Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát triển nông nghiệp bền vững ở hải dương...

Tài liệu Phát triển nông nghiệp bền vững ở hải dương

.PDF
118
386
88

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ =====***===== ph¹m thÞ thanh thñy PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG Ở HẢI DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ =====***===== ph¹m thÞ thanh thñy PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG Ở HẢI DƯƠNG Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Kinh tÕ ChÝnh trÞ M· sè: 60 31 01 HÀ NỘI - 2012 2 MỤC LỤC Trang Mở đầu Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển bền vững và phát triển nông nghiệp bền vững 1.1. Khái quát chung về phát triển bền vững và phát triển nông nghiệp bền vững 1.2. Đặc trưng và tiêu chí của nền nông nghiệp phát triển bền vững Chương 2: Thực trạng phát triển nông nghiệp theo hƣớng bền vững ở Hải Dƣơng 2.1. Vị trí, tiềm năng và thế mạnh có liên quan đến phát triển nông nghiệp bền vững ở Hải Dương 2.2 Những thành công trong phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở Hải Dương trong thời gian qua 2.3 Một số vấn đề đang đặt ra Chương 3: Quan điểm và giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững ở Hải Dƣơng 3.1 Những quan điểm và định hướng phát triển nông nghiệp bền vững ở tỉnh Hải Dương 3.2. Một số giải pháp nhằm phát triển nông nghiệp bền vững ở tỉnh Hải Dương Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo 5 DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU I. Danh mục bảng Stt Tên bảng 1. Bảng 2.1. Dự báo dân số và nguồn nhân lực 2 Bảng 2.2. Đầu tư cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn 3 Bảng 2.3. Tình hình sau khi giao đất cho hộ nông dân 4. Bảng 2.4. Tổng hợp diện tích, sản lượng, năng xuất, giá trị sản Trang xuất cây lương thực 5. Bảng 2.5. Biến động ngành nghề do tác động của các dự án đầu tư 6. Bảng 2.6. Chỉ tiêu GDP bình quân đầu người của cả nước và các tỉnh đồng bằng sông hồng 7. Bảng 3.1. Bố trí sử dụng đất nông nghiệp giai đoạn 2011 2020 II. Danh mục biểu đồ Stt Tên biểu đồ 1. Biểu đồ 2.1. Một số chỉ tiêu so sánh giữa tỉnh Hải Dương với vùng đồng bằng Sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ trong mối quan hệ với cả nước 2. Biểu đồ 2.2. Cơ cấu giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản (2006 - 2010) 3. Biểu đồ 2.3. Cơ cấu GDP phân theo khu vực kinh tế 4. Biểu đồ 2.4. Diện tích, sản lượng, giá trị sản xuất ngành nuôi 6 Trang trồng thuỷ sản (2006 - 2010) 5. Biểu đồ 2.5. Dân số và phân theo dân số nông thôn, thành thị, lao động 6. Biểu đồ 2.6. Bình quân lương thực đầu người (kg/người) 7. Biểu đồ 2.7. Một số nguyên nhân làm nảy sinh tư tưởng dẫn đến tình hình phức tạp ở cơ sở 8. Biểu đồ 2.8. Cơ cấu vốn đầu tư xã hội 7 CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN BCH: Ban chấp hành CNH, HĐH: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá GTSX: Giá trị sản xuất HTCT: Hệ thống chính trị HTX: Hợp tác xã KHCN: Khoa học công nghệ LLXS: Lực lƣợng sản xuất MTTQ: Mặt trận Tổ quốc QHSX: Quan hệ sản xuất UBND: Uỷ ban Nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phát triển nông nghiệp là vấn đề muôn thuở bởi sản xuất nông nghiệp là ngành sản xuất khởi đầu của quá trình sản xuất vật chất của xã hội loài người. Tuy nhiên, ngành nông nghiệp có đặc điểm phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên nên với nền sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu, tính chất bấp bênh của sản xuất nông nghiệp thể hiện rất rõ: năm mưa thuận gió hoà, thời tiết thuận lợi, dịch bệnh ít thì được mùa cả trồng trọt và chăn nuôi; ngược lại có năm thiên tai dịch bệnh, mất mùa thê thảm. Vậy nên, cho tới nay vấn đề phát triển nông nghiệp bền vững được đề cập tới như một trong những vấn đề vừa rất cơ bản vừa bức thiết có ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình kinh tế xã hội của đất nước. Phát triển nông nghiệp bền vững có thể nhìn nhận ở qui mô toàn quốc và qui mô địa phương như một vùng, một tỉnh. Cũng như nhiều địa phương trên tất cả các vùng miền đất nước, ở tỉnh Hải Dương trong nhiều năm qua sản xuất nông nghiệp đã phát triển với những bước tiến ngoạn mục nhưng nếu xem xét góc độ phát triển bền vững thì đang có những vấn đề bức xúc đặt ra. Đó là, năng suất lao động đưa tới tăng trưởng về nông nghiệp so với các ngành kinh tế khác rõ ràng là rất thấp trong khi các yếu tố đầu vào của sản xuất nông nghiệp như thủy lợi, phân bón, thuốc trừ sâu có xu hướng ngày càng tăng giá, còn đầu ra của các sản phẩm lại quá bấp bênh: được mùa thì mất giá, được giá thì mất mùa. Đó là sản xuất nông nghiệp có ảnh hưởng đến môi trường sinh thái trong khi an ninh xã hội ở cả vùng nông thôn rộng lớn vẫn đang xuất hiện nhiều việc nổi cộm. Giải quyết được những vấn đề đang đặt ra bức thiết như thế là rất khó khăn phức tạp bởi nó liên quan đến hệ thống các lĩnh vực trong đó trực tiếp là phát triển nông nghiệp bền vững. Vậy nên tác giả đã lựa chọn vấn đề “Phát 9 triển nông nghiệp bền vững ở Hải Dương” làm đề tài luận văn Thạc sỹ của mình với mục đích góp phần vào nhiệm vụ lớn lao đó. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nên được Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành, địa phương rất quan tâm, nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu. Có thể nêu một số văn bản, công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài như: 2.1. Về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách Nhà nước. Trong những năm qua vấn đề phát triển bền vững nói chung, phát triển nông nghiệp bền vững nói riêng đã trở thành quan điểm của Đảng và đường lối chính sách của Nhà nước và được khẳng định trong nhiều Nghị quyết của các Đại hội của Đảng . Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X là: “ Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn vẫn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng...”. Tại đại hội XI của Đảng, 5 quan điểm phát triển đã được đề cập tới, trong đó, quan điểm đầu tiên là: “ phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt” đối với tất cả các ngành sản xuất. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, trang 21 - Nghị quyết Trung ương 7 khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. - Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam) của Chính phủ. - Chương trình phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2006 - 2010; chương trình phát triển giống cây trồng giai đoạn 2000 2010; chương trình phát triển rau hoa quả giai đoạn 1999 - 2010; các chương trình giảm thiểu ô nhiễm môi trường; kế hoạch thuỷ lợi hợp lý nhằm phát triển bền vững của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.v.v.. Những văn kiện trên đã cung cấp những phương hướng, định hướng, chủ 10 trương, chính sách lớn cho phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam nói chung. 2.2. Về các công trình nghiên cứu Chung quanh chủ đề phát triển nông nghiệp bền vững có những công trình khoa học đề cập ở những khía cạnh khác nhau. Có một số công trình khoa học tiêu biểu như: - Đề tài “Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam”, Vũ Văn Nâm, luận văn Thạc sỹ kinh tế. Đây là đề tài đã nêu khái quát về phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam nói chung, chưa đề cập sâu tới các vùng, miền và địa phương cụ thể, - Đề tài “Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đặng Thị Tố Tâm. Đây là công trình nghiên cứu sâu về phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn, sản xuất hàng hoá. - Đỗ Đức Quân (2009), Đề tài khoa học cấp bộ, Phát triển bền vững đồng bằng Bắc bộ trong quá trình phát triển, xây dựng các khu công nghiệp, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài đã đề cập đến phát triển bền vững nói chung ở vùng đồng bằng Bắc bộ, chưa nêu cụ thể về phát triển nông nghiệp bền vững. - Cuốn CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam, con đường và bước đi” Đề tài KX-02-07 do GS.TS Nguyễn Kế Tuấn làm chủ nhiệm. Đây là công trình đề cập chủ yếu đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở nước ta thời gian qua; đề xuất phương hướng thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời gian tới. Tuy nhiên công trình mới chỉ đề cập đến khía cạnh phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững trong quá trinh công nghiệp hóa, chưa đi sâu nghiên cứu về phát triển nông nghiệp bền vững. - Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (2003), do PGS. TS 11 Nguyễn Sinh Cúc chủ biên, Nxb Thống kê. Công trình này đã khái quát một cách tổng quan quá trình đổi mới, phát triển nông nghiệp, nông thôn từ 1986 đến năm 2002; đặt ra một số vấn đề cần quan tâm trong phát triển nông nghiệp, nông thôn thời gian tới. - Nông nghiệp Việt Nam trong phát triển bền vững, Nxb Chính trị quốc gia (2004), do TS Nguyễn Từ chủ biên. Đây là cuốn sách với nhiều bài viết có giá trị bàn về vị trí và vai trò của ngành nông nghiệp trong sự phát triển kinh tế bền vững chung của đất nước. Ngoài ra còn có rất nhiều công trình nghiên cứu nhưng chỉ ở dạng những bài báo đăng trên các báo, tạp chí, những báo cáo trong các hội thảo khoa học. Các công trình khoa học nêu trên mặc dù có đề cập đến phát triển nông nghiệp bền vững ở các góc độ khác nhau nhưng đều nói về phát triển nông nghiệp hoặc phát triển nông nghiệp bền vững nói chung, ít nghiên cứu về một vùng miền cụ thể, đặc biệt chưa có công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu cụ thể về phát triển nông nghiệp bền vững ở tỉnh Hải Dương. Vì vậy đây là một đề tài độc lập, đề cập một cách đầy đủ và hệ thống về phát triển nông nghiệp bền vững ở tỉnh Hải Dương. Các công trình đó đã cung cấp phương pháp luận cho luận văn của tác giả. Đồng thời tác giải luận văn kề thừa một cách chọn lọc những kết quả nghiên cứu đó. 3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài Trên cơ sở hệ thống hóa và xây dựng khung lý thuyết phát triển nông nghiệp bền vững ở một tỉnh, đề tài luận văn đi sâu nghiên cứu thực trạng tình hình ở Hải Dương và đưa ra những định hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phát triển nông nghiệp bền vững ở tỉnh Hải Dương. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 12 - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn lấy đối tượng nghiên cứu là ngành sản xuất nông nghiệp và các yếu tố có liên quan đến phát triển nông nghiệp bền vững ở tỉnh Hải Dương - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu phát triển nông nghiệp bền vững ở tỉnh Hải Dương dưới góc độ kinh tế chính trị, không đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề những vấn đề có tinh vi mô của từng ngành cụ thể - Phạm vi thời gian; từ năm 2006 đến 2011. 5. Các phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương pháp nghiên cứu cơ bản; đồng thời, trong từng nội dung cụ thể, Luận văn sử dụng các phương pháp thống kê, so sánh, dự báo; phương pháp phân tích - tổng hợp để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến chủ đề đề tài. 6. Những đóng góp của Luận văn - Làm rõ vấn đề lý luận về phát triển nông nghiệp bền vững nói chung và phát triển nông nghiệp bền vững ở một tỉnh nói riêng với những tiêu chí cụ thể. - Đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp bền vững ở Hải Dương và dự báo tình hình. - Đề xuất những định hướng và giải pháp khả thi bảo đảm cho sự phát triển nông nghiệp bền vững ở Hải Dương. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận văn được chia thành 3 chương: Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển bền vững và phát triển nông nghiệp bền vững Chƣơng 2: Thực trạng phát triển nông nghiệp bền vững ở tỉnh Hải Dƣơng 13 Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng, giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững ở Hải Dƣơng 14 Chƣơng 1 NHỮNG VẦN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG Quan niệm về phát triển bền vững và phát triển nông nghiệp bền 1.1. vững 1.1.1. Phát triển bền vững Hiện nay loài người đang đứng trước những thách thức to lớn về sự sống còn của mình do sự phá hủy môi trường và tình trạng khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên. Muốn vượt qua những thách thức đó, không còn cách nào khác là phải xây dựng và thực hiện một chiến lược phát triển mới, mang tính dài hạn, là con đường phát triển tất yếu của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Chiến lược đó phải đảm bảo thực hiện được 4 mục tiêu cơ bản: ổn định về chính trị, phát triển bền vững về kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; bảo vệ môi trường. Thực hiện được yêu cầu đó sẽ là bước phát triển cao hơn về nhận thức của con người, là tất yếu đảm bảo cho sự phát triển bền vững mối quan hệ giữa con người – xã hội – tự nhiên. Phát triển bền vững vì thế trở thành vấn đề bức xúc của nhiều quốc gia, sự quan tâm của nhiều nhà khoa học hiện nay trên thế giới Vào những năm 80 của thế kỷ 20, Liên Hợp Quốc đã đưa ra ý tưởng về phát triển bền vững, đó là một xã hội không sử dụng các nguồn tài nguyên có thể tái tạo (đất, nước, sinh vật) nhanh hơn khả năng tự tái tạo của chúng; không sử dụng các nguồn tài nguyên không thể tái tạo (khoáng sản, nhiên liệu) nhanh hơn quá trình tìm ra những loại thay thế chúng; không thải ra môi trường các chất độc hại nhanh hơn quá trình trái đất hấp thụ và đồng hoá chúng. Như vậy, phát triển bền vững là sự phát triển lâu dài, vừa đáp ứng được nhu cầu hiện tại, vừa không xâm phạm đến lợi ích của các thế hệ tương lai. 15 Phát triển ý tưởng của Liên Hợp Quốc, Uỷ ban quốc tế về phát triển và môi trường (1987) đã đưa ra định nghĩa: Phát triển bền vững là một quá trình của sự thay đổi, trong đó, việc khai thác và sử dụng tài nguyên, hướng đầu tư, hướng phát triển của công nghệ và kỹ thuật và sự thay đổi về tổ chức là thống nhất, làm tăng khả năng đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai của con người. Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất năm 1992 tổ chức tại Rio de Jạneiro đã đưa ra khái niệm vắn tắt về phát triển bền vững và được nhiều quốc gia sử dụng đó là: “Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng những yêu cầu của hiện tại mà không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”. Hay nói cách khác: Đó là sự phát triển hài hoà cả về chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, môi trường ở các thế hệ nhằm không ngừng nâng cao chất lượng sống của con người. Sự phát triển hài hòa trong phát triển bền vững thể hiện, kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định trong thời gian dài, tất yếu kéo theo chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đến lượt chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực sẽ dẫn đến cơ cấu ngành nghề thay đổi (xuất hiện ngành nghề mới, việc làm mới), thay đổi kết cấu dân cư.... Sự phát triển đó lại kéo theo bảo đảm các điều kiện vật chất và tinh thần giải quyết những vấn đề xã hội như lao động, việc làm, văn hóa, thể dục thể thao... Như vậy, bản thân phát triển bền vững về kinh tế đã bao hàm cả phát triển bền vững về xã hội. Để có tăng trưởng và phát triển kinh tế lâu dài thì các yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất luôn phải được sử dụng có hiệu quả và tái tạo thường xuyên, mà các yếu tố này chủ yếu tồn tại trong môi trường và chỉ được tái tạo trong môi trường. Nếu môi trường không tốt lên mà xấu đi, thì không thể sử dụng có hiệu quả và không thể tái tạo được các yếu tố của quá trình sản xuất. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển bền vững đã được kết tinh và phản ánh đầy đủ nhất trong Chương trình nghị sự 21 của Việt 16 Nam: “Mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường”. Trong mục 4, điều 3 bộ Luật Bảo vệ môi trường của Quốc hội, phát triển bền vững được xác định: “ phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”. Từ những cơ sở lý luận nêu trên, tác giả cho rằng: phát triển bền vững là sự phát triển hài hòa cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường, trong đó sự phát triển kinh tế là căn bản và là động lực, sự phát triển xã hội là mục tiêu và việc bảo vệ môi trường sinh thái là điều kiện của phát triển bền vững. 1.1.2. Phát triển nông nghiệp bền vững 1.1.2.1. Khái niệm Nông nghiệp "Nông nghiệp" là một khái niệm chỉ ngành nghề hay sản nghiệp giống như công nghiệp và dịch vụ. Nông nghiệp theo nghĩa rộng, bao gồm cả ba nhóm ngành: nông nghiệp thuần túy, lâm nghiệp và ngư nghiệp, là ngành có vai trò quan trọng về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái. Đã có thời kỳ trong lịch sử phát triển các tư tưởng kinh tế của nhân loại, người ta chỉ thừa nhận nông nghiệp mới là ngành sản xuất, sản phẩm nông nghiệp mới thực sự là của cải, là sự biểu hiện giầu có của mọi quốc gia. Khái niệm nông nghiệp trong kinh điển và trong các tài liệu nghiên cứu theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin bao hàm hai ngành sản xuất vật chất là chăn nuôi và trồng trọt. 17 1.1.2.2. Khái niệm phát triển nông nghiệp bền vững Đến nay, Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam đã được triển khai 6 năm, trong đó nông nghiệp, nông thôn là một trong 5 lĩnh vực kinh tế cần được ưu tiên pháp triển. Ngành nông nghiệp cũng đã triển khai chương trình phát triển bền vững của mình. Nhưng quan niệm về nông nghiệp phát triển bền vững vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu một cách thỏa đáng. Theo G.A. Cô-Dơ-Lốp và S.P. Pe-Rơ-Vu-Sin và các tác giả của cuốn Từ điển Kinh tế do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Liên Xô xuất bản năm 1953, trong mục từ "Nông nghiệp", sau khi định nghĩa Nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng còn cho rằng: “Trong nông nghiệp việc sản xuất sản phẩm không những gắn liền với các quá trình kinh tế, mà cũng gắn liền với các quá trình tự nhiên của tái sản xuất. Muốn kinh doanh nông nghiệp một cách đúng đắn, điều quan trọng là hiểu biết và khéo vận dụng các quy luật kinh tế của sự phát triển xã hội và các quy luật sinh vật học của sự phát triển động vật và thực vật ”. Cuốn từ điển này được viết và xuất bản trước khi nhân loại đề cập đến khái niệm phát triển bền vững nhiều năm. Các tác giả cũng không hề đề cập một từ nào về phát triển bền vững, nhưng nếu căn cứ vào những nội dung của phát triển bền vững ngày nay, thì thực chất ở đây đã bàn về phát triển bền vững trong nông nghiệp. Theo quan điểm hiện đại về phát triển bền vững thì với cách đặt vấn đề của các tác giả "việc sản xuất sản phẩm không những gắn liền với các quá trình kinh tế, mà cũng gắn liền với quá trình tự nhiên của tái sản xuất" và muốn kinh doanh nông nghiệp tốt phải "hiểu biết" và "khéo sử dụng các quy luật kinh tế của sự phát triển xã hội và các quy luật sinh học của sự phát triển động vật và thực vật", thực ra đã đề cập đến những vấn đề cốt lõi của phát triển bền vững. Bởi vì, khi một sự vật, hiện tượng hay quá trình vận động tuân theo các quy luật kinh tế, xã hội, tự nhiên tức là tuân thủ sự đòi hỏi khách quan của sự phát triển thì thường đạt hiệu quả và do đó tồn 18 tại và phát triển ổn định, lâu dài - bền vững. Theo Bill Mollison và Remy Mia Slay thì nông nghiệp bền vững được định nghĩa như sau: "việc thiết kế những hệ thống cư trú lâu bền của con người: đó là một triết lý và một cách tiếp cận về việc sử dụng đất tạo ra mối liên kết chặt chẽ giữa tiểu khí hậu, cây hàng năm, cây lâu năm, súc vật, đất, nước và những nhu cầu của con người xây dựng những cộng đồng chặt chẽ và có hiệu quả" [55]. Trong khái niệm này, các tác giả cũng đã đề cập đến vần đề kinh tế (cây hàng năm, cây lâu năm, súc vật, nhu cầu của con người), đến vấn đề xã hội (xây dựng những cộng đồng), đến môi trường (sử dụng đất, khí hậu). Theo tác giả, định nghĩa này chưa đạt đến tầm khái quát và hệ thống, còn thuần túy từ góc nhìn của các nhà nông nghiệp, đặc biệt chưa làm rõ các vấn đề kinh tế, xã hội, môi trường này cần đạt đến đâu (độ) như thế nào thì sẽ là nông nghiệp bền vững. Theo GS,TS Võ Tòng Xuân - Hiệu trưởng trường Đại học An Giang thì: "có thể hiểu ngắn gọn khái niệm sản xuất nông nghiệp bền vững là chúng ta cần chọn một biện pháp sản xuất để cây trồng, vật nuôi của chúng ta tiếp tục cho chúng ta mỗi năm mỗi lãi, chất lượng nguồn nước và đất đai hàng năm vẫn được duy trì tốt để thế hệ con cháu chúng ta tiếp tục được hưởng cái lợi từ đất và môi trường nước.v.v... [19]. Khái niệm này đã đề cập đến giải pháp kỹ thuật để sản xuất nông nghiệp phát triển bền vững, còn xem xét trên phương diện xây dựng nền nông nghiệp phát triển bền vững thì chưa đề cập đầy đủ. Theo tác giả Châu Minh Thương, "Nông nghiệp bền vững là một hệ thống trong đó con người tồn tại và sử dụng những nguồn năng lượng không độc hại, tiết kiệm và tái sinh năng lượng, sử dụng nguồn tài nguyên phong phú của thiên nhiên mà không liên tục phá hoại những nguồn tài nguyên đó. Nông nghiệp bền vững không chỉ bảo vệ những hệ sinh thái đã có trong tự 19 nhiên mà còn tìm cách khôi phục những hệ sinh thái đã bị suy thoái"[43]. Quan niệm này cũng thiên về giải pháp kỹ thuật để nông nghiệp phát triển bền vững, còn trên phương diện xây dựng nền nông nghiệp phát triển bền vững thì chưa được đề cập đầy đủ. Cổng thông tin điện tử của Chính phủ, đã thống kê 10 khái niệm về phát triển nông nghiệp bền vững, trong đó đáng lưu ý là khái niệm số 6, 7 và 9. Khái niệm số 6 cho rằng: Phát triển nông nghiệp bền vững là sự phát triển đáp ứng nhu cầu tăng trưởng chung của nền kinh tế nhưng không làm suy thoái môi trường tự nhiên - con người, mà đảm bảo trên mức nghèo đói của người dân nông thôn. Khái niệm số 7: Phát triển nông nghiệp bền vững là đảm bảo an ninh lương thực, tăng cải tổ kinh tế, khắc phục nghèo đói và tạo điều kiện tăng tốc độ công nghiệp hóa. Khái niệm số 9: Phát triển nông nghiệp bền vững là cực đại hóa phúc lợi hiện tại không làm giảm thiểu các phúc lợi ấy trong tương lai. Các khái niệm này đã đề cập đến những giác độ khác nhau, rất lý thú và sâu sắc về phát triển nông nghiệp bền vững, nhưng các quan niệm đó chưa thật bao quát hoặc khái quát một cách đấy đủ. Từ những luận cứ nêu trên, tác giả luận văn cho rằng: Phát triển nông nghiệp bền vững là sự phát triển đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững của nền kinh tế đất nước nhưng không làm suy thoái môi trường tự nhiên, bảo đảm an ninh lương thực, tạo đà cho phát triển nông thôn, góp phần bảo đảm an sinh và hài hoà cho xã hội. 1.1.3. Vai trò của nông nghiệp trong phát triển bền vững nền kinh tế đất nước Về kinh tế: Thành tựu lớn nhất của nông nghiệp, nông thôn nước ta trong những năm vừa qua là tăng trưởng nhanh, liên tục. Bình quân tăng trưởng hàng năm của nông- lâm- ngư nghiệp nước ta thời kỳ 2000-2010, trong điều kiện mỗi năm giảm gần 70 ngàn ha đất nông nghiệp để phát triển 20 hạ tầng khu công nghiệp và đô thị; thiên tai, dịch bệnh thường xuyên xảy ra vẫn đảm bảo tăng trưởng là 5,24%/năm. [7,tr. 123] Trong kết quả chung đó, điều nổi bật nhất là thành tựu trong việc giải quyết vấn đề lương thực, chẳng những nông nghiệp nước ta bảo đảm đủ “cái ăn”, mà còn tạo ra một khối lượng lớn lương thực cho xuất khẩu và an ninh lương thực. Năm 2011, nước ta đã xuất khẩu 7 triệu tấn gạo, là một trong những nước xuất khẩu hàng đầu về cà phê, hạt điều, hạt tiêu... Nông nghiệp, nông thôn đã góp phần quan trọng trong việc tăng nguồn hàng xuất khẩu, tăng nguồn ngoại tệ để tăng trưởng kinh tế. Nông, lâm, thủy sản và hàng thủ công mỹ nghệ là những sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong những năm vừa qua. Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản và hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng tăng lên và đạt giá trị hàng tỷ đô la Mỹ, đó là nguồn ngoại tệ quý giá để đầu tư phát triển kinh tế cho đất nước. Cơ cấu ngành nông, lâm, thuỷ sản đã có chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tính chất thuần nông, thuần lương thực, mang tính tự cung tự cấp sang một nền nông nghiệp đa dạng, mang tính chất sản xuất hàng hóa. Tỷ trọng sản phẩm hàng hoá nông nghiệp tăng nhanh (gạo 20%, cà phê 95%, cao su 85%, chè 75%, hạt điều 90%, hồ tiêu 98%). Nếu năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản đạt 12,5 tỷ USD [7,tr.124] thì năm 2011 đạt gần 20 tỷ USD. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đa dạng hóa và sản xuất hàng hóa là điều kiện cơ bản để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hiệu quả của từng ngành, cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Về xã hội: Cùng với những chuyển biến về mặt kinh tế, trong xã hội nông thôn cũng có sự chuyển biến tích cực về tư duy và lối sống. So với trước đây, người nông dân hiện nay năng động hơn, chủ động hơn, biết theo “những tín hiệu của thị trường” để điều chỉnh sản xuất với mong muốn tăng thu nhập và cải thiện đời sống. Chính vì vậy, đời sống vật chất và tinh thần của dân cư trong 21 nông thôn được cải thiện rõ rệt. Với những nỗ lực của các tầng lớp dân cư nông thôn và sự hỗ trợ của Nhà nước tỷ lệ nghèo đói đã giảm đi nhanh chóng. Lao động và việc làm là một trong những vấn đề được quan tâm và giải quyết bằng nhiều biện pháp khác nhau như: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, phát triển ngành nghề và làng nghề truyền thống, đa dạng hóa các hình thức tổ chức kinh doanh v.v... Nhờ vậy, số lao động có công ăn việc làm ngày càng tăng lên, thu nhập và đời sống của người nông dân ngày càng tốt hơn trước. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, tình trạng mất ổn định ở một số vùng nông thôn đã cơ bản được xóa bỏ. Công tác tuyên truyền phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước được coi trọng, nhiều vấn đề dân quan tâm đã được công khai hóa, dân chủ cơ sở ngày càng tiến bộ. Về môi trường sinh thái: Trong những năm vừa qua bộ mặt nông thôn nước ta đã có những thay đổi to lớn, trong đó vấn đề môi trường đã được lãnh đạo các ngành và người dân quan tâm, tổ chức thực hiện như: vấn đề cung cấp nước sạch, vệ sinh làng xã, trồng rừng và bảo vệ rừng. Một số tỉnh đã dành đất cho các hộ ngành nghề sản xuất tập trung để giảm ô nhiễm môi trường v.v... Có thể nói môi trường sinh thái ở nông thôn, cho dù hiện nay vẫn còn rất nhiều việc phải làm, nhưng dù sao nó vẫn còn trong lành và sạch hơn so với khu vực đô thị. Chính vì vậy, trong những năm gần đây đã xuất hiện ý tưởng cho rằng, nông nghiệp, nông thôn bên cạnh những vai trò truyền thống, nó còn có vai trò rất quan trọng trong việc thỏa mãn những nhu cầu mới xuất hiện chính từ xã hội công nghiệp và văn minh đô thị, từ yêu cầu phát triển bền vững, từ yêu cầu lấy con người làm hạt nhân, trung tâm của sự phát triển. 1.2. Đặc trƣng, tiêu chí của nền nông nghiệp phát triển bền vững 1.2.1. Những đặc trưng của nền nông nghiệp phát triển bền vững Phát triển nông nghiệp bền vững có những đặc trưng cơ bản sau: 22
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan