Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành hậu cần quân đội nhân ...

Tài liệu Phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành hậu cần quân đội nhân dân việt nam hiện nay.

.DOC
185
1481
72

Mô tả:

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Vũ Hồng Hà MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC MỞ ĐẦU TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Chương 1 THỰC CHẤT VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÓ TÍNH QUY LUẬT PHÁT TRIỂN Ý THỨC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA SĨ QUAN TRẺ NGÀNH HẬU CẦN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM 1.1. Thực chất phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam 1.2. Một số vấn đề có tính quy luật phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG PHÁT TRIỂN Ý THỨC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA SĨ QUAN TRẺ NGÀNH HẬU CẦN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Thực trạng phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay 2.2. Một số vấn đề đặt ra trong phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN Ý THỨC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA SĨ QUAN TRẺ NGÀNH HẬU CẦN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Chủ động xây dựng môi trường đạo đức lành mạnh trong các cơ quan, phân đội hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay 3.2. Đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện với tự giáo dục, rèn luyện ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam 3.3. Nâng cao vai trò định hướng giá trị đạo đức, hiệu quả quản lý, kiểm tra hoạt động bảo đảm hậu cần của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Trang 5 10 31 31 56 74 74 99 108 108 119 137 151 154 155 PHỤ LỤC 170 5 MỞ ĐẦU 1. Giới thiệu khái quát về đề tài luận án “Phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” là một công trình khoa học độc lập, được nghiên cứu công phu, không có sự trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố. Công trình đi sâu phân tích, luận giải một cách khoa học về thực chất và một số vấn đề có tính quy luật phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội nhân dân Việt Nam; đồng thời đánh giá đúng thực trạng và làm rõ một số vấn đề đặt ra trong phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành hậu cần. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp cơ bản, đồng bộ và có tính khả thi nhằm phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Những nội dung nghiên cứu quan trọng nêu trên đã cung cấp thêm cơ sở khoa học phục vụ trực tiếp cho quá trình đào tạo, bồi dưỡng nhằm phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. 2. Lý do chọn đề tài luận án Đạo đức cách mạng là cái gốc của người cách mạng, là sức mạnh của Đảng ta, theo đó giáo dục, rèn luyện đạo đức là công việc đầu tiên và cũng là công việc cơ bản, xuyên suốt của sự nghiệp cách mạng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến giáo dục, rèn luyện thế hệ cách mạng cho đời sau, đặc biệt là giáo dục, rèn luyện đạo đức. Ngày nay, xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế với những tác động của nền kinh tế thị trường thì những tư tưởng của Người về rèn luyện, tu dưỡng ý thức đạo đức vô cùng cần thiết đối với thế hệ trẻ, đặc biệt với sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội. 6 Sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung, sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam (sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội) nói riêng là lực lượng đông đảo đang xung kích, đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Họ là nguồn nhân lực quan trọng trong sức mạnh chiến đấu của quân đội ta và lực lượng đang tiếp bước, kế thừa truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng, của quân đội và của ngành Hậu cần quân đội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn 2016 - 2020: “… tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc... ” [44, tr. 219]. Vấn đề phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội hiện nay có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Một mặt nhằm phát triển, hoàn thiện nhân cách của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội; mặt khác, góp phần quan trọng vào nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan - nhân tố quyết định trong sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam. Bởi, ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội là biểu hiện cụ thể ý thức đạo đức cách mạng trong một lĩnh vực hoạt động cụ thể - hoạt động hậu cần quân đội. Trước yêu cầu mới của nhiệm vụ xây dựng quân đội, ngành Hậu cần quân đội cũng từng bước chuyển đổi phương thức bảo đảm hậu cần cho phù hợp với đặc điểm hoạt động của quân đội ở thời kỳ mới. Xuất phát từ yêu cầu cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoàn toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định phương hướng: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu 7 tiên hiện đại hoá một số quân chủng, binh chủng, lực lượng...” [44, tr. 149]. Toàn quân tập trung nâng cao trình độ chính quy trong huấn luyện, quản lý bộ đội, quản lý vũ khí, trang bị kỹ thuật, vật chất hậu cần, nâng cao tính chính quy, thống nhất về trang phục… Những chủ trương trên đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với công tác hậu cần hiện nay. Do vậy, nhiệm vụ công tác hậu cần quân đội rất nặng nề, đòi hỏi đội ngũ cán bộ hậu cần các cấp phải có cả đức và tài, giữ vững bản lĩnh chính trị, không ngừng rèn luyện, phát triển ý thức đạo đức cách mạng. Bởi, hiện nay tồn tại biểu hiện “lệch chuẩn” trong định hướng giá trị ở một số sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội. Điều đó ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công việc, bản chất truyền thống của quân đội nói chung, của ngành Hậu cần quân đội nói riêng. Trước tình hình đó, đặt ra yêu cầu bức thiết cần nghiên cứu lý luận, tạo cơ sở để chỉ đạo thực tiễn hiệu quả nhằm phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội hiện nay. Vì vậy, đề tài: “Phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” mà tác giả lựa chọn làm luận án tiến sĩ triết học là vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu: Luận giải một số vấn đề lý luận, thực tiễn về phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội và đề xuất một số giải pháp cơ bản góp phần phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội hiện nay. * Nhiệm vụ nghiên cứu: - Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án, từ đó xác định những vấn đề mà luận án cần tiếp tục nghiên cứu. 8 - Làm rõ thực chất và một số vấn đề có tính quy luật phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội. - Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội hiện nay, chỉ ra ưu điểm, khuyết điểm và những nguyên nhân của nó. Từ đó, xác định một số vấn đề đặt ra trong phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội hiện nay. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản góp phần phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Bản chất, tính quy luật phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội hiện nay. * Phạm vi nghiên cứu: ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội hiện nay, những sĩ quan sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đổi mới đất nước (có tuổi đời dưới 30 tuổi, quân hàm cấp uý), bao gồm: trợ lý hậu cần tiểu đoàn và trợ lý hậu cần ban quân nhu, doanh trại, quân y, vận tải, xăng dầu của các trung đoàn thuộc các sư đoàn bộ binh chủ lực đủ quân với số liệu điều tra, khảo sát thực tế từ năm 2010 đến nay. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước, Quân đội nhân dân Việt Nam về đạo đức cách mạng và giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng; các lý thuyết liên ngành có liên quan đến đề tài luận án. * Cơ sở thực tiễn: Tình hình thế giới, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội, hoạt động bảo đảm hậu cần trong quân đội; các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần về đạo đức, đạo đức cách mạng của sĩ quan nói chung và sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội nói riêng; các tư liệu tổng kết, 9 số liệu thống kê của cơ quan chức năng, đơn vị và kết quả điều tra xã hội học, khảo sát thực tế của tác giả ở một số đơn vị phía Bắc. * Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng hợp; lịch sử và lôgic; khái quát hoá và trừu tượng hoá; phương pháp điều tra xã hội học…để hoàn thành mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án. 6. Những đóng góp mới của luận án - Làm rõ thực chất phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội. - Chỉ ra một số vấn đề có tính quy luật tính quy luật phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội. - Đánh giá đúng thực trạng, xác định một số vấn đề đặt ra và đề xuất một số giải pháp cơ bản phát triển ý thức đạo đức cách mạng sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án * Ý nghĩa lý luận: Luận án cung cấp một số vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận trong phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội hiện nay góp phần vào phát triển và hoàn thiện nhân cách của họ đáp ứng với thực tiễn nâng cao chất lượng toàn diện của nhân tố con người trong sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. * Ý nghĩa thực tiễn: Luận án góp phần cung cấp một số luận cứ khoa học trong việc hoạch định chủ trương, giải pháp giáo dục ý thức đạo đức cách mạng cho sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội. Luận án có thể sử dụng làm tài liệu giảng dạy, nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung và sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội nói riêng. 8. Kết cấu của luận án 10 Ngoài mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, kết luận, danh mục các công trình khoa học của tác giả đã công bố, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án gồm 3 chương (7 tiết). TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1. Nhóm các công trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến vấn đề đạo đức Liên quan đến vấn đề này, có nhiều công trình khoa học của các tác giả trong và ngoài nước tiếp cận, phân tích ở các góc độ, khía cạnh khác nhau như: khái niệm đạo đức, đạo đức học, nhân cách, giáo dục đạo đức, đạo đức trong kinh tế thị trường, sự biến đổi của thang giá trị đạo đức... Mỗi công trình đều đạt được những giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Ở nước ngoài, các nhà khoa học trên thế giới tập trung khai thác trên nhiều khía cạnh, song cống hiến nổi bật của họ là về phương pháp tiếp cận và những giá trị lý luận khoa học hết sức quý báu. Những thành tựu quan trọng đó ngày nay vẫn là cơ sở khoa học để chúng ta tiếp cận và tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển, cụ thể: Tác giả Đ.A.Vôncôgônốp với công trình:“Thế nào là quân nhân có đạo đức” [165] giới thiệu những khái niệm cơ bản về đạo đức học Mác - Lênin, giải thích rõ nội dung đạo đức của quân nhân, những khía cạnh biểu hiện của nó và các quy tắc đạo đức của chiến sĩ quân đội Xô viết như: lòng yêu nước, ý thức công dân, trách nhiệm đạo đức, lương tâm và danh dự, nghĩa vụ quân nhân, chủ nghĩa anh hùng, ý thức kỷ luật. Bằng việc vận dụng các kiến thức tổng hợp và đối chiếu với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, căn cứ những yêu cầu về phẩm chất của một quân nhân cách mạng trong điều kiện chiến tranh hiện đại để phân tích, đánh giá, lý giải làm rõ cái gì phù hợp, cái gì không phù hợp với đạo đức cộng sản chủ nghĩa, đồng thời tác giả cũng chỉ rõ phương pháp 11 rèn luyện để được những quy tắc đạo đức cao đẹp của người quân nhân cách mạng. Tác giả khẳng định rằng: "Hoạt động quân sự đặt ra yêu cầu rất cao đối với phẩm chất đạo đức của các thành viên trong các lực lượng vũ trang. Trong quá trình phục vụ trong quân đội, trong chiến đấu và đôi khi trong cả thời bình, có thể xảy ra tình huống trong đó, để làm tròn nhiệm vụ, người chiến sĩ, người chỉ huy phải sẵn sàng hy sinh đời mình" [165, tr. 7] và trong môi trường quân đội, mọi người theo dõi hết sức chặt chẽ việc chấp hành các quy tắc đạo đức, các luật lệ, trật tự, yêu cầu của danh dự quân nhân đã được xác lập trong xã hội. Quân nhân vi phạm quy tắc đạo đức bao giờ cũng bị dư luận xã hội phê phán đặc biệt nghiêm khắc. Tác giả Brandzeladzet với công trình: "Đạo đức học: Thử trình bày một hệ thống đạo đức mácxít” [11], công trình này đã làm sáng rõ nhiều hiện tượng đạo đức và vai trò của đạo đức. Tác giả đã luận giải một cách sâu sắc mối quan hệ giữa đạo đức với tính cách của con người. Khi nghiên cứu về con người, các nhà triết học, tâm lý học Xô viết thường đề cao vai trò của các yếu tố xã hội, của môi trường giáo dục, nhất là giáo dục đạo đức, giáo dục cộng sản chủ nghĩa đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. Đạo đức với tính cách của con người tác động biện chứng với nhau, quy định lẫn nhau. Sự tương tác đó phụ thuộc nhiều yếu tố giáo dục, xã hội là rất quan trọng để hình thành nhân cách. Tác giả L.M.Ackhanhenxki (chủ biên) với công trình: "Chủ nghĩa xã hội và nhân cách" [1]. Công trình khoa học này luận giải khá toàn diện sự hình thành, phát triển của nhân cách về mặt đạo đức trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo các tác giả, yếu tố xã hội giữ vai trò quyết định đối với sự hình thành, phát triển của nhân cách, trong đó đạo đức cá nhân được xem là hạt nhân, là chuẩn mực của sự phát triển nhân cách, biểu hiện mối quan hệ bên trong của con người đối với các giá trị xã hội. Đặc biệt, các tác giả đã đưa ra quan 12 niệm về giá trị, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức. Các tác giả cũng chỉ ra vị trí, vai trò của các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức đối với sự phát triển và hoàn thiện nhân cách: "Lý tưởng đạo đức, các nguyên tắc và chuẩn mực định hướng cho ý thức đạo đức và quy định khuynh hướng phát triển của nhân cách" [1, tr. 24]. Tác giả A.Skrulnich trong công trình: “Phong cách sống tích cực, mục đích và phương tiện giáo dục đạo đức” [113] đã xác định rõ mục đích, yêu cầu và phương pháp của giáo dục đạo đức cộng sản. Theo tác giả: mục đích của giáo dục đạo đức là xây dựng phong cách sống tích cực, do đó nội dung, bản chất của nó là tạo cho con người, chiến sĩ những phẩm chất đạo đức cao đẹp, thái độ trung thực đối với việc thực hiện chức trách của mình. Vì vậy, trên quan điểm đạo đức của mỗi người chỉ huy phải nhìn thấy trong mỗi cấp dưới của mình con người với những ưu điểm và thiếu sót, những mặt mạnh và yếu dựa vào đó tạo ra một không khí đạo đức cần thiết trong tập thể. Trong cơ cấu giáo dục đạo đức cần phân biệt rõ hai mặt: thứ nhất là việc nắm hiểu các nguyên tắc đạo đức cộng sản; thứ hai là trên cơ sở đó xây dựng nên phong cách sống tích cực [113, tr. 4]. 13 Tác giả WuCanXin với công trình: “Sự hình thành, củng cố và phát triển đạo đức” [166]. Từ việc nghiên cứu làm rõ vị trí, vai trò quan trọng của đạo đức cộng sản trong xã hội Trung Quốc, tác giả đã chỉ ra rằng, để đạo đức của xã hội, đạo đức của cán bộ, công chức trong xã hội thường xuyên được củng cố, phát triển cần có sự tác động và thực hiện của nhiều yếu tố, trong đó coi trọng việc tu dưỡng đạo đức. Tác giả khẳng định: tu dưỡng đạo đức bao gồm năm mặt: tu dưỡng về nhận thức, tu dưỡng về tình cảm đạo đức, tu dưỡng về ý chí đạo đức, tu dưỡng về tập quán đạo đức, tu dưỡng về niềm tin đạo đức. Trong đó, tu dưỡng về nhận thức đạo đức là một quá trình tự giáo dục, tự học tập, thông qua khâu này để nâng cao năng lực lựa chọn và năng lực nhận thức, phân biệt cái thiện với cái ác của hành vi đạo đức. Tác giả đã phân tích sâu sắc quá trình hình thành, củng cố, phát triển đạo đức, đặc biệt nhấn mạnh yếu tố quan trọng là tu dưỡng đạo đức và làm rõ nhiều khía cạnh liên quan. Bàn về việc tu dường đạo đức, tác giả La Quốc Kiệt (chủ biên) với công trình: “Tu dưỡng đạo đức tư tưởng” [70]. Công trình này nêu khái quát các nội dung cần thiết để giáo dục đạo đức cho thanh niên như: sứ mệnh lịch sử của thanh niên, mục tiêu lý tưởng vì sự nghiệp hiện đại hoá xã hội; định hướng cho thanh niên giải quyết đúng đắn quan hệ tình bạn, tình yêu; phân tích những phẩm chất mà sinh viên cần rèn luyện như: hiếu kính cha mẹ, cần lao tiết kiệm, đoàn kết hoà mục, lập chí cần cù học tập, khiêm tốn, kỷ luật với mình, khoan dung với người, giữ chữ tín, công bằng vô tư. Công trình làm rõ sự phát triển của trình độ đạo đức tư tưởng của cá thể là sự thống nhất tri hành, ý hành, tức là tri thức tình cảm, ý chí hành động. Cho đến nay, công trình này có nhiều giá trị trong việc nghiên cứu về đạo đức cho thanh niên Việt Nam nói chung và sĩ quan trẻ trong quân đội nói riêng. 14 Ở trong nước, vấn đề lý luận và thực tiễn đạo đức con người Việt Nam đã được các nhà khoa học đề cập đến ở nhiều góc độ khác nhau, tiêu biểu như một số công trình sau: Tác giả Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên) với công trình : “Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay” [98] các tác giả đã nghiên cứu, đúc kết và rút ra một số biểu hiện chung của sự biến động giá trị đạo đức [98, tr. 72]. Quá trình phân tích, các tác giả đưa ra hai nhóm mâu thuẫn lớn trong quan niệm về chuẩn mực và thang giá trị đạo đức: một là, mâu thuẫn giữa ý thức đạo đức và hiện thực đạo đức (như lời nói không đi đôi với việc làm, nói một đằng, làm một nẻo, ý thức lạc hậu so với thực tiễn, không có tính định hướng giá trị phù hợp với hiện thực); hai là, mâu thuẫn giữa đạo đức truyền thống và đạo đức mới, giữa lý trí và tình cảm đạo đức [98, tr. 72]. Đồng thời cũng chỉ ra sáu nguyên nhân chủ yếu đưa tới sự chuyển đổi giá trị và chuẩn mực đạo đức xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong sáu nguyên nhân ấy, đáng chú ý là nguyên nhân thứ tư, đó là, do ảnh hưởng của tư tưởng coi trọng lợi ích vật chất trực tiếp của cá nhân hơn nghĩa vụ và trách nhiệm đối với tập thể, với quốc gia, từ đó xuất hiện khuynh hướng coi nhẹ giáo dục đạo đức truyền thống, coi nhẹ giáo dục và xây dựng đạo đức mới xã hội chủ nghĩa, vai trò làm gương đạo đức bị giảm sút nghiêm trọng [98, tr. 81 - 87]. Ban Tuyên giáo Trung ương với công trình: “Suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và công cuộc phòng, chống” [10] bàn đến giải pháp phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, đồng thời tác giả khẳng định: tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là nền tảng và động lực tinh thần để phát triển xã hội. Tuy nhiên, trong thời kỳ đổi mới hiện nay, do những nguyên nhân cả về khách quan và chủ quan, sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang có diễn biến 15 phức tạp. Các tác giả tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, tình hình suy thoái và công tác phòng, chống suy thoái trong lĩnh vực này, đề ra các giải pháp và điều kiện phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay. Tác giả Huỳnh Khái Vinh với công trình: "Xây dựng lối sống, đạo đức và chuẩn mực giá trị xã hội mới trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" [164], nghiên cứu toàn diện, hệ thống những vấn đề lý luận về lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội, phân tích sự tác động của các nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội và xu hướng chuyển đổi lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội; từ đó nêu phương hướng, quan điểm chỉ đạo và giải pháp xây dựng lối sống, đạo đức và chuẩn mực giá trị xã hội mới trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tác giả Lê Thị Thuỷ với công trình: "Vai trò của đạo đức đối với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay" [127]. Trong công trình này tác giả đã góp phần làm sáng tỏ mối liên hệ nội tại giữa đạo đức và nhân cách cơ sở khoa học để luận giải vai trò của đạo đức đối với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam trong điều kiện đổi mới đất nước. Việc khai thác vai trò của đạo đức như một yếu tố đối với hệ thống trong cấu trúc nhân cách đức - tài và sự vận dụng tri thức liên ngành triết học, xã hội học, tâm lý học, xã hội học... để xem xét quan hệ giữa đạo đức và nhân cách cũng là đóng góp một cho hướng nghiên cứu cũng như lý luận về giáo dục đạo đức, nhân cách con người, có ý nghĩa thực tiễn ở Việt Nam hiện nay. Tác giả đề xuất các giải pháp nâng cao vai trò của đạo đức trong việc tạo dựng nhân cách phát triển hài hoà và toàn diện cho con người Việt Nam nói chung và thế hệ trẻ nói riêng. 16 Tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (Đồng chủ biên) với công trình: “Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” [26], đề cập đến những ảnh hưởng của kinh tế thị trường đối với sự phát triển xã hội nói chung, đạo đức xã hội nói riêng; về vai trò của đạo đức nói chung và đạo đức gia đình nói riêng; vấn đề giáo dục và xây dựng đạo đức nghề nghiệp,... đồng thời đề xuất các biện pháp để hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đối với đời sống tinh thần xã hội, trong đó có lĩnh vực đạo đức. Mặc dù vẫn còn có những ý kiến khác nhau, nhưng nhìn chung, các tham luận khoa học đều khẳng định: sự chuyển đổi của nền kinh tế tác động và làm biến đổi mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn khẳng định: "Tất cả những biến động trong lĩnh vực đạo đức ở các mức độ khác nhau đều liên quan tới sự biến động trong nền kinh tế xã hội thời kỳ chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa..." [26, tr. 19]. Các tác giả đã chỉ ra cơ chế tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức, xu hướng vận động và biến đổi của đạo đức trong điều kiện hiện nay; lý giải vai trò của đạo đức với tư cách là động lực tinh thần của sự phát triển kinh tế - xã hội; khẳng định yêu cầu đẩy mạnh công tác giáo dục, xây dựng nền đạo đức mới thích ứng với kinh tế thị trường. Công trình đã phản ánh “trước những hiện tượng “trượt dốc đạo đức”, “đánh mất giá trị” do mặt trái của cơ chế thị trường gây nên, nhiều người lại tỏ ra nghi ngờ vai trò của đạo đức” [26, tr. 253]. Từ việc nghi ngờ vai trò của đạo đức dẫn đến việc coi nhẹ giáo dục đạo đức, đó là nguyên nhân dẫn đến những khủng hoảng trong đạo đức xã hội. Do đó, công tác giáo dục đạo đức cần được tăng cường nhằm góp phần tích cực vào quá trình đổi mới. Bên cạnh đó, bài viết của tác giả Vũ Văn Viên đã phân tích vấn đề định hướng và mội số nội dung cơ bản của giáo dục đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là “Vấn đề giáo dục đạo đức trong điều kiện kinh tế thị 17 trường” [26, tr. 273]. Tác giả quan niệm giáo dục đạo đức nhằm xây dựng một nền đạo đức mới, phù hợp, phát huy thế mạnh và khắc phục được những hạn chế của nền kinh tế thị trường. Đồng thời, giáo dục đạo đức phải đề cao việc đấu tranh chống lại các tư tưởng, đạo đức, lối sống phản tiến bộ… từ bên ngoài du nhập vào do mở rộng hội nhập quốc tế [26, tr. 280 - 281]. Do đó, tác giả khẳng định xã hội nào cũng cần phải có giáo dục đạo đức, song trong nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc giáo dục đạo đức mới, tiên tiến là một công việc khó khăn hơn nhiều, đòi hỏi công sức của cả cộng đồng và dân tộc. Tác giả Nguyễn Duy Quý (chủ biên) với công trình: “Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - Vấn đề và giải pháp” [112] đã trình bày sâu sắc đạo đức xã hội và thực trạng đời sống đạo đức xã hội ở nước ta kể từ khi chuyển đổi nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Công trình đã phân tích đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là nguyên nhân của những biến đổi đạo đức xã hội ở nước ta trong những năm qua. Trên cơ sở phân tích, đánh giá sự biến đổi của các giá trị đạo đức ở nước ta, các tác giả khẳng định: "Bên cạnh những biến đổi tích cực về đạo đức, trong xã hội ta từ nhiều năm nay cũng đã và đang diễn ra nhiều biểu hiện suy thoái trong lĩnh vực rất quan trong này của đời sống tinh thần" [112, tr. 113 - 114]. Đặc biệt, các tác giả đã phân tích và chỉ ra những biểu hiện cụ thể của sự biến đổi và sự suy thoái đạo đức xã hội ở nước ta trong tất cả các lĩnh vực như: lao động, giao tiếp và lối sống; gia đình và trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, thanh niên,... Một trong những nguyên nhân cơ bản của những hiện tượng tiêu cực và biến dạng lệch lạc trong đời sống đạo đức xã hội ở nước ta những năm qua là do chúng ta chưa có một chiến lược giáo dục tương xứng với tầm vóc công cuộc đổi mới; định hướng giá trị và hình thành những chuẩn mực giá trị, xác định các giá trị và giáo dục giá trị đạo đức chưa được quan tâm đúng mức. Giáo dục đạo đức còn mang tính giáo điều và hình thức, trên thực tế, nó đang lạc hậu và bất cập chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn,… 18 Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn Quân sự Bộ Quốc phòng xuất bản công trình:“Chuẩn mực đạo đức con người Việt Nam hiện nay” [153], đã tập trung khái quát các vấn đề về bản chất của đạo đức, quan niệm về chuẩn mực đạo đức theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả đã phân tích, luận giải về các chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam cả trong quá khứ và hiện tại. Từ quan niệm: chuẩn mực đạo đức hình thành, phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của đời sống xã hội qua các thời kỳ lịch sử, luôn in đậm dấu ấn của những điều kiện kinh tế - xã hội đã luận giải về những tác động tích cực và tiêu cực của biến đổi kinh tế - xã hội thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam, đồng thời khái quát những chuẩn mực đạo đức chủ yếu của con người Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay. Mặc dù không bàn về ý thức đạo đức một cách hệ thống, nhưng các tác giả cuốn sách đã phân tích rất sâu sắc các giá trị chuẩn mực đạo đức truyền thống của con người Việt Nam trong thời kỳ phong kiến, thời kỳ đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc, thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tác giả Diệp Minh Giang với công trình: “Xây dựng đạo đức của thanh niên Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hôi chủ nghĩa” [56]. Dưới góc độ triết học, tác giả đã luận giải khá sâu sắc mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và xây dựng đạo đức của thanh niên Việt Nam hiện nay. Tác giả cho rằng, kinh tế thị trường với những đặc trưng riêng của nó đã và đang tác động mạnh mẽ đến đạo đức xã hội cả tích cực và tiêu cực, trong đó tác động tích cực là chủ yếu. Tuy nhiên, m ục đích của luận án là làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đạo đức, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự tác động qua lại giữa hai lĩnh vực này, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và những giải pháp xây dựng đạo đức của thanh niên Việt Nam trong phát triển kinh tế thị trường định 19 hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, vấn đề ý thức đạo đức nói chung và ý thức đạo đức cách mạng nói riêng được tác giả bước đầu phân tích làm rõ. Tiếp cận dưới góc độ triết học, tác giả Lê Thị Tuyết Ba với công trình:“Ý thức đạo đức trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” [7], Tác giả Võ Minh Tuấn: “Ý thức đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay” [150], đều luận giải sự biến đổi của ý thức đạo đức trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Theo các tác giả, sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm đời sống xã hội nói chung, đời sống tinh thần của xã hội nói riêng có sự biến đổi sâu sắc. Trong lĩnh vực đạo đức, ý thức đạo đức cũng có sự biến đổi theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực. Các tác giả đã phân tích và đánh giá cụ thể, sâu sắc sự biến đổi theo chiều hướng tích cực và tiêu cực của ý thức đạo đức trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Để xây dựng ý thức đạo đức cần phải hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với tính cách là cơ sở kinh tế của ý thức đạo đức; tăng cường vài trò của pháp luật; đẩy mạnh giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đây là vấn đề cần được nhìn nhận nghiêm túc và có sự quan tâm đặc biệt cùng với quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay [7, tr. 214]. Như vậy, vấn đề giáo dục đạo đức được tác giả bàn luận đến như một giải pháp nhằm xây dựng ý thức đạo đức nhưng chủ yếu tiếp cận sự biến đổi của đạo đức ở phương diện ý thức. Do vậy, công trình đã đánh giá một số sự biến đổi phức tạp của đạo đức cũng như sự tác động, ảnh hưởng của nó tới đời sống tinh thần của xã hội nói chung và các nhóm xã hội nói riêng. Từ chỗ đi sâu tìm hiểu, phân tích thực trạng tác động của cơ chế thị trường đến đời sống đạo đức ở nước ta hiện nay, cũng như sự khó khăn, phức 20 tạp trong quá trình xây dựng, phát triển nền đạo đức mới - đạo đức cách mạng, các tác giả, các nhà khoa học đều đi đến nhận định chung: một là, sự biến đổi của hệ thống giá trị, thang giá trị đạo đức ở nước ta hiện nay là một tất yếu; hai là, việc giáo dục, định hướng giá trị đạo đức là cần thiết và cấp bách trong xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện nay. Những công trình trên đã chỉ ra quan niệm chung nhất về đạo đức mới, nội dung đạo đức của con người mới trong các lĩnh vực. Phân tích làm rõ nguồn gốc, đặc điểm và biểu hiện tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước, những phẩm chất đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới. Đồng thời, các công trình phân tích, luận giải mối quan hệ giữa đạo đức với kinh tế, sự tác động “hai mặt” của kinh tế thị trường đối với đạo đức xã hội. Từ đó, các công trình khẳng định sự cần thiết của việc giáo dục đạo đức, lối sống của con người Việt Nam, đề xuất những giải pháp cơ bản, nhằm nâng cao đạo đức cách mạng và phát triển ý thức đạo đức ở mỗi người dân Việt Nam nói chung và thế hệ trẻ nói riêng. 2. Nhóm các công trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu liên quan đến đạo đức cách mạng của cán bộ quân đội và sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam * Nhóm các công trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu về đạo đức cách mạng của cán bộ Quân đội Ở nước ngoài, có các công trình của tác giả V. F. Sutskin: “Đạo đức cách mạng đã được hình thành như thế nào” [115]; tác giả A.X. Milôvidốp: “Đạo đức Cộng sản chủ nghĩa và nghĩa vụ của quân nhân” [85]. Các tác giả đã đi sâu về mục tiêu, phương pháp giáo dục đạo đức. “Mục tiêu giáo dục đạo đức là nhằm xây dựng một quan điểm sống tích cực, xây dựng một thái độ tự giác đối với nghĩa vụ xã hội, khi thống nhất giữa lời nói và việc làm trở 21 thành tiêu chuẩn trong cuộc sống hàng ngày” [85, tr. 3]. Tác giả cho rằng giá trị đạo đức của việc hoàn thành nghĩa vụ của quân nhân nhất thiết phải gồm ba thành phần: 1/biểu hiện bên ngoài của hành động, 2/bản chất bên trong của hành động, 3/mối quan hệ lẫn nhau giữa trong và ngoài bản chất và mức độ phù hợp giữa chúng. Chỉ khi nào sự hoàn hảo bên ngoài mang vẻ đẹp chân chính thì lúc đó chính bản thân của hành động mới nằm trong mối quan hệ hài hoà với những yêu cầu cao trong nghĩa vụ của người quân nhân. Phương pháp giáo dục đạo đức: giáo dục thuyết phục, phương pháp cưỡng bách, giáo dục sự thật "Đấu tranh thẳng thắn, chân thành, cởi mở, lập trường nguyên tắc và lập trường của Đảng là cần thiết trong tập thể bộ đội Xô viết". Giáo dục bằng gương sáng cá nhân "Người chỉ huy cần phải là tấm gương cho cấp dưới trong việc chấp hành nghiêm chỉnh các tiêu chuẩn đạo đức và thẩm mỹ của hành vi, hoàn thành tốt nhất các yêu cầu của pháp luật xô viết, của lời thề quân nhân, điều lệnh quân đội và nghĩa vụ phục vụ của mình ". Các tác giả phân tích, xác định rõ mục tiêu, phương pháp giáo dục đạo đức cộng sản, từ đó chỉ ra nhiệm vụ của mỗi quân nhân là đóng vai trò quan trọng. Ở trong nước, liên quan đến vấn đề nghiên cứu, về lĩnh vực đạo đức cách mạng và phát triển đạo đức cách mạng cho quân nhân Quân đội nhân dân Việt Nam, nhiều tác giả và nhà khoa học trong quân đội tập trung khai thác ở nhiều đối tượng và góc độ khác nhau, tiêu biểu: Tác giả Nguyễn Tiến Bình với công trình: “Tự giác hoá quá trình hình thành phát triển đạo đức cộng sản trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [12], nghiên cứu một cách cơ bản, có nhiều giá trị về tự giác hoá quá trình hình thành, phát triển đạo đức cộng sản. Trên cơ sở đó, tác giả đi đến kết luận: “Quá trình đó đặt ra những yêu cầu ngày càng cao cho toàn bộ hệ thống giáo dục và huấn luyện bộ đội, cho toàn bộ các hoạt động có tác dụng giáo dục, xây dựng những phẩm chất đạo đức cộng sản ở quân nhân và sự nỗ lực
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan