Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch ở thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn ...

Tài liệu Phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch ở thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay

.DOCX
25
63
108

Mô tả:

Mở đầu 1 Tính cấp thiết của đề tài Những thành tựu nổi bật trong sự phát triển kinh tế từ giữa những năm 80 của thế kỉ XX là kết quả thay đổi chiến lược của nhiều quốc gia trên thế giới. Trong nền kinh tế trí thức ngày nay, việc đầu tư cho phát triển nguồn lực là quan trọng hơn các lĩnh vực đầu tư khác, kinh nghiệm phát triển của khu vực Châu Á trong vài thập kỷ vừa qua đã cho thấy, sự cất cánh phát triển của họ là ở chiến lược con người. Nguồn lực con người là lâu bền nhất, chủ yếu nhất trong sự phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp tiến bộ của nhân loại. Có thể nói, chìa khóa thành công nằm ngay trong chân lý đơn giản: chiến lược trồng người. Ngày nay, sự cạnh tranh giữa các quốc gia, các doanh nghiệp, công ty, các sản phẩm chủ yếu là cạnh tranh về tỷ lệ hàm lượng chất xám kết tinh trong sản phẩm hàng hóa, dịch vụ nhờ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn, chúng ta còn thiếu nhiều điều kiện cho phát triển như: vốn, công nghệ, kiến thức và kinh nghiệm quản lý đòi hỏi phải biết phát huy được lợi thế của những nguồn lực hiện có, cần phải có chiến lược và giải pháp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của mình. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã nêu ra một giải pháp cơ bản cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Tiếp đó, Hội nghị Trung ương lần thứ hai ( khóa VIII ) của Đảng ta còn khẳng định rõ thêm chủ trương coi con người là nguồn lực quan trọng nhất đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta; “ Để thực hiện mục tiêu chiến lược Đại hội VIII đã đề ra, cần khai thác và sử dụng nhiều nguồn lực khác nhau, trong đó nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định, đặc biệt đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp”. Trong điều kiện hội nhập kinh tế ngày nay, khi mà các ngành nghề dịch vụ đang ngày càng phát triển. Do đó mà hiện nay nhiều nước trên thế giới đã tập trung vào phát triển du lịch, coi đây là một ngành kinh tế quan trọng để đưa nền kinh tế phát triển. Tại báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX Đảng ta đã xác định “ Phát triển du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn... “ Du lịch là ngành kinh tế khá đặc biệt, hoạt động vừa mang tính sản xuất kinh doanh vừa mang tính phục vụ văn hóa xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và làm thỏa mãn yếu tố tinh thần của con người, do đó đội ngũ nguồn nhân lực ngành du lịch cần đáp ứng về số lượng, chất lượng và kỹ năng nghiệp vụ để phục vụ du khách có tâm lý, nhu cầu, ngôn ngữ, văn hóa hoàn toàn khác nhau. Đồng thời, nhân lực du lịch cũng cần phải có phong thái, bản sắc riêng để tạo thương hiệu. Du lịch phụ thuộc nhiều hơn vào yếu tố con người so với các ngành kinh tế khác. Năng lực và phẩm chất của đội ngũ trong ngành du lịch có tầm quan trọng đặc biệt với việc khai thác có hiệu quả cũng như bảo tồn lâu dài các nguồn tiềm năng du lịch của đất nước tạo ra những sản phẩm du lịch đặc sắc, có chất lượng, hấp dẫn khách. Đội ngũ này cũng thể hiện khả năng tiếp thu kinh nghiệm du lịch quốc tế, cũng như khả năng tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế về du lịch. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực du lịch là vấn đề mang tính sống còn đối với sự phát triển du lịch của mỗi quốc gia, mỗi vùng miền cũng như mỗi doanh nghiệp. Đà Nẵng là trung tâm du lịch hàng đầu ở miền Trung, với mục tiêu phát triển du lịch trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn và chiếm tỷ trọng lớn trong cơi cấu kinh tế của thành phố, có sức lôi kéo một số ngành kinh tế phát triển, góp phần chuyển dịch theo hướng cơ cấu kinh tế “ dịch vụ - công nghiệp, xây dựng – nông nghiệp”. Một vấn đề quan trọng được đặt ra đối với việc phát triển của ngành du lịch Đà Nẵng là việc định hướng giải pháp về nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực đồng bộ, có hệ thống. Thực tế cho thấy, nguồn nhân lực chính phục vụ cho ngành du lịch hiện nay của thành phố còn rất yếu và thiếu, không đồng bộ về cơ cấu ngành nghề, cơ cấu tuổi, giới tính, cơ cấu về trình độ được đào tạo, cơ cấu về quản lý và phục vụ... phần lớn nguồn nhân lực được tuyển dụng lấy từ các ngành khác nhau, nên không đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành du lịch. Vì vậy, nguồn nhân lực của Đà Nẵng cần phải được đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện theo hướng chuyên nghiệp. Bên cạnh dó, xây dựng chiến lược đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, đáp yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới là một trog những nhiệm vụ và giải pháp trong chiến lược quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng đến năm 2020. Vì vậy, việc nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng nguồn nhân lực du lịch của Đà Nẵng để góp phần giải quyết việc thực hiện mục tiêu coi phát triển du lịch Đà Nẵng trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế của thành phố, có sức lôi kéo một số ngành kinh tế phát triển là một việc cấp thiết. Do đó, tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài: “Phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch ở thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2 Mục đích nghiên cứu Tìm ra những giải pháp để thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch ở thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới trên cơ sở phân tích thực trạng nguồn nhân lực trong ngành du lịch ở đây. Cụ thể: - Nghiên cứu cơ sở lí luận về phát triển nguồn nhân lực, nguồn nhân lực ngành du lịch tạo cơ sở khoa học cho việc phân tích thực trạng phát tiển nguồn nhân lực trong ngành du lịch ở thành phố Đà Nẵng. - Khảo sát thực tragj phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lịch ở Đà Nẵng. - Đề xuất giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lịch nhằm đáp ứng phát triển du lịch nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng nói chung. 3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung vào nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp kinh doanh du lịch ở Đà Nẵng, trong đó đề tài đi sâu nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực trong các đơn vị lưu trú, coi đó là nhân tố quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội ở Đà Nẵng. 3.2 Phạm vi nghiên cứu 3.2.1Phạm vi không gian Đề tài nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 3.2.2Phạm vi thời gian Đề tài nghiên cứu thực trạng phát triển nguồn nhân lực du lịch ở Đà Nẵng trong giai đoạn từ 2010 – 2015 3.2.3 Phạm vi nội dung Do điều kiện và năng lực nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu đặc điểm, vai trò, các nhân tố tác động, thực trạng phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lịch, đưa ra các giải pháp và đề xuất một số ý kiến nhằm phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lịch ở thành phố Đà Nẵng. 4 Phương pháp nghiên cứu Đề tài đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp duy vật biện chứng: là phương pháp coi một sự vật hay một hiện tượng trong trạng thái luôn phát triển và xem xét nó trong mối quan hệ với các sự vật và hiện tượng khác. Ở đây, chúng ta nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - xã hội trọng trạng thái vận động và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nó cho phép phân tích một cách khách quan các vấn đề nghiên cứu như: hiện trạng của việc phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lịch ở Đà Nẵng, vai trò của nguồn nhân lực du lịch nói riêng và nguồn nhân lực nói chung đối với sự phát triển kinh tế của thành phố Đà Nẵng. - Phương pháp duy vật lịch sử: Dựa trên các phạm trù khoa học, các khái niệm, quan điểm và sự vận động phát triển của kinh tế - xã hội để nghiên cứu sự phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lịch của Đà Nẵng. - Một số phương pháp khác: phương pháp thu thập số liệu (tài liệu thứ cấp); phương pháp phân tích thống kê; phương pháp tổng hợp số liệu. 5 Ý nghĩa của đề tài Đề tài hoàn thành có ý nghĩa: - Làm rõ các vấn đề lí luận và thực tiễn về nguồn nhân lực trong ngành du lịch. - Làm tài liệu tham khảo cho nững ai quan tâm đến vấn đề nguông nhân lực trong ngành du lịch. - Làm cơ sở để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong ngành du lịch cho Đà Nẵng. 6 Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài có kết cấu gồm ba chương: Chương 1: Cở sở lí luận và thực tiễn của phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lịch. Chương 2: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lịch ở thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay. Chương 3: Những giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lịch ở thành phố Đà Nẵng. Nội dung 1Chương 1: CỞ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG NGÀNH DU LỊCH 6.1 Nguồn nhân lực, chất lương nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực 6.1.1 Nguồn nhân lực Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát triển kinh tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con người … Trong các nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính chất quyết định trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay. Một nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng không có những con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó thì khó có khả năng có thể đạt được sự phát triển như mong muốn. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và ngày nay trong công cuộc hội nhập và phát triển nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng ta luôn xác định: Nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam có truyền thông yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất - nguồn năng lực nội sinh. Vậy nguồn nhân lực là gì? Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực. Theo Liên Hợp Quốc thì “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước”. Ngân hàng thế giới cho rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân. Như vậy, ở đây nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên. Theo tổ chức lao động quốc tế thì: - Nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. - Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động. Kinh tế phát triển cho rằng: nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt: về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định của Nhà nước và thời gian lao động có thể huy động được từ họ; về chất lượng, đó là sức khoẻ và trình độ chuyên môn, kiến thức và trình độ lành nghề của người lao động. Nguồn lao động là tổng số những người trong độ tuổi lao động quy định đang tham gia lao động hoặc đang tích cực tìm kiếm việc làm. Nguồn lao động cũng được hiểu trên hai mặt: số lượng và chất lượng. Như vậy theo khái niệm này, có một số được tính là nguồn nhân lực nhưng lại không phải là nguồn lao động, đó là: Những người không có việc làm nhưng không tích cực tìm kiếm việc làm, tức là những người không có nhu cầu tìm việc làm, những người trong độ tuổi lao động quy định nhưng đang đi học... Từ những quan niệm trên, tiếp cận dưới góc độ của Kinh tế Chính trị có thể hiểu: nguồn nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước. Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một người lao động cụ thể có trình độ lành nghề ( về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (Đại học, trên đại học, cao đẳng, lao động kỹ thuật lành nghề. Giữa chất lượng nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nói đến chất lượng nguồn nhân lực là muốn nói đến tổng thể nguồn nhân lực của một quốc gia, trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng, là nhóm tinh tuý nhất, có chất lượng nhất. Bởi vậy, khi bàn về nguồn nhân lực chất lượng cao không thể không đặt nó trong tổng thể vấn đề chất lượng nguồn nhân lực nói chung của một đất nước. Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường ( yêu cầu của các doanh nghiệp trong và ngoài nước), đó là: có kiến thức: chuyên môn, kinh tế, tin học; có kỹ năng: kỹ thuật, tìm và tự tạo việc làm, làm việc an toàn, làm việc hợp tác; có thái độ, tác phong làm việc tốt, trách nhiệm với công việc. Như vậy, nguồn nhân lực chất lượng cao phải là những con người phát triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng lao động, về tính tích cực chính trị- xã hội, về đạo đức, tình cảm trong sáng. Nguồn nhân lực chất lượng cao có thể không cần đông về số lượng, nhưng phải đi vào thực chất. Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri thức và trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực ngày càng thể hiện vai trò quyết định của nó. Các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là những con người, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao tức là những con người được đầu tư phát triển, có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo nhằm trở thành “nguồn vốn - vốn con người, vốn nhân lực”. Bởi trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và cạnh tranh quyết liệt, phần thắng sẽ thuộc về những quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao có môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư, có môi trường chính trị-xã hội ổn định. 6.1.2 Chất lượng nguồn nhân lực Nói đến chất lượng nguồn nhân lực là nói đến hàm lượng trí tuệ trong đó, nói tới “người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp”. Xu hướng phổ biến trong xã hội là vai trò ngày càng tăng của nguồn nhân lực. Trong nguồn nhân lực có sự kết hợp giữa thể lực, trí lực và nhân cách. Ngoài ra, cái làm nên nguồn nhân lực còn là kinh nghiệm sống, là nhu cầu và thói quen vận dụng tổng hợp tri thức và kinh nghiệm của mình, của cộng đồng vào các hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm của con người. Xét theo ý nghĩa đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ sự phong phú, sự sâu sắc của các năng lực trí tuệ, năng lực thực hành, tổ chức quản lý, tính tháo vát và những phản ứng của con người trước mọi hoàn cảnh. Những năng lực đó chỉ xuất hiện trên cơ sở của trình độ học vấn, kinh nghiệm, sự mở rộng các quan hệ xã hội, sự tiếp thu tinh tế các ảnh hưởng văn hóa truyền thống từ gia đình tới xã hội, từ cộng đồng quốc gia tới khu vực, quốc tế. Nguồn nhân lực được xem xét trên hai phương diện: cá nhân và xã hội. Vì vậy khi xem xét cấu trúc nguồn nhân lực, trước hết phải tính đến ba yếu tố: thể lực, trí tuệ và đạo đức, ba yếu tố này cấu thành chất lượng nguồn nhân lực và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng phát triển xã hội của nguồn nhân lực xét trên quy mô xã hội. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực: - Chỉ tiêu biểu hiện trạng thái sức khỏe của nguồn nhân lực: Sức khỏe của nguồn nhân lực là trạng thái thoải mái về thể chất cũng như tinh thần của con người. Để phản ánh điều đó có nhiều chỉ tiêu biểu hiên như: Tiêu chuẩn đo lường về chiều cao, cân nặng, các giác quan nội khoa, ngoại khoa, thần kinh, tâm thần, tai, mũi, họng…Bên cạnh đó việc đánh giá trạng thái sức khỏe còn thể hiện thông qua các chi tiêu: tỷ lệ sinh, chết, biến động tự nhiên, tuổi thọ trung bình, cơ cấu giới tính ... - Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hoá của nguồn nhân lực: Trình độ văn hóa là sự hiểu biết của người lao động đối với những kiến thức phổ thông không chỉ về lĩnh vực tự nhiên mà còn bao gồm cả lĩnh vực xã hội. Ở một mức độ cho phép nhất định nào đó thì trình độ văn hoá của dân cư thể hiện mặt bằng dân trí của một quốc gia. Trình độ văn hoá của nguồn nhân lực được thể hiện thông qua các quan hệ tỷ lệ:  Số lượng và tỷ lệ biết chữ  Số lượng và tỷ người qua các cấp học tiểu học, trung học cơ sở, phổ thông trung học, cao đẳng, đại hoc, trên đại học, ... Đây là một trong những chỉ tiêu hết sức quan trọng phản ánh chất lượng nguồn nhân lực cũng như trình độ phát triển của kinh tế xã hội - Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực: Trình độ chuyên môn kỹ thuật thể hiện sự hiểu biết, khả năng thực hành về một chuyên môn, nghề nghiệp nào đó. Đó cũng là trình độ được đào tạo ở các trường chuyên nghiệp, chính quy. Các chỉ tiêu phản ánh trình độ chuyên môn kỹ thuật như:  Số lượng lao động được đào tạo và chưa qua đào tạo  Cơ cấu lao động được đào tạo: o Cấp đào tạo o Công nhân kỹ thuật và cán bộ chuyên môn o Trình độ đào tạo( cơ cấu bậc thợ..) - Chỉ số phát triển con người (HDI): Chỉ số này được tính bằng ba chỉ tiêu chủ yếu là tuổi thọ bình quân, thu nhập bình quân đầu người và trình độ học vấn. Như vậy, chỉ số HDI không chỉ đánh giá sự phát triển của con người về mặt kinh tế, còn nhấn mạnh đến chất lượng cuộc sống và sự công bằng, tiến bộ xã hội. Ngoài ra còn có thể xem xét chất lượng nguồn nhân lực thông qua chỉ tiêu biểu hiện năng lực phẩm chất của người lao động. Một cách tiếp cận khác về chất lượng nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực được đánh giá qua các tiêu thức: - Sức khỏe: thể lực và trí lực - Trình độ học vấn: trình độ chuyên môn; trình độ lành nghề. - Các năng lực phẩm chất cá nhân như: ý thức kỷ luật, tính hợp tác, ý thức trách nhiệm, sự chuyên tâm ... Tóm lại 6.2 Phát triển nguồồn nhân lực Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một '' tài nguyên đặc biệt '', một nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con người, phát triển Nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư cho con người là đầu tư có tinh chiến lược , là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững. Cho đến nay, do xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau khi bàn về phát triển nguồn nhân lực. Theo quan niệm của Liên hiệp quốc, phát triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. nguồn nhân lực. Có quan điểm cho rằng: Phát triển nguồn nhân lực là gia tăng giá trị cho con người, cả giá trị vật chất và tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những năng lực và phẩm chất mới, cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu to lớn và ngày càng tăng của sự phát triển kinh tế - xã hội. Một số tác giả khác lại quan niệm: Phát triển là quá trình nâng cao năng lực của con người về mọi mặt: Thể lực, trí lực, tâm lực, đồng thời phân bổ, sử dụng, khai thác và phát huy hiệu quả nhất nguồn nhân lực thông qua hệ thống phân công lao động và giải quyết việc làm để phát triển kinh tế- xã hội. Từ những luận điểm trình bày trên, phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia: chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực . Nói một cách khái quát nhất, phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện con người vì sự tiến bộ kinh tế- xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người. Như vậy, phát triển nguồn nhân lực với nội hàm trên đây thực chất là đề cập đến vấn đề chất lượng nguồn nhân lực và khía cạnh xã hội của nguồn nhân lực của một quốc gia.Nguồn nhân lực của đất nước nói chung, của cơ quan và ngay cả mỗi gia đình đều cần được phát triển. Phát triển nguồn nhân lực là các hoạt động đầu tư nhằm tạo ra nguồn nhân lực với số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời đảm bảo sự phát triển của mỗi cá nhân. UNESCO sử dụng khái niệm phát triển nguồn nhân lực theo nghĩa hẹp và cho rằng phát triển nguồn nhân lực là làm cho toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn phù hợp yêu cầu phát triển của đất nước. Theo Tổ chức Lao động Thế giới ( ILO), phát triển nguồn nhân lực bao hàm phạm vi rộng hơn, không chỉ là sự chiếm lĩnh trình độ lành nghề hoặc vấn đề đạo tạo nói chung, mà còn là sự phát triển năng lực và sử dụng năng lực đó vào làm việc có hiệu quả, cũng như thõa mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân. Liên hiệp quốc thì nghiêng về sử dụng khái niệm phát triển nguồn nhân lực theo nghĩa rộng, bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng nguồn tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. (phát triển và quản lý nguồn nhân lực xã hội.-NXB Tư pháp, 2006) Phát triển nguồn nhân lực bao gồm các nội dung: - Phát triển về số lượng: Nội dung cơ bản đầu tiên của phát triển nguồn nhân lực đó là phát triển về số lượng, hay nói cách khác là thúc đẩy sự gia tăng về số lượng con người trong nguồn nhân lực. Sự phát triển nguồn nhân lực về số lượng hợp lý là tạo ra số lượng lao động theo nhu cầu của phát triển của các ngành kinh tế ở mỗi giai đoạn phát triển, ngược lại sự phát triển quá nhiều hoặc quá ít, tạo ra sự thiếu hụt hay dư thừa so với nhu cầu của nền kinh tế quốc dân đều là sự phát triển bất hợp lý về số lượng và gây nên những khó khăn, trở ngại trong sử dụng nguồn nhân lực. Phát triển về chất lượng: Phát triển nguồn nhân lực về chất lượng là làm tăng lên về mặt chất lượng của nguồn nhân lực bao gồm: thể lực, trí lực, trí tuệ, kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm làm việc. Phát triển nguồn nhân lực về chất lượng là tạo ra và làm tăng lên những năng lực mới trong từng người dân và từng người lao động, bao gồm nhiều nội dung cụ thể: o Chăm sóc sức khỏe, thể lực cho dân số và người lao động để tạo ra nguồn nhân lực có khả năng làm việc tốt nhất, làm việc với năng suất và chất lượng cao o Giáo dục văn hóa, đạo đức và nhân cách, tư duy kinh tế - xã hội và cách hành xử trong quan hệ xã hội; o Đào tạo, tập huấn cho người lao động các kiến thức về khoa học, công nghệ mới; các kỹ năng lao động và ý thức chấp hành luật pháp về lao động, lề lối làm việc, nếp nghĩ và hướng phát triển bản thân người lao động ... - Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực: Sử dụng nguồn nhân lực là một trong những nội dung quan trọng của phát triển nguồn nhân lực, bởi vì phát triển nguồn nhân lực để nhằm mục đích sử dụng tốt nhất, hiệu quả nhất nguồn nhân lực. Chính vì vậy phương thức sử dụng nguồn nhân lực chính là định hướng cho việc phát triển nguồn nhân lực về số lượng và chất lượng. Những nội dung cơ nội dung cụ thể của sử dụng nguồn nhân lực bao gồm: o Xác định sử dụng nhân lực về số lượng và chất lượng cho các ngành nghề kinh tế của một quốc gia, vùng lãnh thổ trong dài hạn, trung hạn và ngắn hạn; việc xác định nhu cầu sử dụng nhân lực sẽ là cơ sở để xây dựng quy hoạch và triển khai các giải pháp về phát triển nguồn nhân lực về cả số lượng và chất lượng theo nhu cầu của nền kinh tế. o Phân bổ hợp lý nguồn nhân lực vào các ngành kinh tế. Sự hợp lý trong phân bổ lao động được thể hiện qua sự phát huy tối đa năng lực cá nhân của từng người lao động tham gia vào từng ngành kinh tế trong hiện tại và tương lai, điều này còn phản ánh việc sử dụng nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện cụ thể của chất lượng nguồn nhân lực. o Tạo điều kiện thuận lợi và động lực phù hợp để người lao động phát huy hết mọi năng lực, sở trường và ý chí cá nhân trong công việc nhằm đưa tới kết quả làm việc cao nhất, đem lại lợi ích lớn nhất cho xã hội và bản thân người lao động. 6.3 Nguồn nhân lực trong ngành du lịch 6.3.1 Các khái niệm cơ bản về du lịch: Du lịch là một ngành kinh tế có tốc độ phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu. Từ chổ ban đầu là hoạt động mang tính tâm linh của giới qúy tộc, tầng lớp thượng lưu, đến nay du lịch đã trở thành một hiện tượng phổ biến không thể thiếu trong đời sống của mọi người dân. Du lịch phát triển góp phần làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho các quốc gia và giải quyết nhiều công ăn việc làm cho xã hội; thúc đẩy sự phát triển của các ngành có liên quan như xây dựng, thương mại, sản xuất hàng tiêu dùng, bảo hiểm, giao thông vận tải, bưu chính – viễn thông... Theo thống kê của Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) năm 2008, lượng khách du lịch quốc tế trên toàn cầu đạt 922 triệu, du lịch toàn cầu đã đem lại nguồn thu tới 944 tỉ USD, tạo việc làm cho trên 300 triệu người. Du lịch đã trở thành ngành kinh tế bậc nhất thế giới, xuất khẩu du lịch chiếm khoảng 30% xuất khẩu dịch vụ thương mại thế giới và 6% tổng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Vì hiệu quả to lớn đó, nhiều nước trên thế giới đã chọn Du lịch là ngành ưu tiên phát triển số một trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mình. Hội nghị Bộ trưởng Du lịch thế giới năm 1994 tại Osaka (Nhật Bản) đã khẳng định : “Du lịch là nguồn lớn nhất tạo ra GDP và việc làm của thế giới, chiếm tới 1/10 mỗi loại, đồng thời đầu tư cho Du lịch và các khoản thu từ thuế liên quan đến Du lịch tương ứng cũng tăng cao. Những sự gia tăng này cùng với các tiêu chí khác của Du lịch dự đoán sẽ tiếp tục tăng trưởng một cách vững chắc và như vậy Du lịch sẽ là đầu tàu kéo nền kinh tế thế giới trong thế kỷ 21”. Mặc dù hoạt động du lịch có nguồn gốc hình thành từ lâu và phát triển với tốc độ rất nhanh , nhưng khái niệm “du lịch” lại được hiểu rất khác nhau, như Giáo sư, Tiến sỹ Berneker nhận định “Đối với du lịch, có bao nhiêu tác giả thì có bấy nhiêu định nghĩa”. Lý do chính của hiện tượng này là đến mãi thế kỷ thứ 19, du lịch mới trở thành một hiện tượng đại chúng nên khoa học du lịch ra đời muộn hơn so với một số ngành khoa học khác; tồn tại nhiều cách tiếp cận khác nhau của các tác giả và do tính chất đặc thù của hoạt động du lịch. Thuật ngữ Du lịch trong ngôn ngữ nhiều nước bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa đi một vòng. Thuật ngữ này được La tinh hóa thành tornus và sau đó thành tourisme (tiếng Pháp), tourism (tiếng Anh). Cho đến nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm Du lịch, có những tác giả tập trung giải thích du lịch như một hiện tượng di chuyển, lưu trú ngoài nơi cư trú thường xuyên ; nhóm khác lại tập trung vào bản thân du khách và khía cạnh kinh tế của Du lịch. Giáo sư tiến sĩ Hunziker và giáo sư, tiến sĩ Krapf – Hai người được coi là nền móng cho lý thuyết về cung du lịch đưa ra định nghĩa: “Du lịch là tập hợp các mối quan hệ và hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó không thành lưu trú thường xuyên và không dính dáng đến hoạt động kiếm lời”. Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), một tổ chức thuộc Liên Hiệp Quốc, đưa ra định nghĩa: “Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành, tạm trú trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giản; cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là làm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư.” Hội nghị quốc tế về du lịch và lữ hành được tổ chức ở Ottawa, Canada vào tháng 6/1991 đã thống nhất đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: “Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành, tạm trú, với mục đích tham quan, khám phá hoặc với mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích kinh doanh và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư.” Ngành Du lịch Việt Nam có lịch sử phát triển 50 năm, nhưng chỉ thự c sự phát triển nhanh vào những năm đầu của thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Nếu so sánh với các ngành kinh tế khác, Du lịch được xếp vào một trong số những ngành mới. Do đó, hệ thống các khái niệm cơ bản của ngành Du lịch chỉ mới được chuẩn hóa trong thời gian gần đây. Trước khi Luật Du lịch được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm 2005, ở nước ta khái niệm “du lịch” cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau, tuy thuộc vào cách tiếp cận của mỗi tác giả. Từ khi có Luật Du lịch, khái niệm du lịch ở nước ta được sử dụng tương đối thống nhất theo cách giải thích thuật ngữ của Luật. Luật Du lịch giải thích khái niệm du lịch như sau: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí , nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”. Đây là một định nghĩa xúc tích, mang tính khái quát, bao hàm được cả hai khía cạnh cơ bản của du lịch là chuyến đi ngoài nơi cư trú với mục đích tham quan nghỉ dưỡng và các hoạt động liên quan đến chuyến đi đó. Luật Du lịch cũng giải thích một số thuật ngữ liên quan khác của Du lịch như sau: - Hoạt động du lịch: Là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến du lịch. - Tài nguyên du lịch: Là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người với các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch. - Tham quan: Là hoạt động của khách du lịch trong ngày tới tham quan nơi có tài nguyên du lịch với mục đích tìm hiểu, thưởng thức những giá trị của tài nguyên du lịch. - Sản phẩm du lịch: Là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi. - Dịch vụ du lịch: Là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú , ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. 6.3.2 Khái niệm và đặc điểm của nguồn nhân lực trong ngành du lịch Nhân lực du lịch – sản phẩm văn hóa, sản phẩm du lịch đặc biệt Trong xã hội hiện đại, nhân lực là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của đất nước, bởi nhân lực chính là nguồn lực chủ đạo của xã hội. Nhân lực là nguồn lực lao động hoạt động trong một lĩnh vực nào đó của đời sống xã hội trên một địa bàn nhất định, trong những khoảng thời gian nhất định. Do có vai trò, vị trí quan trọng như vậy nên nhân lực luôn là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ một cá nhân, tổ chức nào trong đó có các doanh nghiệp du lịch. Là ngành kinh tế dịch vụ mang tính tổng hợp cao, đối tượng chính của du lịch là du khách; du khách trong quá trình đi du lịch sẽ tiêu dùng các sản phẩm du lịch. Sản phẩm du lịch sẽ quyết định kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành du lịch. Muốn vậy, phải đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng đủ các yêu cầu, điều kiện đặt ra từ thực tế. Đào tạo nguồn nhân lực trong du lịch cũng là đào tạo ra những người biết tạo ra các sản phẩm du lịch đặc sắc để đáp ứng, thỏa mãn những nhu cầu khác nhau của du khách; có như vậy, du lịch mới phát triển bền vững. Trong ngành du lịch, xét trên mức độ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, nguồn nhân lực có thể chia thành bốn loại như sau: Nhân lực trong lĩnh vực quản lý Nhà nước; doanh nhân và những người kinh doanh du lịch; nhân lực chuyên môn nghiệp vụ trong ngành kinh doanh du lịch; những người làm nghề tự do và người dân tham gia hoạt động trong lĩnh vực du lịch. Nguồn nhân lực trong ngành du lịch có đặc điểm khác với những ngành kinh tế khác như: nguồn nhân lực du lịch phải có kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ sâu về du lịch; nguồn nhân lực du lịch phải có kiến thức về văn hóa, xã hội và giỏi ngoại ngữ; nguồn nhân lực du lịch phải có tâm huyết làm du lịch; nguồn nhân lực du lịch phải hiểu biết và có ý thức về phát triển bền vững; ...  Những thành tố của nhân lực du lịch ở Việt Nam Cũng như bất kỳ một ngành kinh tế nào khác, kinh tế du lịch cũng bao gồm hai nguồn nhân lực chính, đó là nguồn nhân lực hoạt động trực tiếp và nguồn nhân lực hoạt động gián tiếp trong ngành du lịch. Trong đó nguồn nhân lực hoạt động trực tiếp giữ vai trò quyết định sự thành công của ngành kinh tế quan trọng này. Nguồn nhân lực trực tiếp hoạt động trong ngành du lịch, bao gồm: - Những người làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch. Đây là đối tượng đầu tiên phải kể đến trong kinh tế du lịch của một đất nước đang chuyển hướng trên bước đường xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Nguồn nhân lực này làm việc trong các cơ quan chuyên ngành của Chính phủ, các Bộ, ngành của Trung ương và địa phương. Trước hết phải kể đến các cán bộ chuyên môn thuộc Bộ Văn hóa ,Thể thao và Du lịch. Các cá nhân và tập thể làm việc tại Tổng cục Du lịch, các bộ phận chuyên trách thuộc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. - Những người trực tiếp đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực cho ngành du lịch. Đây là một bộ phận đông đảo trong các trường đại học, cao đẳng, trung học nghề của ngành Du lịch, các khoa Du lịch trong hệ thống các trường Đại học và cao đẳng, trung học chuyên nghiệp trên toàn quốc. Với nhiều qui mô và cấp độ đào tạo khác nhau, các cơ sở đào tạo đang là cơ sở đầu tiên đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực đa dạng, chất lượng cao cho kinh tế du lịch của đất nước. - Những người làm việc trực tiếp trong ngành du lịch: bao gồm toàn bộ cán bộ công nhân viên ở tất cả các bộ phận khác nhau nằm trong các công ty du lịch, các hãng lữ hành, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên toàn quốc. Những người trực tiếp kinh doanh du lịch ở các vị trí khác nhau của ngành kinh tế trọng điểm này của đất nước. Toàn bộ những người làm việc ở các vị trí khác nhau trong 5 lĩnh vực kinh doanh du lịch là những người lao động trực tiếp, bao gồm: Những người làm việc trong các doanh nghiệp Kinh doanh lữ hành. Những người làm việc trong các doanh nghiệp Kinh doanh lưu trú. Những người làm việc trong các doanh nghiệp Kinh doanh vận chuyển khách du lịch. Những người làm việc trong các doanh nghiệp Kinh doanh các dịch vụ bổ trợ. Những người làm việc trong các doanh nghiệp Kinh doanh khu du lịch, đô thị du lịch. Trong mỗi một lĩnh vực, lại có rất nhiều các vị trí khác nhau với các nhiệm vụ và chức năng khác nhau. Tất cả những cá nhân đó được tổ chức, sắp xếp, biên chế thành những bộ phận với cơ cấu khác nhau… Đó là những người trực tiếp làm việc trong ngành du lịch. Trong nguồn nhân lực hoạt động trực tiếp lại hình thành đội ngũ lao động chuyên nghiệp và đội ngũ lao động thời vụ. Đội ngũ lao động thời vụ trong ngành du lịch thường xuất hiện ở những nơi có hoạt động du lịch diễn ra không thường xuyên. Ví dụ như ở các bãi biển phía Bắc nước ta, do điều kiện thời tiết chi phối nên hầu như các hoạt động du lịch biển thường chỉ diễn ra trong các tháng mùa hè. Vào thời điểm này, tại các khu du lịch biển như Đồ Sơn, Sầm Sơn, Cửa Lò… du khách đổ về rất đông, chủ yếu là khách nội địa. Các nhà nghỉ, khách sạn hoạt động hết công xuất và phải thuê nhân công thời vụ để tham gia vào những công việc phục vụ khách tại các khách sạn, nhà hàng… Ngoài những người hoạt động trực tiếp, nguồn nhân lực hoạt động gián tiếp trong ngành du lịch bao gồm: o Những người làm các công việc khác nhau tại các tuyến điểm du lịch. Tại các tuyến điểm này, để phục vụ hoạt động du lịch có rất nhiều các công việc khác nhau đòi hỏi nhiều người làm việc trong các dịch vụ có liên quan đến hoạt động du lịch: từ các nhân viên bảo vệ, những người bán và kiểm soát vé, những người cung ứng các dịch vụ lưu niệm, dịch vụ ẩm thực, nghỉ ngơi, giải trí, lưu trú ngắn… đến những người làm công tác điều phối và quản lý giao thông, vệ sinh môi trường, thu gom và xử lý rác thải.v.v… o Những cá nhân và tổ chức làm công tác nghiên cứu ở các hình thái và cấp độ khác nhau mà nội dung và kết quả nghiên cứu có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến ngành du lịch: các Viện nghiên cứu phát triển du lịch; các cơ quan kiến trúc, qui hoạch, đầu tư... o Những người hoạt động trong các lĩnh vực thông tin – truyền thông bao gồm các cơ quan báo chí, đài phát thanh, truyền hình, các nhà xuất bản… mà nội dung thông tin đăng tải do họ cung cấp có liên quan, phục vụ hoạt động du lịch. o Những người làm ở các khâu công việc mà có liên quan đến việc xuất nhập cảnh của du khách: các cơ quan ngoại giao, các nhân viên tại các cửa khẩu, các nhân viên an ninh, biên phòng, hải quan, thuế vụ, kiểm dịch.v.v… Tất cả nguồn nhân lực du lịch hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp đều cần phải được đào tạo với các cấp độ và yêu cầu khác nhau. Việc đào tạo đóng vai trò quyết định sự phát triển của ngành kinh tế dịch vụ đặc biệt quan trọng này.  Đặc điểm và yêu cầu của nhân lực du lịch ở Việt Nam Là một quốc gia đang phát triển, nguồn nhân lực du lịch ở Việt Nam cũng nằm trong tình trạng chung, mang những đặc điểm của nguồn nhân lực Việt Nam: trẻ, thiếu và yếu; tính chuyên nghiệp chưa cao, thiếu tính đồng bộ. Nhiều người, nhiều công việc thiếu những tiền lệ và sự trải nghiệm, đang trong quá trình tìm tòi, tiếp cận để học hỏi, bổ sung, hoàn thiện mình. o Đặc điểm về giới tính, tuổi tác, sức khỏe: một số lĩnh vực phù hợp với nam giới (hướng dẫn viên suốt tuyến…), một số lĩnh vực lại phù hợp với nữ giới (cung cấp các dịch vụ bổ sung…). Hầu hết đòi hỏi sức khỏe, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và ngoại ngữ nên cần những người trẻ tuổi, xông xáo nhưng trong công việc cũng luôn đòi hỏi người lao động phải có kinh nghiệm thực tế. o Đặc thù công việc: Du lịch là hoạt động mang tính động rất cao, luôn biến đổi và phát triển không ngừng. Nội dung công việc liên quan đến nhiều đối tượng, thành phần khác nhau. Kết quả công việc luôn chịu sự tác động của hiệu quả tài chính, tiền bạc trong kinh doanh nên thường xuất hiện tính thực tế, thực dụng cao. Điều đó cũng chi phối phần nào các mối quan hệ trong ngành giữa các cá nhân và tổ chức với nhau. o Tính liên ngành, liên vùng cao đòi hỏi sự phối kết hợp cao, sâu và rộng mang tính đồng bộ… giữa nhiều cơ quan, ban ngành, các cá nhân và tổ chức; giữa các địa phương vùng miền; giữa các quốc gia trong khu vực và quốc tế. o Tính tổng hợp, kế thừa cao những kết quả thành tựu, kinh nghiệm của những người đi trước, của những hoạt động kinh doanh đã và đang hoàn thành. Trong kinh doanh du lịch, đôi khi xuất hiện tình trạng “hớt váng” khi thời cơ và điều kiện cho phép. o Tính luân chuyển nhanh chóng, kịp thời: sự luân chuyển vị trí, nhiệm vụ; luân chuyển địa bàn, hình thức hoạt động. Ví dụ, các sinh viên, những người làm trong các ngành văn hóa – ngoại ngữ, sư phạm đang nhiều người có xu hướng chuyển sang hoạt động trong lĩnh vực du lịch. Những người đã kinh qua thời gian làm Hướng dẫn viên có thể chuyển vào
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan