Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát triẻn DNNVV trong công nghiệp Tỉnh Thanh Hóa...

Tài liệu Phát triẻn DNNVV trong công nghiệp Tỉnh Thanh Hóa

.PDF
108
244
111

Mô tả:

Phát triẻn DNNVV trong công nghiệp Tỉnh Thanh Hóa
1 Luận văn Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong công nghiệp tỉnh Thanh Hoá 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Là một tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, tiếp giáp với khu vực Tây Bắc và vùng Bắc Lào, lại nằm trên trục hành lang kỹ thuật quốc gia, chịu ảnh hưởng tích cực của khu trọng điểm kinh tế phía Bắc, Thanh Hoá có nhiều lợi thế để phát triển KT-XH bởi không chỉ gắn kết với khu vực Bắc Trung Bộ mà còn mở ra sự liên kết gắn bó với khu vực Bắc Bộ và khu Tây Bắc để cùng phát triển. Với những tài nguyên thiên nhiên phong phú (tài nguyên đất đai, rừng, tài nguyên nước, tài nguyên biển) và nguồn nhân lực dồi dào… đã tạo cho tỉnh những thuận lợi cơ bản có khả năng và điều kiện vươn lên tổ chức sản xuất kinh doanh, trở thành một địa phương có nền kinh tế phát triển của đất nước. Tuy có nhiều thuận lợi, song Thanh Hoá còn còn không ít những thách thức, khó khăn: diện tích miền núi rộng, độ dốc cao, địa hình hiểm trở, thời tiết khí hậu diễn biến bất thường, lũ, bão, lốc xoáy, nắng hạn và rét hại thường xuyên xảy ra. Độ khác biệt giữa các mùa cao, tính chất thời vụ hết sức khắt khe, gây khó khăn lớn cho sản xuất, nhất là sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Bên cạnh đó, trải qua hai cuộc kháng chiến, là căn cứ địa cách mạng nên việc đã động viên sức người, sức của phục vụ tiền tuyến ở mức độ rất cao, lại bị chiến tranh phá hoại khốc liệt nên hậu quả để lại hết sức nặng nề. Hoà bình lập lại, do nằm ngoài vùng trọng điểm nên ít được đầu tư, do đó cơ sở hạ tầng còn yếu kém, trình độ phát triển kinh tế còn lạc hậu, điểm xuất phát thấp, sức hấp dẫn để thu hút đầu tư còn nhiều hạn chế. Ngoài ra, do dân số đông, lao động dồi dào nhưng kỹ năng, kỹ xảo còn thấp và tư tưởng phong kiến của một bộ phận dân cư còn nặng… nên năng lực tiếp cận cơ chế thị trường không cao. Với những yếu tố cơ bản nêu trên, việc hình thành và phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa có nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với loại hình DNN&V trong công nghiệp. Với những đặc điểm trên, việc lựa chọn đề tài "Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong công nghiệp tỉnh Thanh Hoá" làm đề tài nghiên cứu là nhằm góp phần vào việc nghiên cứu xu hướng vận động và tìm giải pháp phát triển 3 doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) trong công nghiệp tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm qua, các vấn đề liên quan tới DNN&V trong công nghiệp đã được nhiều tác giả trong phạm vi cả nước và ở một số địa phương, với mức độ, phạm vi, lĩnh vực khác nhau đã ít nhiều quan tâm nghiên cứu. Có thể điểm đến các đề tài: “Quản lý điều hành DNN&V trong công nghiệp tỉnh Thanh Hoá” do Quốc Cường biên dịch (1994); luận văn thạc sĩ “DNN&V của Nhật Bản” của Đỗ Viết Thẩn (1998); luận văn thạc sĩ “Doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Đồng Nai – thực trạng và giải pháp phát triển” của Nguyễn Thanh Bình (2004); luận án tiến sĩ “Đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước đối với DNN&V ở thành phồ Hồ Chí Minh” của Phan Trung Chính (2003); “Định hướng chiến lược và chính sách phát triển DNN&V ở Việt Nam đến 2010” của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1998); “Báo cáo nghiên cứu hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô và định mức tiếp tục hoàn chỉnh nhằm thúc đẩy sự phát triển của các DNN&V tại Việt Nam” Dự án UNIDO – MPI-US/VIE/95/004 (1991); Dự án “Chính sách hỗ trợ phát triển DNN&V ở Việt Nam" do PGS-PTS Nguyễn Cúc – Học Viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ dự án (1997);... Như vậy, có thể thấy đề tài DNN&V ở Thanh Hoá cho tới nay chưa có ai nghiên cứu dưới góc độ là một đối tượng nghiên cứu của chuyên ngành KTCT, mà chỉ mới được nghiên cứu đơn lẻ trong các chuyên ngành khác. Vì vậy, đề tài này không trùng lắp với các đề tài đã nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn: góp phần hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về DNN&V trong công nghiệp, đồng thời đề xuất phương hướng và giải pháp, kiến nghị nhằm phát triển DNN&V trong công nghiệp tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới. Nhiệm vụ: - Nghiên cứu DNN&V trong công nghiệp. - Nghiên cứu, thực trạng DNN&V trong công nghiệp tỉnh Thanh Hoá từ năm 2000 - 2007. 4 - Nêu phương hướng và đề xuất các giải pháp nhằm phát triển DNN&V trong công nghiệp tỉnh Thanh Hóa đến năm 2007. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong công nghiệp cấp tỉnh. Phạm vi nghiên cứu: Về thời gian: Từ năm 2000 đến 2007. Về không gian: Tỉnh Thanh Hóa. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là dựa trên những quan điểm của Chủ nghĩa chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế, các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đã được công bố liên quan đến đề tài. Phương pháp nghiên cứu: do luận văn thuộc chuyên ngành kinh tế chính trị học nên sử dụng các phương pháp luận chuyên ngành như: phương pháp thống kê - phân loại; phương pháp phân tích; phương pháp so sánh lịch sử; phương pháp tham vấn chuyên gia; phương pháp khảo sát, điều tra bằng anket. 6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài. - Khái quát vấn đề lý luận về DNN&V trong công nghiệp và thực tiễn vận dụng ở Thanh Hoá. - Nêu phương pháp phát triển DNN&V trong công nghiệp tỉnh Thanh Hoá đến năm 2020. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu DNN&V, hoạch định chính sách phát triển DNN&V trong công nghiệp tỉnh Thanh Hóa. - Các DNN&V trong công nghiệp ở Thanh Hóa có thể tham khảo kết quả nghiên cứu của luận văn để xây dựng các giải pháp thích hợp cho sự phát triển của doanh nghiệp. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết. 5 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRONG CÔNG NGHIỆP 1.1. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRONG CÔNG NGHIỆP 1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa Thực tiễn đã chỉ ra rằng, phần đông các doanh nghiệp (DN) lớn đều phát triển từ các DNN&V. Quy luật đi từ nhỏ tới lớn là con đường tất yếu về sự phát triển bền vững và mang tính phổ biến của đại đa số các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Đồng thời, sự tồn tại đan xen và kết hợp các loại quy mô doanh nghiệp đã làm cho nền kinh tế mỗi nước khắc phục được tính đơn điệu, xơ cứng, tạo nên tính đa dạng, phong phú, linh hoạt, vừa đáp ứng được các xu hướng phát triển đi lên và những biến đổi nhanh chóng của thị trường trong điều kiện của cuộc cách mạng KH&CN, đảm bảo tính hiệu quả chung của toàn nền kinh tế. Sự phát triển của KTTT đã làm biến đổi mạnh mẽ nền kinh tế thế giới nói chung ở từng nước, từng khu vực nói riêng. Nhiều mô hình phát triển đã được thử nghiệm và đưa lại thành công bất ngờ, trong đó nổi bật lên vai trò của loại hình tổ chức DNN&V. Bản thân DNN&V cũng có lịch sử tồn tại và phát triển rất lâu dài, và hết sức đa dạng, nó bao gồm nhiều thành phần kinh tế khác nhau như: nhà nước, tập thể, hỗn hợp, tư nhân... Tuy nhiên cho đến nay việc quan niệm như thế nào là DNN&V và các tiêu chí phân loại ở các nước trên thế giới còn rất khác nhau. Trên phương diện quốc tế, hiện nay đang tồn tại một số quan niệm và cách phân loại DNN&V ở một số nước và khu vực. Liên minh châu Âu (EU) đã đưa ra một định nghĩa chung và có hiệu lực áp dụng từ 6/1996: "DNN&V là các DN tư nhân và độc lập (trong đó DN khác sở hữu dưới 25% vốn) sử dụng dưới 250 nhân công. Trong khu vực DNN&V lại có sự phân loại theo các quy mô như sau: DN siêu nhỏ: sử dụng dưới 10 nhân công. DN nhỏ: sử dụng từ 10 - 49 nhân công, có doanh thu hàng năm dưới 7 triệu ECU hoặc 6 tổng cân đối ngân sách dưới 5 triệu ECU. DN vừa: Có từ 50 - 249 nhân công và có tổng doanh thu hàng năm dưới 40 triệu ECU, hoặc tổng cân đối ngân sách dưới 27 triệu ECU [49, tr.70]. Tuy nhiên, ở mỗi nước, ngoài định nghĩa chung của mình còn có các định nghĩa khác nhau tuỳ theo mục tiêu chương trình của các tổ chức và các cơ quan đưa ra. Chẳng hạn như ở Hà Lan, DNN&V là các DN tư nhân và độc lập, có số công nhân dưới 100 người. Còn ở Italia thì cứ DN nào có số công nhân dưới 200 và tổng doanh thu hàng năm dưới 400 triệu ECU thì là DNN&V. Ở Đức, cứ doanh nghiệp nào có các tiêu chuẩn phù hợp với định nghĩa của EU thì là DNN&V. Ngoài ra, ở Italia và Đức còn có các định nghĩa riêng đối với các doanh nghiệp thuộc nghề thủ công. Đó là những doanh nghiệp được gọi là doanh nghiệp thủ công (artisan) ở Italia và (craftsmen) ở Đức. Các doanh nghiệp thủ công phải lựa chọn các hình thức hoặc là sở hữu một chủ hoặc là các hình thức hợp doanh để thành lập công ty và số lượng công nhân phải dưới 18 người (ở Italia). Còn ở Đức, một thợ thủ công được tự do lựa chọn bất kể hình thức pháp lý để thành lập công ty. Tại Mỹ, DNN&V cũng được phân theo các khu vực: Khu vực sản xuất là các doanh nghiệp có số vốn dưới 3,5 triệu USD thì phải có dưới 500 lao động là doanh nghiệp vừa; doanh nghiệp có vốn dưới 1 triệu USD và dưới 250 lao động được gọi là doanh nghiệp nhỏ. Trong khu vực thương mại, dịch vụ thì doanh nghiệp nào có số vốn dưới 3,5 triệu USD và dưới 100 lao động được gọi là DNN&V. Tại Nga, DNN&V được quy định với số vốn dưới 100 triệu rúp (dưới 1 triệu USD) và số lao động dưới 500 người... [48, tr.26]. Trong khu vực châu Á, tại Đài Loan, khái niệm DNN&V bắt đầu được sử dụng trên vùng lãnh thổ này từ 1967. Ngay từ đầu, loại DN này được phân biệt thành 2 nhóm: ngành CN, TTCN và thương mại, vận tải, các dịch vụ khác. Đến 1977 được phân thành 3 nhóm (có thêm ngành khai khoáng). Trong thời gian hơn 30 năm qua, tiêu chí DNN&V ở Đài Loan được điều chỉnh 6 lần theo hướng tăng dần trị số các tiêu chí: trong sản xuất, vốn góp từ 5 triệu lên 40 triệu (đô la Đài Loan), tổng giá trị tài sản từ 20 triệu lên 120 7 triệu, doanh số từ 5 triệu lên 40 triệu. Phân ngành hẹp hơn nhưng bao quát nhiều lĩnh vực hơn. Hiện nay ở Đài Loan người ta quan niệm DNN&V như sau: trong lĩnh vực công nghiệp - xây dựng, DN nào có vốn góp dưới 40 triệu (đô la Đài Loan) tức vào khoảng 1,4 triệu USD, số lao động thường xuyên dưới 500 người là DNN&V. Trong lĩnh vực khai khoáng, DN nào có vốn góp dưới 40 triệu và lao động dưới 500 người. Trong lĩnh vực thương mại, vận tải và dịch vụ khác, đó là DN có tổng doanh số dưới 40 triệu và lao động dưới 50 người [16, tr.20]. Tại Hàn Quốc, theo Sắc lệnh cơ bản của Hàn Quốc về DNN&V, việc phân loại dựa trên quy mô doanh nghiệp được thực hiện theo hai nhóm ngành: ngành chế tạo, khai thác, xây dựng thì các DN vừa là DN có vốn đầu tư dưới 600.000 USD và lao động thường xuyên dưới 300 người. Nếu dưới 20 lao động là DN nhỏ. Trong ngành thương mại, DN có doanh thu hàng năm dưới 250.000 USD và có số lao động dưới 5 người là DN nhỏ, từ 6 - 20 người là DN vừa. Tuy nhiên, có một số trường hợp ngoại lệ với số lao động cao hơn hoặc thấp hơn vẫn là DNN&V [22, tr.2]. Tại Philipin, DNN&V được chia thành 4 loại: doanh nghiệp cực nhỏ và hộ gia đình có vốn dưới 1,5 triệu peso (72.000 USD). Doanh nghiệp nhỏ có vốn từ 1,5 - 15 triệu peso (72.000 - 720.000 USD). Doanh nghiệp vừa có vốn từ 15 - 60 triệu peso (720.000 - 2,9 triệu USD). Doanh nghiệp lớn có vốn trên 60 triệu peso (trên 2,9 triệu USD). Tại Nhật Bản, trong Luật tồn tại hai khái niệm DNN&V và DN cực nhỏ, và tuỳ theo ngành nghề mà DNN&V và doanh nghiệp loại nhỏ được phân loại như sau: doanh nghiệp nào trong khu vực sản xuất có số vốn dưới 1 triệu USD, 300 lao động; trong khu vực thương mại dịch vụ (bán buôn) có số vốn trên 300.000 USD, 100 lao động trở xuống; trong khu vực thương mại dịch vụ bán lẻ có số vốn từ 100.000 USD, 50 lao động trở xuống thì được gọi là DNN&V. Tại Việt Nam, theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 thì “DNN&V là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động hàng năm không quá 300 người”. Như vậy, việc đưa ra khái niệm 8 chuẩn xác về DNN&V ở mỗi nước có sự khác nhau, nhưng đều có ý nghĩa lớn để xác định đúng đối tượng để hỗ trợ (bởi nếu phạm vi quá rộng sẽ không đủ sức bao quát và tác dụng hỗ trợ sẽ giảm, vì hỗ trợ tất cả có nghĩa là không hỗ trợ ai, còn như phạm vi quá hẹp sẽ hạn chế và ít tác dụng trong nền kinh tế). Chính vì vậy, hầu hết các nước rất chú trọng nghiên cứu tiêu thức phân loại. 1.1.2. Phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa Với những khái niệm khác nhau về loại hình DNN&V trên đây, trong việc phân loại thì cũng không có tiêu thức thống nhất để phân loại DNN&V cho tất cả các nước vì điều kiện KT - XH mỗi nước là khác nhau và ngay trong một nước sự phân loại cũng khác nhau tuỳ theo từng thời kỳ (có tính lịch sử), tuỳ theo từng ngành nghề và vùng lãnh thổ... Nhưng xét một cách khái quát, có hai tiêu chí khá phổ biến dùng để phân loại DNN&V là tiêu chí định tính và định lượng. - Nhóm tiêu chí định tính: được xác định là tính năng động, khả năng sáng tạo trong sản xuất, trong sản phẩm và trong thị phần. Nói cách khác là dựa trên những đặc trưng cơ bản của các DNN&V như: tính chất chuyên môn hoá, số đầu mối quản lý, mức độ phức tạp của quản lý... Các tiêu chí này thường có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định trong thực tế. Do đó, nó thường chỉ làm cơ sở để tham khảo, kiểm chứng mà ít được sử dụng để phân loại trong thực tế. - Nhóm tiêu chí định lượng: có thể sử dụng các tiêu chí như: số lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận, kim ngạch xuất khẩu... Trong đó, số lao động có thể là lao động trung bình trong danh sách, lao động thường xuyên, thực tế. Về tài sản hoặc vốn thì có thể dùng tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản cố định, giá trị tài sản còn lại. Về doanh thu thì có thể là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị gia tăng/năm. Nhìn chung, các tiêu chí định lượng để xác định quy mô DNN&V ở các nước rất đa dạng, tuỳ thuộc vào điều kiện của từng nước như các số liệu trình bày ở bảng 1.1. 9 Bảng 1.1 Tiêu chí phân loại DNN&V ở các nước APEC Số TT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Nước Ôxtrâylia Canada Hồng Kông Inđônêxia Nhật Bản Mailaixia Mêhicô Philippin Singapo Đài Loan Thái Lan Mỹ Tiêu chí phân loại Số lao động Số lao động, doanh thu Số lao động Số lao động, tổng số giá trị tài sản, doanh thu Số lao động, vốn đầu tư Doanh thu, tỷ lệ góp vốn Số lao động Số lao động, tổng số giá trị tài sản, doanh thu Số lao động, tổng số giá trị tài sản Số lao động, tổng số giá trị tài sản, doanh thu Số lao động, vốn đầu tư Số lao động [Nguồn: 16, tr.10]. Tuy nhiên, sự phân loại doanh nghiệp theo quy mô lớn, nhỏ và vừa mang tính tương đối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ phát triển kinh tế của một nước, tính chất ngành nghề, vùng lãnh thổ; tính lịch sử; mục đích phân loại... Hiện nay, ở nước ta, trên báo chí và văn bản nhà nước hay một số công trình khoa học thường hay sử dụng khái niệm DNN&V, trong đó hầu hết cho rằng DN vừa là loại hình DN đã định hình trong SX - KD, song cần sự chú ý tạo điều kiện của nhà nước về chính sách, cách quản lý, nguồn nhân lực, KH&CN, vốn, mặt bằng sản xuất để tiếp tục phát triển. Còn khi nói đến DNN&V là chú ý đến việc khuyến khích các hộ sản xuất, nhà kinh doanh khi có điều kiện thì nên đăng ký hoạt động theo mô hình DN, dù là nó là rất nhỏ. Còn theo Công văn số 681/CP-KTN ngày 20/6/1998 của Văn phòng Chính phủ, thì DNN&V là những DN có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng (tương đương 387.600USD vào thời điểm ban hành Công văn số 681/CP-KTN) và có số lao động dưới 200 người. Dựa trên định nghĩa này, một số nhà nghiên cứu đã cụ thể hóa thêm: DN nhỏ là DN có số lao động ít hơn 50 người hoặc có tổng giá trị vốn dưới 1 tỷ đồng; DN vừa là DN có số lao động từ 51 đến 200 người hoặc có tổng giá trị vốn (hoặc doanh thu) từ 1 tỷ đồng đến 5 tỷ đồng; DN lớn là DN có số lao động trên 200 người có tổng giá trị vốn (hoặc doanh thu) trên 5 tỷ đồng. Điều 10 đó có nghĩa là có thể chỉ dùng một tiêu chí là lao động hoặc số vốn, bởi vì hai tiêu chí đó không luôn tương thích với nhau, nhất là trong điều kiện hiện nay, có những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao, số vốn hoặc doanh thu khá lớn nhưng số lao động lại rất ít, vì đó là những lao động có chuyên môn kỹ thuật cao. Ngày 23/11/2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa quy định doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng (tương đương 700.000 USD) hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Tổng hợp cả hai cách định nghĩa trên thì ở Việt Nam hiện nay, khái niệm về DNN&V để chỉ doanh nghiệp có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người [13, tr.2]. 1.2. ĐẠC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRONG CÔNG NGHIỆP 1.2.1. Đặc điểm Đặc điểm về sự ra đời: DNN&V ở Việt Nam có hoàn cảnh ra đời đặc biệt, phải trải qua nhiều biến động, thăng trầm. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp trước đây, các DNN&V thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa được khuyến khích phát triển mà Nhà nước lập lên một hệ thống các DNNN từ TW đến địa phương, nhưng phần lớn là các DNNN cấp tỉnh và cấp huyện (chiếm >50% DNNN), hoạt động không hiệu quả. Tình trạng này kéo dài và cho đến năm 1993, cả nước có trên 12.000 DNNN nhưng trong đó chủ yếu là DNN&V. Sau khi chuyển đổi cơ chế, DNNN và các HTX bước vào quá trình đổi mới, sắp xếp lại hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu, nhưng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trước đây không được khuyến khích thì nay được thừa nhận và phát triển rất mạnh. Mặt khác, DNN&V trong công nghiệp ra đời sớm hơn cùng loại hình này trong lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ. Về vốn và lao động: Trong điều kiện chung của Việt Nam là một nước kinh tế kém phát triển, sản xuất nhỏ là phổ biến, tích lũy nội bộ dân cư còn 11 thấp, chỉ đủ sức đầu tư vào DNN&V kể cả siêu nhỏ (tính toàn bộ nền kinh tế theo tiêu chí mới ở Việt Nam có khoảng >90% là DNN&V) thì DNN&V là loại hình doanh nghiệp có diện rộng, phổ cập, có sức lan tỏa vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội. Nhà nước mới chỉ có định hướng lớn nhằm khuyến khích DNN&V, cơ chế chính sách còn thiếu đồng bộ, nguồn lực tài chính còn hạn chế, nên chủ yếu mới tập trung cho những công trình lớn, doanh nghiệp mà chưa có điều kiện đầu tư cho các DNN&V. Do đó, phần lớn các DNN&V này tự lo liệu là chính và rất thiếu sự hỗ trợ của cộng đồng, nhất là vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp, các trung tâm làm chức năng tư vấn, hỗ trợ, thiếu sự hỗ trợ của doanh nghiệp lớn. Phần lớn DNN&V trong công nghiệp có quy mô nhỏ, phân tán, hình thức hộ cá thể chiếm tỷ trọng lớn về số lượng. Về lao động, một trong các đặc điểm nổi bật là phần lớn các DNN&V trong khu vực ngoài quốc doanh do mới thành lập (trong cả nước chỉ có 5,7% số doanh nghiệp ngoài quốc doanh thành lập trước năm 1990) nên tình trạng lao động (trong đó có cả chủ doanh nghiệp) thiếu kiến thức kinh doanh, chưa quen với thị trường là phổ biến. Số liệu thống kê ở 12 tỉnh, thành cho thấy 42,7% chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh xuất thân từ cán bộ, bộ đội nghỉ hưu, chỉ có 5,3% số chủ hành nghề trước năm 1990 (trước khi có Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty). Nhiều doanh nghiệp tuy thành lập từ lâu nhưng quá quen với cơ chế cũ nên hoạt động rất khó khăn trong cơ chế thị trường [16, tr. 64]. Do phần lớn chủ doanh nghiệp xuất thân từ kinh tế cá thể hoặc từ cán bộ, viên chức Nhà nước do quá trình sắp xếp lại DNNN và tổ chức lại bộ máy Nhà nước nên thường thiếu kiến thức và kinh nghiệm kinh doanh, kém năng động, chưa quen với cách làm ăn lớn trong cơ chế thị trường về số lượng lao động trong DNN&V trong CN thường ít hơn trong nông nghiệp nhưng nhiều hơn trong lĩnh vực thương mại. Như vậy, trình độ phát triển của DNN&V trong công nghiệp thấp cả về công nghệ, kỹ năng lao động và quản lý, chưa đủ trình độ vươn ra các địa bàn trong nước và quốc tế, kinh doanh trên từng địa bàn là chủ yếu. Trình độ xã hội sản xuất và sở hữu của DNN&V trong công nghiệp trong cả nước nói chung, ở Thanh Hóa nói riêng là chưa cao, thể hiện rõ nét nhất là loại hình 12 một chủ vẫn chiếm ưu thế; hình thức công ty, công ty cổ phần còn chiếm tỷ trọng thấp, các hộ kinh tế cá thể làm ăn nhỏ lẻ là phổ biến. Sự liên kết, hợp tác giữa các DNN&V với nhau và với các khu vực kinh tế khác còn hạn chế. Trình độ quốc tế hoá còn thấp do chính sách mở cửa nền kinh tế cho đến nay vẫn chưa được thực hiện triệt để. Các cơ sở này hiện gặp rất nhiều trở ngại trong hoạt động xuất nhập khẩu, liên doanh với nước ngoài, vay vốn nước ngoài và xuất cảnh đi nước ngoài để học tập kinh nghiệm nghiên cứu thị trường. Điều đó càng làm cho các doanh nghiệp lúng túng, thiếu kinh nghiệm và chịu nhiều thua thiệt trong quan hệ với các bạn hàng trong nước và nước ngoài. Trong khi đó ở nước ngoài, nền công nghiệp đã có những bước phát triển lớn, đầu tư chiều sâu, áp dụng công nghệ hiện đại và công nghệ cao, chuyển từ cơ khí hoá sang tự động hoá, điện tử hoá, tin học hoá cao độ, chuyển sang nền kinh tế tri thức thì hàm lượng chất xám trong hàng hoá là rất cao. Về cơ cấu ngành nghề: Các DNN&V có xu hướng tập trung vào các ngành nghề, lĩnh vực cần ít vốn, thu hồi vốn nhanh, lãi suất cao như thương mại, dịch vụ... Chỉ có khoảng 30% vốn đầu tư ban đầu vào sản xuất công nghiệp và trong công nghiệp cũng chỉ tập trung vào chế biến nông sản, thực phẩm và sản xuất hàng tiêu dùng. Sự phân bố các doanh nghiệp này cũng không đồng đều, phần lớn tập trung ở các đô thị lớn, các trung tâm lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh và ở các vùng nơi có làng nghề truyền thống như: Bắc Ninh, Nam Định, Đồng Nai, Bình Dương... Có nghĩa là, sự phấn bố nêu trên chỉ tập trung vào những vùng mà cơ sở hạ tầng thuận lợi, dân cư đông đúc trong một số ngành có tỷ suất sinh lãi cao. Bên cạnh đó, quy mô của doanh nghiệp còn nhỏ bé, cơ cấu còn bất hợp lý, dàn trải, chồng chéo cả về ngành nghề và tổ chức quản lý: theo thống kê cả nước có 5.655 DNNN (tính đến 5/2001) với tổng số vốn Nhà nước khoảng 126.030 tỷ VNĐ (không tính giá trị quyền sử dụng đất), bình quân 22,2 tỷ VNĐ/1 DN. Số DN có vốn dưới 5 tỷ VNĐ chiếm 59,8% (trong đó số DN có vốn dưới 1 tỷ VNĐ chiếm 18,2%). Tại 14 tỉnh loại DN này chiếm trên 90% và chủ yếu trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ. 13 Về hình thức sở hữu: Phần lớn DNN&V ở Việt Nam là những doanh nghiệp đơn sở hữu, do đó bị hạn chế về khả năng huy động vốn, về thị trường, khả năng quản lý. Hầu hết các doanh nghiệp thiếu vốn SX - KD, huy động chính thức chỉ đạt 25%. Sở dĩ có tình trạng này là do sự yếu kém về năng lực tài chính, năng lực lập dự án, không đủ tài sản thế chấp, mức độ rủi ro cao. Trình độ công nghệ lạc hậu, thủ công. Ví dụ: Ở TP. Hồ Chí Minh là trung tâm công nghiệp lớn của cả nước nhưng tốc độ đổi mới cũng chỉ đạt 10% (bảng 1.2), trong khi đó ở các nước công nghiệp phát triển là trên 15%. Trong đó, khối DNNN có 11,4% được đánh giá là có trình độ công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại nhưng có tới 35,5% ở trình độ lạc hậu, còn khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì tỷ lệ tương ứng là 6,7% và 66,3% (trong đó chỉ có 19,4% công ty cổ phần, TNHH được đánh giá ở trình độ hiện đại). Bảng 1.2 Trình độ công nghệ của các DNN&V ở TP. Hồ Chí Minh Đơn vị tính: % Loại hình DN 1. DNNN 2. DN.NQD - CTCP, TNHH - DN tư nhân - HTX - Tổ hợp, cá thể - Tính chung Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị Hiện đại Trung bình Lạc hậu 11,4 53,1 35,5 6,7 27,0 66,3 19,4 54,8 25,8 30,0 20,3 50,0 16,7 33,3 50,0 3,6 22,8 73,6 10,0 22,8 52,0 Nguồn: [35, tr.17]. Bên cạnh đó, do tính lịch sử của quá trình hình thành và phát triển các thành phần kinh tế nên phần lớn các DNN&V theo quy định của Chính phủ đều thuộc về khu vực ngoài quốc doanh. Bởi vậy, đặc điểm và tính chất của các doanh nghiệp thuộc khu vực này có thể mang tính đại diện cho DNN&V ở Việt Nam. Chẳng hạn: các con số thống kê về tỷ trọng GDP, đóng góp trong cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng hàng năm, số lao động, vốn, đặc điểm về công nghệ, thiết bị sử dụng, trình độ quản lý... cho đến nay chủ yếu tổng kết cho khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh chứ chưa có số liệu điều tra chính thức riêng biệt cho toàn bộ DNN&V ở Việt Nam. Các DNN&V chủ 14 yếu bao gồm các loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty TNHH. Vị trí và tốc độ, xu hướng phát triển của các doanh nghiệp này rất khác nhau. Hơn nữa, các DNN&V tồn tại và phát triển trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam với nhiều hình thức sở hữu đa dạng, nhiều thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp này vừa hợp tác bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật, trong đó DNNN giữ vai trò chủ đạo cùng với sự lớn mạnh của các HTX sẽ làm nền tảng cho sự phát triển của các DNN&V theo định hướng XHCN nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Về sự đóng góp vào hoạt động KT - XH: DNN&V có vị trí, vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước, kể cả các nước có trình độ phát triển cao. Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu gay gắt như hiện nay, các nước đều chú ý hỗ trợ các DNN&V nhằm huy động tối đa các nguồn lực và hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm. 1.2.2. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa Lý luận và thực tiễn đều cho thấy vai trò của DNN&V đã được khẳng định. Ở Việt Nam, DNN&V cũng chiếm khoảng 95% trong tổng số các doanh nghiệp. Hơn nữa, nó có mặt liên kết trong các ngành nghề, lĩnh vực và tồn tại như một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế mỗi nước, là bộ phận hữu cơ gắn bó chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn, có tác dụng hỗ trợ, bổ sung, thúc đẩy các doanh nghiệp lớn phát triển. Kể từ khi đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế nói chung và ngành công nghiệp nói riêng, trong đó có sự đóng góp quan trọng của khối DNN&V trong công nghiệp. Vai trò của các doanh nghiệp này trong công nghiệp thể hiện ở các khía cạnh sau đây: Một là, góp phần đáng kể vào sự phát triển và ổn định KT-XH: Việc phát triển DNN&V trong công nghiệp đã có những đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, đặc biệt đối với những nước có trình độ phát triển thấp như Việt Nam thì giá trị gia tăng hoặc GDP do các DNN&V tạo ra hàng năm 15 chiếm tỷ trọng khá lớn, đảm bảo thực hiện những chỉ tiêu cơ bản của nền kinh tế (xem bảng 1.3). Bảng 1.3 Vai trò DNN&V trong nền KTQD ở một số nước Đơn vị tính: % Số TT Tên nước và vùng lãnh thổ 1 2 3 4 5 6 7 Đức Pháp Mỹ Thái Lan Đài Loan Hàn Quốc Việt Nam DNN&V trong tổng số DN 97,6 98,2 98,0 80,0 98,0 93,2 94,1 Giá trị sản lượng của DNN&V trong tổng giá trị sản lượng nền KTQD 45,5 52,0 50,0 52,0 52,0 50,2 48,2 Lao động trong DNN&V trong lực lượng lao động các DN 75,0 73,5 78,0 80,0 71,0 77,8 89,7 Nguồn: [32, tr.36]. Với những ưu điểm như: dễ thành lập DN (vì đòi hỏi ít vốn, cần ít diện tích sản xuất tập trung, có khả năng sản xuất phân tán, các điều kiện sản xuất đơn giản... tạo ra khả năng phát huy được lợi thế về giảm đầu tư ban đầu cho cơ sở vật chất, tận dụng các nguồn lực phân tán; đồng thời cũng tạo ra tính linh hoạt cao trong tổ chức sản xuất), quy mô nhỏ (nên khả năng linh hoạt cao, dễ thích ứng với sự biến động của thị trường, thể hiện qua khả năng chuyển đổi mặt hàng nhanh, phù hợp với yêu cầu của thị trường), dễ dàng đổi mới trang thiết bị, công nghệ (hiện nay, nhờ sự phát triển của tiến bộ khoa học – công nghệ mới, tạo ra khả năng to lớn cho việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động sản xuất kinh doanh của DN để có thể đạt năng suất và chất lượng cao), các DNN&V sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có mức độ rủi ro cao, có thể sản xuất những sản phẩm có chất lượng tốt ngay cả khi điều kiện sản xuất – kinh doanh có nhiều hạn chế. Hai là, DNN&V trong công nghiệp cung cấp cho xã hội khối lượng hàng hóa đáng kể, đáp ứng tốt các nhu cầu nhỏ lẻ của thị trường. Năm 1993, DNN&V ở nước ta tạo ra trên 25% giá trị sản lượng công nghiệp và chiếm 54% giá trị của công nghiệp địa phương, chiếm 78% tổng mức bán lẻ, 61% tổng lượng vận chuyển hàng hóa. Trong nhiều ngành nghề như: chế biến gỗ, 16 chiếu cói, giày dép, thủ công mỹ nghệ... DNN&V chiếm gần 100% sản phẩm. [16, tr.31]. Ba là, DNN&V trong công nghiệp thu hút nhiều lao động, giải quyết nhiều việc làm với chi phí đầu tư thấp (chi phí trung bình để tạo ra một chỗ việc làm chỉ bằng 1/3 - 1/5 so với doanh nghiệp lớn). Tác động KT - XH lớn nhất của các DNN&V là giải quyết một số lượng lớn việc làm cho dân cư, làm tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo. Đặc biệt trong thời kỳ, các DN lớn sa thải công nhân thì khu vực DNN&V trong công nghiệp lại thu hút số lao động này hoặc có tốc độ thu hút lao động mới cao hơn hẳn khu vực DN lớn. Ở Việt Nam, theo đánh giá của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, thì lao động của các DNN&V trong các khu vực phi nông nghiệp hiện có khoảng 7,8 triệu người, chiếm 79,2% tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm 22,5% lực lượng lao động của cả nước [24, tr. 6]. - DNN&V trong công nghiệp là nơi trực tiếp sản xuất một khối lượng sản phẩm tương đối lớn đáp ứng cho nhu cầu của xã hội, làm giảm bớt áp lực cầu của thị trường, đồng thời đóng góp vào ngân sách Nhà nước. Theo kết quả điều tra cho thấy: 88,5% ý kiến cho rằng các DNN&V góp phần tích cực vào vấn đề giải quyết việc làm, tăng thu nhập; 83,9% cho rằng DNN&V đã làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn và 63,2% đồng ý rằng các doanh nghiệp này đã góp phần phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh Việt Nam (bảng 1.4). Bảng 1.4 Vai trò của DNN&V qua kết quả điều tra Vai trò 1. Góp phần tăng trưởng kinh tế 2. Tạo việc làm, thu hút vốn, tăng thu nhập 3. Làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn 4. Góp phần phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh Việt Nam Tỷ lệ ý kiến (%) 51,7 88,5 83,9 63,2 Nguồn: [16, tr.32]. Bốn là, đa dạng hóa và tăng thu nhập của dân cư một cách ổn định, thường xuyên. Kết quả điều tra cho thấy, thu nhập của dân cư vùng có DNN&V phát triển gấp 4 lần thu nhập của vùng thuần nông. Như vậy, với sự phát triển mạnh của các DNN&V sẽ góp phần giảm bớt chênh lệch về thu 17 nhập giữa các bộ phân dân cư, tạo ra sự phát triển tương đối đồng đều giữa các vùng và cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau. Năm là, khai thác, phát huy các nguồn lực và tiềm năng tại chỗ của các địa phương, các nguồn tài chính của dân cư các vùng. Hiện nay, theo đánh giá của các chuyên gia thì tiềm năng trong dân còn rất lớn chưa được khai thác (như tiềm năng về trí tuệ, tay nghề tinh xảo, lao động, vốn, điều kiện tự nhiên, bí quyết nghề, quan hệ huyết thống, làng nghề với những hương ước nghề nghiệp). Hiện cả nước có khoảng 1.400 làng nghề, trong đó 2/3 là làng nghề truyền thống. Việc phát triển các DNN&V ở các ngành nghề truyền thống trong nông thôn hiện nay là một trong những hướng quan trọng để sử dụng tay nghề tinh xảo của các nghệ nhân mà hiện nay đang có xu hướng mai một dần, đồng thời thu hút lao động nông thôn phát huy lợi thế từng vùng, nhằm phát triển kinh tế - xã hội. Sáu là, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. DNN&V trong công nghiệp góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp - một vấn đề hết sức nan giải và bức thiết khi mà sự phát triển của khoa học - công nghệ cùng với việc đẩy mạnh việc sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước đã dôi ra một số lượng lớn lao động. Các DNN&V trong công nghiệp có khả năng tạo ra việc làm với mức đầu tư thấp và chủ yếu là vốn của dân mà lẽ ra Nhà nước phải tốn rất nhiều vốn đầu tư để giải quyết việc làm cho số lao động dôi dư này. Việc giải quyết có hiệu quả vấn đề thất nghiệp sẽ dẫn đến giảm bớt các tệ nạn xã hội và tạo ra phát triển hài hoà cho nền kinh tế. Phát triển DNN&V cũng có nghĩa là phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn, xóa dần tình trạng thuần nông và độc canh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Hơn nữa, sự phát triển DNN&V sẽ làm cho cơ cấu của thành phần kinh tế thay đổi, các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên nhanh chóng, các DNNN được sắp xếp và củng cố lại, kinh doanh có hiệu quả để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Đối với cơ cấu ngành, việc phát triển nhiều ngành, nghề đa dạng, phong phú (cả ngành nghề hiện đại và truyền thống) theo hướng lấy hiệu quả KT - XH làm thước đo. Trong cơ cấu lãnh 18 thổ, các doanh nghiệp được phân bố đều hơn về lãnh thổ (cả nông thôn và thành thị, miền núi và đồng bằng). DNN&V trong công nghiệp góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý theo hướng kinh tế thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế. Sự tham gia với mức độ ngày càng lớn của khối DNN&V trong công nghiệp vào các ngành sản xuất công nghiệp đã tác động mạnh mẽ đến các quá trình CNH, HĐH. Tuy nhiên, hiện nay các DNN&V vẫn chủ yếu tập trung ở các đô thị lớn. Đây là vấn đề cần lưu tâm trong việc hoạch định chính sách. Bảy là, cùng với sự phát triển các DNN&V là sự xuất hiện ngày càng nhiều hơn các nhà kinh doanh chủ yếu là trong công nghiệp. Đây là lực lượng rất cần thiết để góp phần thúc đẩy sản xuất - kinh doanh ở Việt Nam phát triển. Hiện nay đội ngũ các nhà kinh doanh ở nước ta còn khiêm tốn cả về số lượng và chất lượng do ảnh hưởng của cơ chế cũ để lại. Do đó, sự phát triển của các DNN&V có tác dụng đào tạo, thử thách, chọn lọc qua thực tế đội ngũ các nhà sản xuất - kinh doanh. DNN&V trong công nghiệp là nơi đào tạo và sàng lọc các nhà quản lý doanh nghiệp thông qua thực tiễn sản xuất - kinh doanh, góp phần xây dựng một đội ngũ các doanh nhân, lực lượng cán bộ quản lý doanh nghiệp có chất lượng cao cho đất nước. Cơ chế quản lý mềm dẻo trong các DNN&V trong công nghiệp cũng tạo điều kiện cho sự phát triển năng lực của người lao động, từng bước thực hiện công bằng xã hội. Kết quả điều tra cho thấy 63,2% ý kiến cho rằng, các DNN&V có vai trò trong việc phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh Việt Nam. Tám là, tạo môi trường cạnh tranh thúc đẩy sản xuất - kinh doanh phát triển có hiệu quả hơn. Sự tham gia của rất nhiều DNN&V vào sản xuất - kinh doanh làm cho số lượng và chủng loại hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế tăng lên rất nhanh. Kết quả là làm tăng tính chất cạnh tranh trên thị trường, tạo ra sức ép lớn buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên tự đổi mới, giảm chi phí, tăng chất lượng để thích ứng với môi trường mới. Những yếu tố đó tác động lớn làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, DNN&V trong công nghiệp là khu vực có khả năng khai thác và thu hút vốn trong dân, đây là nguồn vốn còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác. 19 Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghiệp, thể khai thác tối đa các tiềm năng của xã hội cho đầu tư phát triển. Quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới ngày càng mở rộng và phát triển. Theo kế hoạch đến năm 2006, khi chúng ta chính thức thực hiện cam kết AFTA thì tỷ lệ thuế nhập khẩu chỉ còn 0 - 5% không còn bảo hộ. Như vậy, việc cạnh tranh tăng lên đến mức độ gay gắt chính là thách thức lớn đối với DNN&V của Việt Nam. Trong bối cảnh đó, định hướng phát triển DNN&V với công nghệ hiện đại theo hướng CNH, HĐH nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, tham gia cạnh tranh, giải quyết việc làm, phát triển nông thôn cũng như tạo sự phát triển đồng đều giữa các vùng là nhiệm vụ hết sức cần thiết và cấp bách, đảm bảo sự phát triển lâu dài, bền vững, công bằng. Trong quá trình mở cửa nền kinh tế, từng bước hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, các DNN&V trong công nghiệp có thể thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ sản xuất và là người bạn đồng hành tạo ra sự tin tưởng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Với những lợi ích to lớn trên, việc khuyến khích và hỗ trợ các DNN&V là vấn đề rất quan trọng để thực hiện chiến lược phát triển KT - XH đến năm 2010. Đặc biệt là thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực kinh tế và tự do thương mại như hiện nay, phát triển DNN&V cũng cần thấy ưu thế và hạn chế của DNN&V để có những giải pháp thích hợp. Những hạn chế: Nhìn chung, DNN&V trong công nghiệp ở Việt Nam thường gặp khó khăn trong đầu tư công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu lớn, từ đó ảnh hưởng tới năng suất, chất lượng và hiệu quả. Khả năng cạnh tranh thấp do tiềm lực tài chính hạn chế. Khả năng việc đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, đầu tư cho nghiên cứu, thiết kết cải tiến công nghệ – thiết bị, đổi mới sản phẩm còn hạn hẹp, do đó khó nâng cao năng suất và hiệu quả kinh doanh. Bên cạnh đó, các DNN&V thường bị động trong quan hệ thị trường, khả năng tiếp thị cũng như trong việc thiết lập và mở rộng hợp tác với bên ngoài. Trong nhiều trường hợp thường bị động và phụ thuộc vào hướng phát triển của các doanh nghiệp lớn và tồn tại như một bộ phận của doanh nghiệp lớn. 20 Ngoài ra, do nền kinh tế nước ta còn kém phát triển, đặc biệt là trong giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường, do trình độ quản lý Nhà nước còn hạn chế nên các DNN&V càng bộc lộ những khiếm khuyết của nó trong hoạt động sản xuất – kinh doanh như: trốn lậu thuế, trốn đăng ký kinh doanh hoặc kinh doanh không đúng đăng ký, làm hàng giả, hàng kém chất lượng... 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển doanh nghiệp công nghiệp Việc phát triển DNN&V trong công nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta phụ thuộc vào những nhân tố cơ bản sau: 1.2.3.1. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế và đường lối phát triển kinh tế của Việt Nam Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, giữa các thành phần kinh tế ở mỗi quốc gia. Sự gia tăng của xu thế này được thể hiện ở sự mở rộng phạm vi và qui mô mậu dịch thế giới, sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu. Xu thế toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là nhân tố tác động mạnh mẽ đến sự phát triển DNN&V trong công nghiệp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Hội nhập quốc tế tạo ra những vận hội mới cho sự phát triển kinh tế nước nhà, cũng như tạo ra nhiều cơ hội cho các DNN&V trong công nghiệp. Quan điểm của Đảng và Nhà nước có ý nghĩa tiên quyết đối với sự tồn tại và phát triển của DNN&V trong công nghiệp nói riêng và doanh nghiệp nói chung. Đổi mới cơ chế kinh tế, hoàn thiện quan hệ sản xuất để phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, giải phóng sức sản xuất của các thành phần kinh tế là một thành công lớn của Đảng ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Với những đổi mới trong tư duy lý luận, cơ chế và chính sách, Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước và cả doanh nghiệp liên doanh, liên kết với nước ngoài; khuyến khích mọi người tham gia kinh doanh, phát triển sản xuất, mọi thể nhân có khả năng về vốn, kỹ thuật, công nghệ đều được phép thành lập doanh nghiệp và hoạt động sản xuất kinh doanh theo pháp luật.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan