Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề truyền thống ở quận hà đông thành phố hà...

Tài liệu Phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề truyền thống ở quận hà đông thành phố hà nội hiện nay

.DOC
101
286
107

Mô tả:

BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHO LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở QUẬN HÀ ĐÔNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2014 BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHO LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở QUẬN HÀ ĐÔNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ :60 31 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS BÙI NGỌC QUỴNH HÀ NỘI - 2014 DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ CHỮ VIẾT TẮT Ban chấp hành BCH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH – HĐH Chủ nghĩa xã hội CNXH Đại học khoa học xã hội và nhân văn ĐHKHXH&NV Đại học quốc gia Hà Nội ĐHQGHN Giải phóng mặt bằng GPMB Giáo sư, Tiến sỹ khoa học GS,TSKH Khoa học công nghệ KHCN Liên hợp quốc LHQ Lực lượng sản xuất LLSX Phó giáo sư, Tiến sỹ PGS,TS Ủy ban nhân dân UBND Xã hội chủ nghĩa XHCN MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1 1.1. 1.2. Chương 2 2.1 2.2 2.3 Chương 3 3.1 3.2 3 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHO LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở QUẬN HÀ ĐÔNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI Những vấn đề lý luận chung về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực làng nghề, nguồn nhân lực làng nghề truyền thống Khái niệm, nội dung và những nhân tố tác động đến phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề truyền thống quận Hà Đông, thành phố Hà Nội THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở QUẬN HÀ ĐÔNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI Khái quát và đặc điểm làng nghề truyền thống quận Hà Đông thành phố Hà Nội 14 14 23 38 38 Thành tựu và hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực ở các làng nghề truyền thống quận Hà Đông thành phố Hà Nội Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần tập trung giải quyết để đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực cho các làng nghề truyền thống quận Hà Đông trong thời gian tới 57 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHO LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG QUẬN HÀ ĐÔNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI 67 Quan điểm đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề truyền thống quận Hà Đông thành phố Hà Nội Giải pháp đẩy mạnh phát triển phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề truyền thống quận Hà Đông, thành phố Hà Nội thời gian tới KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 46 67 74 92 94 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chú trọng yếu tố con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội. Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội Đảng lần thứ VIII (6-1996) đã khẳng định: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững” [5,tr.85] và “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc CNH-HĐH” [6, tr.21]. Làng nghề là hoạt động kinh tế, mang bản sắc văn hóa độc đáo ở nước ta. Trong tiến trình CNH- HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều làng nghề có truyền thống từ lâu đời vẫn duy trì và phát triển, góp phần tăng trưởng kinh tế - xã hội ở địa phương. Làng nghề đã trở thành một tài sản hết sức quý báu của dân tộc, không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Là một Quận có sự thay đổi diện mạo nhanh chóng trước tốc độ đô thị hóa mạnh mẽ như hiện nay, quận Hà Đông vẫn gìn giữ trong lòng “phố thị” những làng nghề (phường nghề) truyền thống như: Dệt lụa Vạn Phúc, the La Khê, mộc Thượng Mạo, rèn Đa sỹ. Đứng trước những thời cơ và thách thức mới trong quá trình thay đổi, chia tách, sát nhập vào thủ đô Hà Nội, Hà Đông quyết tâm duy trì và phát triển các làng nghề truyền thống, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quận lần thứ XIX nhiệm kỳ 2010 - 2015 đề ra, phát huy nội lực, khai thác mọi tiềm năng, nguồn lực để thực hiện mục tiêu tổng quát: “Xây dựng quận Hà Đông trở thành đô thị với tốc độ phát triển nhanh, phát triển mạnh, phát triển toàn diện và bền vững”. 4 Các làng nghề truyền thống quận Hà Đông đã bắt nhịp với những thay đổi của cuộc sống hiện nay và của công nghệ hiện đại để duy trì và phát triển. Nếu như các sản phẩm thủ công truyền thống có giá trị được coi là những di sản văn hóa vật thể thì nghề thủ công truyền thống là một trong những hình thức thể hiện của di sản văn hóa phi vật thể. Điều này đã được xác định rõ trong Công ước về bảo vệ văn hóa phi vật thể của UNESCO công bố vào tháng 10 năm 2013 [41, tr. 98 - 102]. Hồn dân tộc, tinh hoa của dân tộc lịch sử và truyền thống của mỗi dân tộc đều thông qua bàn tay khéo léo của nghệ nhân mà thổi vào từng sản phẩm truyền thống. Chính vì vậy phát triển nguồn nhân lực cho các làng nghề truyền thống nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của Quận Hà Đông giàu truyền thống lịch sử, đồng thời phát huy nội lực, khai thác tiềm năng, lợi thế của địa phương đã góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nhân lực ở các làng nghề thống quận Hà Đông gặp rất nhiều khó khăn, thách thức như: thu hút nhiều lao động trẻ ổn định tạo lớp thợ kế cận tương lai trong các làng nghề truyền thống là rất khó do quy mô sản xuất tại các làng nghề truyền thống còn nhỏ lẻ, phân tán, thị trường tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế; lao động làng nghề truyền thống không thiết tha gắn bó với nghề, thanh niên làng nghề không muốn theo nghề cha ông. Đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao như: nghệ nhân, đội ngũ thợ lành nghề chưa thực sự đảm bảo về chất lượng, số lượng và cơ cấu cũng như đòi hỏi ngày một cao của yêu cầu phát triển đất nước trong tiến trình hội nhập quốc tế, các nghệ nhân thì nhiều cụ tuổi cao không còn đủ sức khỏe để làm nghề, vẫn còn thiếu các điều kiện để sáng tác và truyền nghề.v.v.. Với tầm quan trọng của nguồn nhân lực làng nghề truyền thống hiện nay, những vấn đề lý luận chung về phát triển nguồn nhân lực, nguồn nhân lực cho phát triển làng nghề truyền thống đang chưa theo kịp yêu cầu phát 5 triển của làng nghề truyền thống trong giai đoạn mới. Do đó, đặt ra công tác nghiên cứu lý luận phải đi trước một bước thì mới đáp ứng được thực tiễn mới. Từ tình hình trên rất cần những công trình nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh hiện nay ở quận Hà Đông. Do vậy, vấn đề “Phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề truyền thống ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội hiện nay” thực sự có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, được học viên chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Vấn đề phát triển nguồn nhân lực là vấn đề đã thu hút rộng rãi sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong nước, tuy nhiên trên từng khía cạnh và phạm vi khác nhau. Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu quan trọng, công phu về vấn đề này ở các Bộ, Viện nghiên cứu, các nhà khoa học được đăng trên sách, báo, tạp chí. PGS,TS. Phạm Thành Nghị (2005), Nghiên cứu và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là đề tài nghiên cứu cấp nhà nước: tổng kết các mô hình quản lý nguồn nhân lực: mô hình quản lý nguồn nhân lực theo các thành tố quá trình (mô hình Fombrun, Tichy và Devanna, mô hình Harvard, mô hình Warwick, mô hình Bratton và Gold); mô hình quản lý nguồn nhân lực theo tính chất các mối quan hệ trong tổ chức và vai trò của yếu tố con người trong tổ chức: mô hình hành chính (Bureaucratic Model), mô hình đồng nghiệp (Collegial Model), mô hình mở (Open System Model); mô hình quản lý nguồn nhân lực trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung và trong cơ chế thị trường; mô hình quản lý nhân sự và quản lý nguồn nhân lực; các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng nguồn nhân lực, bao gồm: giải pháp quản 6 lý và sử dụng nguồn nhân lực hành chính nhà nước; giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn nhân lực khu vực sự nghiệp; các giải pháp quản lý và sử dụng nguồn nhân lực cấp doanh nghiệp . Phạm Minh Hạc (2007), Phát triển văn hoá, con người và nguồn nhân lực thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, NXB Chính trị quốc gia. Đây là kết quả nghiên cứu của chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước giai đoạn 2001-2005. Cuốn sách chia làm 12 chương, trình bày những vấn đề mang tính phương pháp luận về văn hoá, con người, nguồn nhân lực, đời sống văn hoá và xu hướng phát triển văn hoá ở những vùng miền khác nhau; đặc điểm con người Việt Nam hiện nay, thực trạng nguồn nhân lực, phương hướng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của đất nước thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Vũ Văn Phúc, Nguyễn Duy Hùng đồng chủ biên (2012), Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, NXB Chính trị quốc gia. Cuốn sách được biên soạn từ các tham luận tại Hội thảo ngày 24 tháng 8 năm 2012 do Tạp chí Cộng sản và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia- Sự thật đồng tổ chức. Cuốn sách được chia làm ba phần trình bày những vấn đề lý luận chung; kinh nghiệm trong nước và quốc tế về phát triển nguồn nhân lực, thực trạng, kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Các tác giả đã đưa ra các giải pháp của phát triển nguồn nhân lực nói chung của nước ta hiện nay, nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng trong các doanh nghiệp nhà nước; vấn đề đào tạo theo nhu cầu của doanh nghiệp; phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa quan hệ lao động; phát triển nguồn nhân lực trong một số ngành như du lịch, đối ngoại, tài chính- ngân hàng. Nguyễn Đăng Thành (2012), Phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, NXB 7 Chính trị quốc gia. Tác giả cung cấp luận cứ lý thuyết và thực tiễn cho nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn vấn đề phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số; các hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số, đồng thời đề xuất hệ quan điểm , giải pháp thúc đẩy sự phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số nước ta đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH. Tác giả đã tìm một hướng tiếp cận hợp lý cho đề xuất quan điểm, giải pháp phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số ở nước ta trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH. Phạm Minh Hạc (2003), Đi vào thế kỷ XXI- phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH đất nước, Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 2, tr 3-7. Bài viết trình bày vấn đề phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh nền kinh tế tri thức đã và đang mang lại những biến động cực kỳ to lớn trong phát triển nguồn nhân lực. PGS,TS. Phạm Thành Nghị (2004), Bối cảnh văn hóa và quản lý nguồn nhân lực, Tạp chí Nghiên cứu con người, số 4. Tác giả đi vào phân tích những đặc điểm văn hóa có ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến nguồn nhân lực của nước ta trong quá trình CNH, HĐH. Cùng với những phân tích về văn hóa và nguồn nhân lực, tác giả còn phân tích làm rõ vấn đề văn hóa và quản lý nguồn nhân lực, đây chính là phần trọng tâm của bài viết. Phần phân tích này tác giả đi vào làm rõ yếu tố văn hóa ảnh hưởng đến quản lý nguồn nhân lực, trong đó đề cập đến sự phụ thuộc của quản lý nguồn nhân lực vào triết lý, cách nhìn nhận của người lao động và văn hóa tổ chức. Để quản lý nguồn nhân lực có hiệu quả theo tác giả cần thay đổi những đặc điểm văn hóa tổ chức và văn hóa chủ thể. Phạm Minh Hạc (2007), Phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực một dòng chảy, Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 6(33). Đây là một bài viết có giá trị lí luận và thực tiễn rất cao, trình bày những suy ngẫm uyên bác 8 về phát triển văn hóa, con người của một nhà khoa học kỳ cựu. Từ việc phân tích những tiềm năng của nguồn lao động trong nước: cơ cấu dân số trẻ, nguồn lao động trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ lớn, trình độ học vấn của nguồn lao động ở nước ta khá cao, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có nhiều tiến bộ, tác giả bài viết khẳng định: để có thể phát triển được nguồn nhân lực thì vấn đề cần đặc biệt chú trọng đó chính là “vốn người” (do dân trí, dân khí, dân năng cùng với tâm lực, trí lực, thể lực hội tụ lại) - yếu tố quan trọng nhất trong nội lực của đất nước. Nói đến làng nghề truyền thống Việt Nam cũng có rất nhiều đề tài nghiên cứu cũng như các sách, tạp chí nghiên cứu, đề cập đến với những nội dung hết sức phong phú và đa dang, cụ thể: GS. Phan Ðại Doãn (2005), Làng xã Việt Nam - Một vấn đề kinh tế - văn hóa - xã hội, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN. Công trình nghiên cứu này của ông đã được Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ năm 2005 gồm các nội dung chính: kết cấu kinh tế; kết cấu xã hội; kết cấu văn hóa và phần tổng luận. Giáo sư đã nhấn mạnh vấn đề cơ bản trong sản xuất của nông dân nước ta từ xưa đến nay là tái sản xuất tiểu nông “tư liệu con người”. Vì vậy, việc di dân, khai hoang lấn biển là việc bức thiết của nông dân ta trước đây. PTS. Dương Bá Phượng (2000), Bảo tồn và phát triển các làng nghề vùng đồng bằng sông Hồng trong quá trình Công nghiệp hóa, đề tài nghiên cứu cấp Bộ. Đề tài nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng, xu hướng vận động và phát triển của các làng nghề vùng đồng bằng sông Hồng, tìm ra những mối quan hệ giữa những yếu tố truyền thống và hiện đại trong tiến trình CNH, HĐH; phát hiện những khó khăn thuận lợi và các tiềm năng phát triển những làng nghề truyền thống ở vùng đồng bằng sông Hồng. Đề xuất các phương hướng, giải pháp bảo tồn và phát triển các làng nghề vùng đồng bằng sông Hồng đại trong tiến trình hóa CNH, HĐH. 9 TS. Nguyễn Thị Phương (2008), “Biến đổi văn hoá ở một số làng thuộc Bắc Ninh trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa hiện nay”, đề tài nghiên cứu cấp bộ. Mục đích cao nhất mà đề tài muốn hướng đến là tìm ra được bản chất và cơ chế của sự biến đổi văn hóa ở ba làng Đồng Kỵ, Trang Liệt (thuộc xã Đồng Quang) và Đình Bảng (thuộc xã Đình Bảng), huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh trong bối cảnh đô thị hóa, công nghiệp hóa hiện nay. Từ đó đưa ra một số gợi ý khoa học về những giải pháp, những định hướng phù hợp cho sự phát triển lâu dài và bền vững ở các làng quê này. PGS,TS. Trần Đức Ngôn (2009), “Văn hóa truyền thống làng xã ngoại thành Hà Nội dưới tác động của nền kinh tế thị trường”- đề tài nghiên cứu cấp bộ. Sau phần mô tả thực trạng, tác giả đã đưa ra “những giải pháp cụ thể”, trong đó có “nhóm giải pháp về kinh tế xã hội” và “nhóm giải pháp về văn hóa”. Những nhóm giải pháp về văn hóa bao gồm: tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức tực giác của người dân; củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ văn hóa cơ sở. Mục “một số kiến nghị” gồm: kiến nghị với UBND thành phố Hà Nội, với các lãnh đạo ngành văn hóa Thông tin, với các đoàn thể xã hội của thành phố Hà Nội. Công trình đã khảo sát thực trạng, nguyên nhân, giải pháp, công trình đã cung cấp một khối lượng phong phú số liệu điều tra mô tả hiện trạng các hiện tượng cụ thể và đề xuất những giải pháp thiết thực. GS,TS. Tô Duy Hợp (1995), “Vài kết quả khỏa sát điều tra xã hội học về năng lực tự quản của công đồng làng xã đồng bằng sông Hồng” tư liệu Hội thảo khoa học do Trung tâm Xã hội, Học viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, tháng 12/1995. Nghiên cứu chủ đề này, GS,TS. Tô Duy Hợp từ hướng tiếp cận xã hội học và với lý thuyết “toàn thể luận khinh trọng” đã dày công nghiên cứu và làm sáng tỏ nhiều đặc điểm cơ cấu và xu hướng biến đổi các quan hệ xã hôi cơ bản trong các kiểu làng xã thuần nông (hay trọng nông), làng nghề 10 (làng bán công), làng hỗn hợp nông - công - thương, vạch rõ các nguyên nhân tác động đổi mới và phân tích các hệ quả kinh tế - xã hội của quá trình đổi mới các quan hệ xã hội cơ bản trong làng xã đồng bằng sông Hồng. TS.Trương Minh Hằng (2007), Gốm sành nâu ở Phù Lãng, Viện Nghiên cứu Văn hóa; Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Tác giả giới thiệu chung về gốm sành nâu. Những phát hiện gần đây nhất của giới khảo cổ học cho biết, có nhiều khả năng là nghề gốm ở Phù Lãng xuất hiện từ thời Trần. Cùng với Bát Tràng và Thổ Hà, Phù Lãng là một trong ba làng gốm nổi danh ở xứ Bắc ngày xưa, cung cấp sản phẩm cho toàn bộ thị trường Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Trong các làng sành nâu ở đồng bằng Bắc Bộ, có lẽ duy nhất chỉ có Phù Lãng sản xuất sành nâu có men. Khái quát diện mạo văn hoá truyền thống làng Phù Lãng trong mối liên quan với nghề gốm sành nâu ở Phù Lãng qua các thời kì lịch sử, các hoạt động xung quanh việc truyền dạy nghề, tổ chức sản xuất và tiêu thụ, các mối giao lưu văn hoá và thị trường buôn bán. Thông qua quá trình sản xuất và các loại hình sản phẩm, tìm hiểu những đặc trưng riêng của nghệ thuật gốm sành nâu Phù Lãng trong tương quan so sánh với các sản phẩm sành nâu của Thổ Hà và Hương Canh. Từ đó đưa ra những biện pháp cụ thể nhằm tham gia tháo gỡ một phần những khó khăn trước mắt và đóng góp ý kiến cho việc bảo tồn, phát huy, phát triển nghề gốm sành nâu truyền thống ở Phù Lãng trong hiện tại và cho tương lai. Tạ Long (chủ biên), Trần Thị Hồng Yến, Nguyễn Thị Thanh Bình đồng thực hiện (2007), “Sự phát triển của Làng nghề La Phù”, NXB Khoa học xã hội. Đề tài đã góp thêm tiếng nói trong việc nghiên cứu làng nghề hiện nay nói riêng và đóng góp vào kho tàng nghiên cứu xã hội học những cứ liệu khoa học trong nghiên cứu làng xã Việt Nam nói chung. Các tác giả tập trung trình bày về các ngành nghề đang phát triển trên đất La Phù; sự xuất hiện của các mô hình tổ chức sản xuất và các thành phần kinh tế, sự tăng trưởng giá trị sản 11 phẩm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hay sự thay đổi về cơ cấu thu nhập bình quân của lao động qua các năm dẫn đến các thay đổi trong cơ cấu xã hội và sự biến chuyển trong quan hệ sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Sự phát triển ngành nghề của các xóm và dòng họ thời kinh tế thị trường những năm gần đây. Tác giả vẽ lên bức tranh văn hoá đang thay đổi trong đời sống của người dân La Phù từ lối sống nông nghiệp sang lối sống công - thương nghiệp. Đề cập đến những đóng góp của La Phù vào ngân sách Nhà nước và sự đầu tư của Nhà nước cho La Phù, cũng như những khó khăn mà La Phù cần phải giải quyết trong việc xây dựng điểm công nghiệp và các đường lối để phát triển khu công nghiệp. Tô Duy hợp, Trần Quý Sửu, Đặng Đình Long (2003), “Định hướng phát triển làng - xã đồng bằng Sông Hồng ngày nay, NXB Khoa học xã hội. Trong công trình này, ngoài những vấn đề lý luận và phương pháp luận về quan hệ giữa dân số và việc làm, việc làm và dân số trong nền kinh tế thị trường nói chung và ở nông thôn trong bối cảnh đô thị hóa nói riêng, tác giả trình bày thực trạng dân số, việc làm ở xã Ninh Hiệp . Nguyễn Trung Quế (2006), “Làng gốm sứ truyền thống Bát Tràng”, Nhà xuất bản Nông nghiệp. Tác giả đã trình bày những điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của làng nghề truyền thống Bát Tràng từ 2000 - 2010. Phan Thanh (2011), ”Văn hóa cổ truyền trong làng - xã Việt Nam hiện nay”, Nhà xuất bản Lao động. Tác giả vận dụng những lý luận về quan hệ biện chứng giữa truyền thống và đổi mới, giữa cổ truyền và hiện đại, về kế thừa di sản văn hóa dân tộc làm cơ sở phương pháp luận nghiên cứu. Tác giả nghiên cứu làng xã với tư cách một cộng đồng văn hóa, mục đích là nhận diện thực trạng và xu hướng biến đổi của văn hóa cổ truyền ở các làng xã trong bối cảnh của xã hội hiện nay, khi đất nước đổi mới, CNH, HĐH và hội nhập quốc 12 tế, nhận diện những nhân tố cơ bản tác động đến xu hướng biến đổi của văn hóa cổ truyền trong xã hội đương đại. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu cca đề tài * Mục đích Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề truyền thống tại quận Hà Đông, Hà Nội. Trên cơ sở đó đề xuất những quan điểm, giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho các làng nghề truyền thống trên địa bàn Quận trong thời gian tới. * Nhiệm vụ Luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển nguồn nhân lực cho các làng nghề truyền thống quận ở Hà Đông trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay. Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực cho các làng nghề truyền thống quận Hà Đông hiện nay. Đề xuất những quan điểm và giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho các làng nghề truyền thống trên địa bàn Quận trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phát triển nguồn nhân lực cho các làng nghề truyền thống. * Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực cho các làng nghề truyền thống ở Quận Hà Đông dưới góc đô ̣ kinh tế chính trị. Thời gian nghiên cứu từ sau khi Hà Tây sáp nhập vào thủ đô Hà Nội năm 2010 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối phát triển kinh tế của 13 Đảng Cộng sản Việt Nam về nguồn lực con người với tư cách là một yếu tố của lực lượng sản xuất, đồng thời là động lực của phát triển kinh tế - xã hội, tham khảo những công trình nghiên cứu trong nước, các bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà nghiên cứu, nhà khoa học có liên quan. * Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên nghành và liên nghành như: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp tổng kết thực tiễn, phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, lô gic - lịch sử, điều tra xã hội học, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế, xin ý kiến các chuyên gia, trao đổi mạn đàm với các tổ chức và lực lượng có liên quan…Tác giả luận văn cũng chú trọng nghiên cứu, phân tích các tư liệu, thông tin từ các nguồn khác nhau của các cơ quan chức năng, các đề tài, tạp chí mà học viên có điều kiện tiếp cận để rút ra các nhận định đánh giá. 6. Ý nghĩa cca đề tài Luận văn góp phần bổ sung, phát triển lý luận về nguồn nhân lực cho làng nghề truyền thống. Sự đánh giá đúng thực trạng cũng như những vấn đề liên quan đến nguồn nhân lực trong các làng nghề truyền thống quận Hà Đông hiện nay là cơ sơ sở hữu ích giúp cho cán bộ lãnh đạo Quận và những độc giả quan tâm đến nguồn nhân lực các làng nghề truyền thống làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu vấn đề này. Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng là nguồn tài liệu tham khảo tin cậy trong giảng dạy môn Kinh tế chính trị, Kinh tế nguồn nhân lực trong các nhà trường cao đẳng, đại học. 7. Kết cấu cca đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục, luận văn có kết cấu 3 chương, 7 tiết. 14 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHO LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở QUẬN HÀ ĐÔNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI 1.1. Những vấn đề lý luận chung về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực làng nghề, nguồn nhân lực làng nghề truyền thống 1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát triển kinh tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con người … Trong các nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính chất quyết định nhất đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay. Một nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng không có những con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó thì khó có khả năng có thể đạt được sự phát triển như mong muốn. Quá trình CNH, HĐH đất nước và ngày nay trong công cuộc hội nhập và phát triển nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng ta luôn xác định: Nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam có truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất - nguồn năng lực nội sinh. Khái niệm “nguồn nhân lực” được sử dụng từ những năm 60 của thể kỷ XX ở nhiều nước phương Tây và một số nước Châu Á, và giờ đây khá thịnh hành trên thế giới dựa trên quan niệm mới về vai trò, vị trí con người trong sự phát triển. Ở nước ta, khái niệm này được sử dụng tương đối rộng rãi kể từ đầu thập niên 90 của thể kỷ XX đến nay. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này chưa có tài liệu nào chính thức đưa ra định nghĩa về khái niệm “nguồn nhân lực”, mặc dù các bài viết về nguồn lực con người cũng không phải là ít. 15 Về mặt lý luận, vai trò quyết định của nguồn nhân lực được chủ nghĩa Mác đặc biệt chú ý và luận giải một cách khoa học. Theo các ông, con người khônghỉ là sản phẩm của tự nhiên và xã hội mà còn là chủ thể tích cực cải biến tự nhiên và xã hội; con người là điểm khởi đầu và điểm kết thúc của mọi quá trình biến đổi lịch sử; con người là yếu tố quan trọng nhất trong LLSX, là LLSX hàng đầu của toàn nhân loại. Hồ Chí Minh, khi nói về vai trò của nhân tố con người cũng đã từng nhấn mạnh: “Muốn xây dựng CNXH phải có những con người XHCN”. Ở góc độ xem con người là cơ sở và động lực của mọi sự phát triển, Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm “Lấy dân làm gốc”. Trong lý luận về LLSX, con người được coi là lực lượng sản xuất hàng đầu, là yếu tố quan trong nhất, quyết định sự vận động và phát triển của LLSX, quyết định quá trình sản xuất và do đó quyết định năng suất lao động và tiến bộ xã hội. Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế thì nguồn lực con người được nhiên cứu, xem xét là một phương tiện chủ yếu của quá trình tăng trưởng và phát triển thương mại, dịch vụ. Bên cạnh đó, trong lý luận về vốn, con người được đề cập đến như một loại vốn “tư bản người”, là một thành tố cơ bản, quan trọng không thể thiếu của quá trình sản xuất và lưu thông. Theo Liên hợp quốc thì “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của cả đất nước”. Kinh tế phát triển cho rằng: nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt: về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định của Nhà nước và thời gian lao động có thể huy động được từ họ; về chất lượng, đó là sức khoẻ và trình độ chuyên môn, kiến thức và trình độ lành nghề của người lao động. 16 Theo Tổng cục thống kê Việt Nam, Nguồn nhân lực gồm những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm nội trợ trong gia đình không có nhu cầu làm việc, những người thuộc các tình trạng khác như nghỉ hưu trước tuổi. Trong cuốc sách “Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”. Tác giả GS.TSKH Lê Du Phong định nghĩa: “Nguồn lực con người được hiểu là tổng hoà trong thể thống nhất hữu cơ giữa năng lực xã hội của con người (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng động của con người. Tính thống nhất đó được thể hiện ở quá trình biến nguồn lực con người thành vốn con người” [47,tr14]. GS.TSKH Phạm Minh Hạc thì cho rằng : “Nguồn lực con người được hiểu là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất” [9, tr328]. Nguồn nhân lực hay còn gọi nguồn lực con người có thể được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động. Từ những quan niệm trên, tiếp cận dưới góc độ của Kinh tế Chính trị có thể hiểu: Nguồn nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng 17 để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước. Sự tổng hòa đó được thể hiện thông qua số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số của toàn bộ con người tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Từ đó, tác giả luận văn hiểu rằng: Nguồn nhân lực là nguồn lực con người, là tập hợp những yếu tố. Nguồn nhân lực được biểu hiện ở trên các khía cạnh sau: Trước hết là số người lao động hay lực lượng lao động (số người trong độ tuổi lao động), là nguồn lao động (đội ngũ lao động hiện có và sẽ có trong tương lai gần). Thứ hai là chất lượng dân số, đặc biệt chất lượng của lực lượng lao động trong hiện tại và tương lai gần (dưới dạng tiềm năng), được phản ánh ở các yếu tố: sức khỏe cơ thể, sức khỏe tâm thần, trình độ giáo dục, trình độ tay nghề, năng lực sáng tạo, khả năng thích nghi, kỹ năng lao động, đạo đức, tư tưởng, tình cảm, lối sống… và sự kết tinh những năng lực, kinh nghiệm truyền thống, hiện đại để tạo ra các giá trị vật chất. Trong đó trí lực, thể lực, đạo đức là yếu tố quan trọng nhất, quyết định chất lượng và sức mạnh của nguồn lực con người. Thứ ba, cơ cấu dân cư và cơ cấu lao động trong các ngành, các vùng, cơ cấu trình độ lao động, cơ cấu độ tuổi trong lực lượng lao động…Cơ cấu dân cư và lao động ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và sức mạnh của nguồn lực con người. Trong thế giới hiện đại, khi nền kinh tế của nhân loại đang dần chuyển sang nền kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra hết sức nhanh chóng thì vai trò quyết định của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế lại càng rõ nét hơn. Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh, ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, yếu tố và cũng là động lực quan trọng nhất của sự 18 tăng trưởng kinh tế của các vùng, các địa phương hay của bất kỳ đơn vị, tổ chức nào chính là nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, tức là nhân lực được đầu tư phát triển, tạo lập kỹ năng, kiến thức, tay nghề kinh nghiệm, năng lực sáng tạo. Chính vì vậy, mỗi địa phương cần xác định phát triển nguồn vốn nhân lực như là yếu tố cạnh tranh cơ bản nhất. 1.1.2. Nguồn nhân lực làng nghề, nguồn nhân lực làng nghề truyền thống Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, con người vừa là điểm khởi đầu vừa là sự kết thúc, đồng thời lại vừa là trung tâm của sự biến đổi lịch sử, nói cách khác con người là chủ thể chân chính của các quá trình xã hội. Con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí, biết sử dụng các nguồn lực khác gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp trong quá trình phát triển sản xuất. Chỉ có lao động mới tạo ra giá trị và là nguồn gốc của mọi của cải trong xã hội. Chính vì vậy, để duy trì hoạt động nghề nghiệp, mỗi làng nghề, do tính chất, đặc trưng nghề nghiệp, đều có những cách thức tổ chức và phân công lao động khác nhau. Nguồn nhân lực dồi dào là một trong những yếu tố cơ bản để hình thành làng nghề. Tại Thông tư 116/2006/TT- BNN ngày 12/6/2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về “Hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn” trong đó quy định làng nghề được công nhận phải đáp ứng 03 tiêu chí sau: (1) Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông; (2) Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận; (3) Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước. Và theo quyết định 85/2009/QĐ-UBND ngày 02/7/2009 của UBND thành phố Hà Nội về Ban hành Quy chế xét công nhận danh hiệu “Làng nghề
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan