và trở nên phong phú hơn rất nhiều.
Phép biện chứng duy tâm Hêghen - những giá trị và hạn chế
Trang 13
GVHD: GS. Vũ Văn Gầu
HVTH: Nguyễn Ngọc Tiến
Các tác phẩm triết học lớn đã tồn tại đã vượt qua được sự thẩm định hết sức
nghiêm khắc của các thời đại và cho đến hiện nay vẫn tiếp tục tỏ rõ vai trò của
chúng trong đời sống trí tuệ của nhân loại.
Lịch sử đã chỉ ra cho chúng ta thấy rằng từ trước đến nay các học thuyết
triết học có ảnh hưởng nhất vốn là kết quả của sự sáng tạo cá nhân của những nhà
triết học kiệt xuất bằng cách này hay cách khác ở mức độ này hay mức độ khác
đều được phục hồi ở các thời đại sau đó dù cho điều kiện lịch sử đã có những
thay đổi rất lớn chẳng hạn đó là học thuyết Platôn. học thuyết Arixtốt học thuyết
R.Đêcáctơ học thuyết I.Cantơ học thuyết G.Hêghen.v.v..
Trong nghiên cứu triết học cần hết sức chú ý một điều là không nên đi tìm
hoặc quy ảnh hưởng của một học thuyết triết học nào đó chỉ ở hoặc về một nhóm
các đồ đệ trực tiếp của nó nghĩa là vào một trường phái xác định nào đó. Và điều
này cũng hoàn toàn đúng với học thuyết của Hêghen. Chúng ta không cần phải
mất công sức chứng minh việc triết học Hêghen đã có ảnh hưởng vượt ra khỏi
khuôn khổ của thuyết Hêghen ra sao tức là khuôn khổ của một trường phái đã
thừa nhận các tiền đề xuất phát của hệ thống triết học Hêghen.
Xét một cách thật chặt chẽ thì học thuyết Hêghen hiện nay không phải là
một trào lưu tư tưởng triết học đáng kể. Mặc dù vậy sự quan tâm tới triết học
Hêghen đặc biệt là số lượng các công trình nghiên cứu về triết học không những
không hề giảm bớt mà trái lại còn tăng lên liên tục. Hơn thế nữa có một điều khá
đặc biệt là các nhà nghiên cứu về di sản triết học của Hêghen thường lại không
phải là những người theo trường phái Hêghen. Một điều nổi bật khác ở đây là cả
các nhà duy tâm lẫn các nhà duy vật, cả những người bảo vệ chủ nghĩa duy lý lẫn
những người ủng hộ chủ nghĩa phi duy lý đều tích cực nghiên cứu triết học
Hêghen. Trong số các nhà triết học duy tâm lý giải triết học Hêghen và cố gắng
đồng hoá các tư tưởng của ông thì thậm chí chúng ta lại bắt gặp những người cố
gắng bảo vệ các khuynh hướng triết học hết sức xa lạ với học thuyết Hêghen
chẳng hạn chủ nghĩa hiện sinh. chủ nghĩa nhân cách triết học phân tích thần học
biện chứng.v.v..
Phép biện chứng duy tâm Hêghen - những giá trị và hạn chế
Trang 14
GVHD: GS. Vũ Văn Gầu
HVTH: Nguyễn Ngọc Tiến
Vậy thì điều gì ở trong học thuyết Hêghen đã và đang có sức cuốn hút các
nhà tư tưởng vốn theo đuổi những định hướng triết học rất khác nhau đó đến như
vậy?
Theo chúng tôi đặt vấn đề này ra là cần thiết để nhận thức cho đúng những
nét đặc thù của các trào lưu triết học khác nhau đồng thời cũng là để đánh giá
chính xác hơn ý nghĩa của triết học Hêghen đối với sự phát triển của tư tưởng
triết học nói chung một khi chúng ta tính đến kinh nghiệm lịch sử từ lúc xuất hiện
triết học đó cho đến hôm nay.
Đương nhiên khi xem xét các quan điểm của những nhà triết học nổi tiếng
của các thời đại trước đây tuyệt nhiên chúng ta không được tô vẽ không được
hiện đại hoá các quan điểm đó của họ.
Đồng thời chúng ta cũng không được ca ngợi không được biện hộ một
chiều các quan điềm đã lỗi thời hoặc bị hạn chế bởi nhừng điều kiện lịch sử hoặc
những thiên kiến đương thời. Muốn vậy phải biết phận biệt những gì là giá trị
trong di sản triết học với những sự xuyên tạc hoặc lý giải tuỳ tiện về di sản đó.
Một mặt, khi xem xét di sản của một nhà tư tưởng thì không bỏ qua những hạn
chế lịch sử những khiếm khuyết và sai lầm của nhà tư tưởng đó: những mặt khác
chúng ta cần rút ra và nhấn mạnh những gì trong di sản đó đã vượt qua được thử
thách ngặt nghèo của thời gian đã trở thành một khâu hữu ích trong quá trình phát
triển của tư tưởng triết học.
Làm tốt được điều trên đây đối với triết học Hêghen không phải là dễ
dàng. Bởi vì triết học Hêghen không những quá đồ sộ quá bách khoa quá uyên
bác về nhiều mặt mà còn chứa đựng trong mình nó không ít những mâu thuẫn
những xu hướng khác nhau kể cả các xu hướng bài trừ nhau. Những cái đó một
phần là nguyên cớ một phần cũng là căn cứ cho những cách lý giải hết sức khác
nhau đối với học thuyết Hêghen.
Cho dù có những ý kiến đánh giá khác nhau về triết học Hêghen song
không thể phủ nhận được rằng cái có giá trị nhất và có sức sống mạnh mẽ nhất
trong triết học của ông chính là phép biện chứng mà thực chất đó là học thuyết về
sự phát triển toàn diện với tư cách là sự vận động tiến tới và sự chuyển hoá về
Phép biện chứng duy tâm Hêghen - những giá trị và hạn chế
Trang 15
GVHD: GS. Vũ Văn Gầu
HVTH: Nguyễn Ngọc Tiến
chất, với tư cách là sự đi lên theo thang bậc lôgích có tuần tự về tính chất mâu
thuẫn của sự phát triển bao gồm sự tương tác giữa các mặt đối lập sự phủ định tồn
tại hiện có và đồng thời là sự giữ lại cái tích cực từ quá khứ.
Hệ vấn đề phép biện chứng hiện nay trở nên đặc biệt cấp bách là do tính
chất biện chứng trong sự phát triển của xã hội và của sự nhận thức khoa học hiện
đại ngày càng bộc lộ rõ nét hơn. Những chuyển biến mang tính lịch sử toàn cầu
và vô cùng đa dạng đang diễn ra hết sức mạnh mẽ trong đời sống xã hội trên khắp
hành tinh chúng ta hiện nay. Bên cạnh đó trong sự phát triển của mình khoa học
tự nhiên hiện đại cũng đang vấp phải không ít các vấn đề biện chứng của chính sự
phát triển. Giờ đây sự tiến hoá của giới tự nhiên đang được nghiên cứu ở mọi cấp
độ cấu trúc. Quan điểm biện chứng về sự phát triển đã xâm nhập vào nhận thức
khoa học tự nhiên cả ở mức độ vĩ mô lẫn mức độ vi mô. Nguyên tắc phát triển
thực sự đã trở thành nguyên tắc phổ biến trong nghiên cứu khoa học.
Sự tiến bộ và những thành công tuyệt vời của sinh học mấy năm gần đây
đánh dấu bước ngoặt mới của sự xâm nhập ngày càng sâu hơn vào các bí mật
trong cấu trúc và trong sự phát triển của thế giới vật chất sống. Điều nổi bật nhất
về mặt này chính là ở chỗ sinh học phân tử ngày càng quay trở lại mạnh hơn với
tư tưởng về sự phát triển và sự tự phát triển.
Bí mật của sự tự phát triển của các cơ thể sống đang dần dần được mở ra
qua những thành công của kỹ thuật di truyền của công nghệ sinh học. Cơ sở phân
tử và dưới phân tử của sự phát triển cá thể và của sự tiến hoá nói chung vì vậy
đang thù hút mạnh mẽ trí tuệ của nhiều nhà sinh học và nhiều phòng thí nghiệm
lớn của thế giới hơn bao giờ hết.
Nguyên tắc phát triển đang trở thành nguyên tắc cơ bản của toàn bộ nhận
thức sinh học hiệp đại. Vai trò to lớn của của tư tưởng phát triển đối với sự tiến
bộ của khoa sinh thái học và của thực tiễn sinh thái ngày càng rõ nét hơn và hiển
nhiên hơn. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại đã làm bộc
lộ những mâu thuẫn của sự tiến bộ mà trong quá khứ thường được xem như là sự
làm chủ của con người đối với các lực lượng tự phát của tự nhiên như là sự thống
trị của con người đối với giới tự nhiên. Tiếc rằng trên thực tế sự làm chủ đó sự
Phép biện chứng duy tâm Hêghen - những giá trị và hạn chế
Trang 16
GVHD: GS. Vũ Văn Gầu
HVTH: Nguyễn Ngọc Tiến
thống trị đó không chỉ đem lại toàn những cái hay những điều tốt mà còn gây nên
cả những tổn thất không nhỏ cho chính con người lẫn cho giới tự nhiên một khi
con người không kiểm soát được nó. Đồng thời: việc áp dụng hợp lý các thành
tựu khoa học và công nghệ mới nhằm góp phần bảo vệ giới tự nhiên phát triển
bản thân con người thúc đấy sự phát triển xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa nhân
đạo chỉ có thể thực hiện được một khi đặt chúng trong mối quan hệ biện chứng.
Chính sự biến đổi sự cải tạo môi trường tự nhiên và xã hội một cách hợp lý và
trên cơ sở nhân đạo là chiếc chìa khoá để giải quyết các vấn đề bức bách đang
được đặt ra trước nhân loại.
Rõ ràng là việc vai trò của phép biện chứng tawng lên một cách đặc biệt
không phụ thuộc vào bản thân triết học Hêghen. Tuy nhiên chính học thuyết của
Hêghen là thứ triết học đã biến phép biện chứng thành trung tâm, thành hạt nhân
đích thực của toàn bộ hệ vấn đề triết học. Phép biện chứng được Hêghen lý giải là
phương pháp đúng đắn để nhận thức các vấn đề triết học. Phương pháp tư duy
biện chứng được ống nghiên cứu một cách đầy đủ nhất và có căn cứ vững chắc là
phương pháp chưa từng thấy trong lịch sử triết học trước Mác. Trong triết học
Hêghen phép biện chứng biểu hiện ra là lý luận nhận thức và là hình thức cao
nhất của lôgíc học của tư duy lôgíc. Đồng thời nó cũng chế định một thế giới
quan đặc biệt cần đặt trên niềm tin vào tính tất yếu của sự tiến bộ với tư cách là
kết, quả của sự phát triển hợp quy luật.
Do tính hạn chế của các điều kiện lịch sử và thiên hướng động hoà với trật
tự xã hội phổ hiện tồn thời đó mà Hêghen đã có những kết luận mâu thuẫn và
không nhất quán. Trái với các nguyên tắc xuất phát của mình. Hêghen đã đặt ra
một giới hạn cho sự phát triển của nhân loại kể cả cho sự phát triển của triết học
sau khi tuyên bố rằng học thuyết của mình là sự kết thúc tuyệt đối hoàn thiện của
tư tưởng triết học.
Nhưng ngay cả những điều ấy cũng không làm mất đi ý nghĩa tiến bộ của
các nguyên tắc biện chứng xuất phát của Hêghen. Phù hợp với chúng Hêghen
quan niệm lịch sử toàn cầu là sự tiến bộ trong nhận thức về tự do. Cho dù bản
chất của tự do có được hiểu khác nhau xong việc thừa nhận nó vẫn trở thành một
Phép biện chứng duy tâm Hêghen - những giá trị và hạn chế
Trang 17
GVHD: GS. Vũ Văn Gầu
HVTH: Nguyễn Ngọc Tiến
trong những tiêu chuẩn quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo và về sự công bằng xã
hội. Đó chính là lý do tại sao sự quan tâm của nhiều nhà triết học hiện đại đến
học thuyết Hêghen trở thành sự quan tâm có cơ sở sâu sắc và mang ý nghĩa thiết
thực.
Nhân đây cần phải nhắc đến sự đánh giá của C. Mác đối với phép biện
chứng của Hêghen vì chính C. Mác không những đã chỉ phê phán một cách sâu
sắc phép biện chứng của Hêghen mà còn cải tạo phép biện chứng đó xây dựng
nên phép biện chứng duy vật duy nhất và thực sự khoa học với mẫu mực tuyệt
vời của nó là tác phẩm chủ yếu của ông - bộ "Tư bản". C.Mác viết: "Tính chất
thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hêghen tuyệt nhiên không
ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý
thức những hình thái vận động chung của phép biện chứng ấy ở Hêghen phép
biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được
cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần .
Triết học duy vật biện chứng chính là giải pháp cho nhiệm vụ nghiên cứu
đã được C. Mác đặt ra đó C. Mác và Ph.Ăngghen không gán ghép hay hợp nhất
một cách đơn giản phép biện chứng của Hêghen với chủ nghĩa duy vật trước đó.
trước hết là chủ nghĩa duy vật của L. Phoiơbắc. Trên thực tế các ông đã phải tiến
hành một công việc hết sức phức tạp và đồ sộ là chỉnh lý cải tạo một cách duy vật
đối với phép biện chứng duy tâm của Hêghen: chỉnh lý và cải tạo một cách biện
chứng đối với chủ nghĩa duy vật máy móc và siêu hình.
Trong triết học Mác phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật không phải là
các bộ phận cấu thành riêng biệt tách rời nhau mà chúng chuyến hoá lẫn nhau
xâm nhập vào nhau và tạo thành một chỉnh thế hữu cơ. Chủ nghĩa duy vật trong
hệ thống triết họe mácxít không những là lý luận mà còn là phương pháp nghiên
cứu duy vật. Đồng thời phép biện chứng mác xít không chỉ là phương pháp mà
còn là lý luận hơn thế nữa là lý luận hoàn thiện nhất đầy đủ nhất toàn diện nhất và
không phiến diện nhất về sự phát triển.
Cần phải đặc biệt nhấn mạnh rằng các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác không
bao giờ coi công việc của mình nhằm chỉnh lý và cải tạo một cách duy vật đối
Phép biện chứng duy tâm Hêghen - những giá trị và hạn chế
Trang 18
- Xem thêm -