Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản ở thành phố hồ chí minh...

Tài liệu Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản ở thành phố hồ chí minh

.PDF
71
136
86

Mô tả:

LUẬN VĂN: Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản là một trong những nội dung quan trọng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thực tiễn chỉ ra rằng, một số nước trên thế giới nhờ tiến hành phát triển công nghiệp chế biến (các nước đi trước như Anh, Pháp, Mỹ, Đức... các nước đi sau như Nhật Bản, Đài Loan, Singapore...) đã thúc đẩy các ngành kinh tế quốc dân, đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. Việc nghiên cứu tiếp cận công nghiệp chế biến của các nước này để tìm ra phương hướng, giải pháp phát triển công nghiệp chế biến nông lâm hải sản ở Việt Nam là việc làm cần thiết. Trong những năm gần đây, nhất là khi phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, công nghiệp chế biến ở nước ta có vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội. Một số sản phẩm của công nghiệp chế biến nông lâm hải sản có giá trị xuất khẩu tăng như chè, cà phê, cao su, thủy hải sản... thu được nguồn ngoại tệ lớn. Tuy vậy, ngành công nghiệp chế biến nông lâm hải sản có những hạn chế như chất lượng chế biến nông sản chưa cao, khả năng cạnh tranh trên thị trường còn thấp. Khắc phục những điều này chính là lời giải thiết thực đối với công nghiệp chế biến nói chung và ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố công nghiệp ở miền Nam, là chỗ dựa cho các tỉnh đồng bằng Nam bộ, cực Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Là một thành phố công nghiệp lớn, do vậy thành phố Hồ Chí Minh phải nỗ lực xây dựng, phát triển các ngành công nghiệp của thành phố, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Làm được điều này không những kinh tế thành phố Hồ Chí Minh phát triển, đời sống nhân dân thành phố Hồ Chí Minh được nâng cao, mà còn thúc đẩy kinh tế các tỉnh phía Nam và kinh tế cả nước. Vì vậy, tôi chọn đề tài " Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh " làm luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu Trong các văn kiện của Đại hội Đảng, việc phát triển nông nghiệp toàn diện luôn chú trọng đến công nghiệp chế biến. Trên các tạp chí nghiên cứu, cho đến nay có một số bài viết của các nhà nghiên cứu về công nghiệp chế biến nông sản: Công nghiệp chế biến thực phẩm ở Việt Nam của GS. TS Ngô Đình Giao, Phát triển công nghiệp chế biến, một biện pháp thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế của TS Nguyễn Trung Quế... Trong đề tài này, chúng tôi phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra đối với công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh trong những năm tới. 3. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích những đặc điểm và thực trạng của công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh, tìm ra những giải pháp để phát triển hơn nữa doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm sản của thành phố trong những năm tới. Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Phân tích có hệ thống lý luận về ngành công nghiệp chế biến nói chung và ngành công nghiệp chế biến nông lâm hải sản nói riêng. - Tìm hiểu thực trạng công nghiệp chế biến nông lâm hải sản và những vấn đề bức xúc ở thành phố Hồ Chí Minh. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát triển doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông lâm sản của thành phố trong những năm tới. 4. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động của ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản tại thành phố Hồ Chí Minh, để đề xuất những giải pháp phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận Luận án được hình thành trên cơ sở nhận thức những quan điểm lý luận của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước, tham khảo và tiếp thu có chọn lọc những ý kiến của các nhà kinh tế học và các nhà hoạt động kinh tế thực tiễn qua những bài viết trên các tạp chí, tham khảo kinh nghiệm của những nước có điều kiện tương tự, khái quát tình hình hoạt động của các công ty, xí nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm sản trong cả nước và ở thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu kinh tế - chính trị, chú ý vận dụng tổng hợp các phương pháp so sánh, phân tích, thống kê, nghiên cứu điển hình, phương pháp hệ thống, tổng kết thực tiễn và khái quát vấn đề. 6. Những đóng góp của luận văn - Phân tích làm rõ hơn vai trò của công nghiệp chế biến trong quan hệ giữa sản xuất nguyên liệu, chế biến nông, lâm sản và tiêu thụ nông, lâm sản chế biến. - Trình bày thực trạng ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh và nêu bật những vấn đề búc xúc cần giải quyết. - Bước đầu đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương. Chương 1 Công nghiệp chế biến nông, lâm sản và vai trò của nó trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung 1.1. Công nghiệp chế biến và vai trò của công nghiệp chế biến đối với sự phát triển nông, lâm nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung 1.1.1. Khái niệm về công nghiệp chế biến nói chung và công nghiệp chế biến nông, lâm sản nói riêng Theo quan điểm của Mác, một trong những nguyên nhân để sản xuất hàng hóa ra đời thì phải có sự phân công lao động xã hội. Sự phân công xã hội là cơ sở của kinh tế hàng hóa. Công nghiệp chế biến tách khỏi công nghiệp khai thác và mỗi công nghiệp đó lại chia thành nhiều loại như chế tạo sản phẩm này hay sản phẩm khác dưới hình thức hàng hóa và đem đi trao đổi với tất cả các ngành sản xuất khác. Như vậy, kinh tế hàng hóa phát triển thì đi đến chỗ làm tăng thêm số lượng các công nghiệp riêng biệt và độc lập, xu hướng của sự phát triển này nhằm biến việc chế tạo sản phẩm riêng, mà các việc chế biến từng bộ phận của sản phẩm thành một ngành công nghiệp chế biến riêng biệt [8, 21-27]. C. Mác chia sản phẩm do xã hội sản xuất thành hai loại: tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nền sản xuất xã hội được chia thành hai khu vực: sản xuất tư liệu sản xuất và sản xuất tư liệu tiêu dùng. Phát triển quan điểm của C. Mác, Lênin khi phân tích khu vực của nền sản xuất xã hội, đã phân chia các ngành của nền kinh tế thành ba nhóm: - Các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu sản xuất. - Các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu tiêu dùng. - Các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng. Với cách chia như trên, công nghiệp chế biến nông, lâm sản thuộc nhóm thứ ba. Trong quá trình chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta, để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, việc phân loại các ngành trong nền kinh tế quốc dân trong đó có ngành công nghiệp, đã được tiếp cận theo quan điểm mới. Theo Nghị định 75 CP ngày 27/10/1993 của Chính phủ về ban hành hệ thống ngành kinh tế quốc dân cấp I và Quyết định 143-TCKT/PPGĐ ngày 22/12/1993 của Tổng cục Thống kê ban hành và hướng dẫn việc thi hành hệ thống ngành kinh tế cấp II, cấp III và cấp IV thì các ngành công nghiệp trước đây, nay được tách ra thành bốn nhóm ngành, cấp I gồm: công nghiệp khai thác mỏ, công nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước và xây dựng. Với cách phân loại này, công nghiệp chế biến là một ngành kinh tế độc lập, bao gồm nhiều lĩnh vực sản xuất như công nghiệp thực phẩm, công nghiệp dệt và may mặc, công nghiệp đồ gỗ, công nghiệp giấy và in, công nghiệp hóa dầu, công nghiệp luyện kim, chế biến các khoáng sản không phải kim loại, công nghiệp chế tạo máy và công cụ kim khí. Từ quan niệm nói trên về công nghiệp chế biến, có thể hiểu công nghiệp chế biến nông, lâm sản là một bộ phận hợp thành của công nghiệp thực hiện các hoạt động bảo quản, giữ gìn, cải biến và nâng cao giá trị sử dụng của nguyên liệu từ nông, lâm, ngư nghiệp thông qua quá trình cơ nhiệt hóa nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường. Qua khái niệm trên, công nghiệp chế biến nông, lâm sản gồm hai giai đoạn: - Giai đoạn 1: Sơ chế bảo quản. Giai đoạn này được tiến hành ngay sau khi thi hoạch, nằm ngoài xí nghiệp chế biến, chủ yếu sử dụng lao động thủ công với phương tiện bảo quản và vận chuyển chuyên dùng. Nó quyết định mức độ tổn thất sau thu hoạch và chất lượng nguyên liệu đưa đến xí nghiệp chế biến. Đây là giai đoạn quan trọng có ý nghĩa xác định thứ hạng sản phẩm ở giai đoạn sau. Nó bao gồm những công việc cụ thể như phơi sấy, lựa chọn, lưu kho... - Giai đoạn 2: chế biến công nghiệp. Giai đoạn này diễn ra trong các xí nghiệp công nghiệp chế biến. Nó sử dụng lao động kỹ thuật cùng với máy móc, thiết bị công nghệ cần thiết. Đây là giai đoạn có ý nghĩa quyết định mức độ chất lượng sản phẩm chế biến và mức độ tăng giá trị của sản phẩm. Như vậy, ta có thể hiểu công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản là một bộ phận của ngành công nghiệp chế biến, ngành công nghiệp dùng nguyên liệu nông nghiệp (nông sản, lâm sản), thực hiện các hoạt động bảo quản, giữ gìn, cải biến và nâng giá trị sử dụng của nguyên liệu nông, lâm nghiệp, nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường, tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm nông, lâm nghiệp, đem lại hiệu quả kinh tế cao. So với công nghiệp khai thác và các ngành công nghiệp chế biến khác, công nghiệp chế biến nông, lâm sản có một số đặc điểm riêng chi phối đến việc xác định vai trò và quan điểm phát triển, quản lý ngành, đó là: - Sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản ngày càng được nhiều người sử dụng. Do đó có nhiều yếu tố khác nhau (tâm lý tiêu dùng, tập quán tiêu dùng, thu nhập tăng, tiến bộ khoa học công nghệ và tác động của các yếu tố gây ô nhiễm môi trường), nên hiện đang có hai xu hướng tiêu dùng tác động mạnh mẽ tới công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Thứ nhất, xu hướng tăng cường sử dụng các loại sản phẩm sạch. Thứ hai, tăng cường sử dụng các loại thực phẩm đã qua chế biến công nghiệp. Hai xu hướng này làm cho các vấn đề về vệ sinh, về đảm bảo chất lượng, thời hạn sử dụng, về việc sử dụng các loại hóa chất trong quá trình chế biến được chú trọng hơn, người tiêu dùng đòi hỏi khắt khe hơn, do đó, sản xuất công nghiệp theo hướng hiện đại cũng phải phát triển mới đáp ứng được nhu cầu. - Tính đồng bộ liên ngành trong phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản thể hiện rất rõ, đặc biệt là gắn bó giữa các cơ sở chế biến công nghiệp với sự phát triển nông, lâm nghiệp. Nguyên liệu chính, chiếm tỷ trọng cao trong giá trị sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản (thường từ 70 - 80% giá thành sản phẩm), là những sản phẩm của ngành nông, lâm nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, khai thác và hầu hết được sản xuất trong nước. Vì vậy, quy mô, tốc độ phát triển, cơ cấu của công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản phụ thuộc rất lớn vào quy mô, tính chất và trình độ phát triển của sản xuất nông, lâm nghiệp. Nhưng mặt khác, do việc chế biến các sản phẩm của nông, lâm nghiệp, nên công nghiệp chế biến nông, lâm sản lại là ngành bảo đảm đầu ra cho sản xuất nông, lâm nghiệp tạo động lực cho nông, lâm nghiệp phát triển, do vậy, công nghiệp chế biến được coi là thị trường trực tiếp của nông, lâm nghiệp. Chính tác động này của công nghiệp chế biến nông, lâm sản tạo điều kiện cho sản xuất phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. 1.1.2. Vai trò của công nghiệp chế biến với sự phát triển nông, lâm nghiệp nói riêng và kinh tế - xã hội nói chung Quá trình của công nghiệp chế biến thường phải trải qua ba khâu: Nguyên liệu  Chế biến  Thị trường Công nghiệp chế biến có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế được biểu hiện ở một số vấn đề sau. Một là, kích thích và định hướng cho sản xuất nguyên liệu. Với tư cách là cầu nối giữa nguyên liệu với thị trường, công nghiệp chế biến nông, lâm sản có tác dụng giữ gìn chất lượng nguyên liệu, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, nhờ đó thu được lợi nhuận cao; công nghiệp chế biến nông, lâm sản chính là thị trường đầu ra của khâu nguyên liệu. Nó có tác dụng định hướng về các mặt quy mô, cơ cấu, kích cỡ, chất lượng, giá cả cho khâu sản xuất nguyên liệu một cách trực tiếp. Việc các ngành nông, lâm nghiệp sản xuất cái gì, sản xuất ra sao, khai thác như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của công nghiệp chế biến nếu không có công nghiệp chế biến nông, lâm hải sản thì phương án sản xuất nguyên liệu khó đưa lại hiệu quả, và nếu có thực hiện chính sách kinh tế mở thì cũng chủ yếu xuất khẩu hàng thô, kém khả năng cạnh tranh, bị chèn ép và thường bị thua thiệt [19, 12-13]. Hai là, sự phát triển của công nghiệp chế biến nông, lâm sản phát triển sẽ thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa trên cơ sở công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp chế biến có vai trò lớn trong việc thúc đẩy nông, lâm nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa trên cơ sở công nghiệp hóa, hiện đại hóa và các lý do sau đây: - Thứ nhất: Do sản phẩm của nông nghiệp là nguyên liệu chính của công nghiệp chế biến nông, lâm sản, cho nên muốn phát triển ngành này tất yếu đòi hỏi nông nghiệp phải phát triển theo hướng thâm canh, đa dạng hóa, tạo ra các loại sản phẩm, các vùng chuyên canh, có năng suất cao có tỷ suất hàng hóa lớn. Mặt khác cũng vì sản phẩm nông nghiệp khó bảo quản, dễ bị hư hỏng, thối nát, nên sự phát triển của nó chỉ có thể được đảm bảo vững chắc nếu tổ chức được cả hệ thống các cơ sở công nghiệp, sơ chế, tinh chế và sản xuất có liên hệ mật thiết với nhau. Công nghiệp chế biến nông, lâm sản không chỉ tạo sức ép buộc nông, lâm nghiệp phải phát triển, mà nó tạo điều kiện để nông, lâm nghiệp phát triển thuận lợi qua việc nâng cao hiệu quả của sản xuất nông, lâm nghiệp, từ đó tăng khả năng tích lũy, tăng khả năng đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, hiện đại hóa quá trình sản xuất trong nông, lâm sản. Tác động này trước hết thể hiện ở chỗ: sau khi đưa vào chế biến, giá trị của nông, lâm, ngư nghiệp tăng lên rất nhiều. Theo tính toán của các chuyên gia, sau khi tinh chế giá trị của nông, lâm sản có thể tăng từ 4 - 10 lần so với giá trị lúc chưa chế biến [9, 1718]. Thứ hai: Thông qua công nghiệp chế biến nông, lâm sản tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, làm giảm sự phụ thuộc vào yếu tố thời gian và khoảng cách đối với tiêu dùng các sản phẩm nông, lâm nghiệp. Sự phát triển của công nghiệp chế biến nông, lâm sản còn làm tăng nhu cầu về sản phẩm của nông, lâm nghiệp. Thứ ba: Thông qua chế biến, từ một sản phẩm nông, lâm nghiệp có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm có những giá trị sử dụng rất khác nhau, thậm chí tạo ra những đặc tính mới, những giá trị sử dụng mới cho sản phẩm của nông nghiệp; từ đó nâng cao mức độ và khả năng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Phát triển công nghiệp chế biến góp phần quan trọng vào việc giải quyết vấn đề việc làm cho lực lượng lao động ở nông thôn, đặc biệt là qua việc phát triển hệ thống các cơ sở chế biến ngay ở nông thôn. Điều này giải quyết việc làm lao động nông nhàn ở nông thôn (đặc biệt sau vụ mùa và giữa hai vụ mùa). Như vậy, việc phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản vừa có tác dụng trực tiếp, vừa có tác dụng gián tiếp tới sự phát triển của nông, lâm nghiệp, vừa tạo cầu nối giữa công nghiệp và nông nghiệp, là khâu đột phá để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Ba là, công nghiệp chế biến nông, lâm sản góp phần đẩy mạnh xuất khẩu phát huy lợi thế so sánh của đất nước, tăng nguồn thu ngoại tệ, tăng khả năng tích lũy phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp chế biến nông, lâm không chỉ gìn giữ, khắc phục làm giảm hư hao sản phẩm nguyên liệu, mà còn bổ sung, làm tăng giá trị sử dụng của các sản phẩm đó, mở rộng khả năng cung ứng hàng hóa trên thị trường với mẫu mã, hình thức đa dạng mà còn kích thích nhu cầu mở rộng khả năng tiêu dùng của xã hội. Người tiêu dùng với tâm lý sẵn sàng trả một giá cao hơn cho những sản phẩm nếu chúng được ưa chuộng. Họ đòi hỏi sản phẩm phải được chế biến trước khi mua. Do vậy công nghiệp chế biến vừa làm tăng giá trị sử dụng, đồng thời vừa làm tăng giá trị sản phẩm. Tính hiệu quả của công nghiệp chế biến nông, lâm sản, trên thị trường được thể hiện ở khối lượng lợi nhuận do sự phát triển của công nghiệp chế biến thu được. Công nghiệp chế biến càng phát triển thì sức cung hàng hóa càng lớn, sức mua càng tăng và cuối cùng khối lượng lợi nhuận thu được càng nhiều, thu nhập tăng. Trong điều kiện chính sách kinh tế mở, sự phát triển của công nghiệp chế biến, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm sản, có hiệu quả làm tăng kim ngạch xuất khẩu, mang lại nguồn ngoại tệ khá lớn, góp phần giảm bớt sự mất cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Vai trò này của công nghiệp chế biến càng quan trọng đối với các nước kém phát triển, mà nguồn thu ngoại tệ chủ yếu dựa vào xuất khẩu thô. ở nước ta, giá trị xuất khẩu công nghiệp chế biến đã chiếm trên 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, dù rằng công nghiệp chế biến ở nước ta còn ở trình độ thấp, sản phẩm sơ chế chiếm tỷ trọng lớn trong sản lượng hàng hóa xuất khẩu. Nếu công nghiệp chế biến ở trình độ phát triển cao hơn (đặc biệt là nâng cao được chất lượng sản phẩm, tăng tỷ trọng sản phẩm tinh chế, đa dạng hóa mặt hàng, đáp ứng được nhu cầu về số lượng của những khách hàng lớn...) thì giá trị xuất khẩu còn cao hơn. Ngay ở thị trường trong nước, do tác động của chính sách kinh tế mở cửa, người nước ngoài vào nước ta ngày càng nhiều. Nhu cầu tiêu dùng của nhóm khách hàng này cũng ngày càng nhiều, nếu hiện đại hóa công nghiệp chế biến, tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng có chất lượng cao, đáp ứng tốt nhu cầu của họ thì có thể tăng lượng sản phẩm công nghiệp chế biến xuất khẩu tại chỗ một cách đáng kể và sẽ có hiệu quả cao. Công nghiệp chế biến, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm sản tồn tại và phát triển trên cơ sở nguyên liệu chính được sản xuất trong nước. Theo Adam Smít thì ở mỗi đất nước đều có những nguồn lực và tài nguyên nhất định như nguồn đất đai, mặt nước, khí hậu, địa hình... Sự phát triển của công nghiệp chế biến cho phép phát huy tiềm năng lợi thế của mỗi vùng, mỗi khu vực trong việc khai thác nguyên liệu, phát huy công nghệ truyền thống, sản xuất và chế biến sản phẩm riêng của mỗi địa phương. Như vậy các quốc gia sẽ tiến hành sản xuất chuyên môn hóa những mặt hàng có lợi thế để xuất khẩu và nhập khẩu những mặt hàng trong nước không có điều kiện sản xuất hoặc sản xuất không có lợi. Bốn là, phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự phát triển của công nghiệp chế biến tác động mạnh đến đời sống và sự phát triển của nhiều ngành kinh tế quốc dân, nên công nghiệp chế biến đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Sự phát triển của công nghiệp chế biến là một trong những thước đo quan trọng để đánh giá trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia. Một ưu điểm là các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản không đòi hỏi vốn đầu tư lớn, không đòi hỏi công nghệ phức tạp, nhưng nó có khả năng thu hút được nhiều lao động và tạo ra tích lũy lớn. Nước ta là một nước nông nghiệp, nền kinh tế chưa thật phát triển đang phải tập trung mọi lực lượng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngành công nghiệp chế biến do đó cũng chưa phát triển, mâu thuẫn sâu sắc với nhu cầu chế biến số lượng lớn nông, lâm sản của ngành nông nghiệp đang trong xu thế phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Hơn nữa, nền sản xuất nông nghiệp nước ta với nhiều hạn chế trong tập quán, thói quen sản xuất chưa phù hợp với sản xuất công nghiệp như ngành rau quả đã tổng kết: Do vừa trồng chủ yếu ở quy mô hộ gia đình, dưới 5 ha, giống không đồng nhất, chất lượng không đều, nên không thể đưa kỹ thuật cơ khí thu hái, lựa chọn, bảo quản. Do đó nhiều sản phẩm nông nghiệp chưa được chế biến, số lượng hư hỏng cao. Riêng về công nghiệp chế biến: Cả nước hiện nay mới có 17 nhà máy chế biến rau quả, trong đó có 12 nhà máy đồ hộp, công suất 70.000 tấn/năm. 5 nhà máy đông lạnh công suất 50.000 tấn/năm. Những năm cao nhất, các nhà máy này chỉ sản xuất được 30.000 tấn đồ hộp và 40.000 tấn dứa đông lạnh. Như vậy mới có 5 - 7% sản lượng trái cây thu hoạch được chế biến. Ngoài ra, kinh nghiệm sản xuất và kinh nghiệm quản lý theo yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn thiếu, yêu cầu giải quyết việc làm cho một đội ngũ lao động khá đông đảo cũng đang đặt ra yêu cầu cấp bách. Trong bối cảnh đó, nếu phát triển mạnh công nghiệp chế biến thì có thể giải quyết được mâu thuẫn kể trên, đặc biệt là, cho phép huy động được các nguồn vốn trong nền kinh tế quốc dân thông qua các hình thức liên kết, liên doanh, vừa phát huy được tay nghề của người lao động, vừa tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, vừa khai thác được lợi thế của tất cả các vùng, tạo điều kiện từng bước phát triển ngành công nghiệp chế biến trở thành một ngành kinh tế - kỹ thuật sản xuất hàng hóa, vừa phục vụ tốt nhu cầu nội địa, vừa tăng cường được lượng hàng xuất khẩu và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Một loạt các quốc gia (Tây Âu, Nhật Bản trước đây, các nước NICs và nhiều nước Đông Nam á hiện nay) đã thực hiện công nghiệp hóa thành công nhờ áp dụng chiến lược phát triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến gắn với nông nghiệp, sau đó phát triển công nghiệp nặng và tiếp theo là phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học kỹ thuật và vốn cao. Chúng ta có thể học tập kinh nghiệm đó của họ. 1.2. Phát triển công nghiệp chế biến ở một số nước và bài học kinh nghiệm Công nghiệp hóa - quy luật của mọi quốc gia trong quá trình chuyển nền kinh tế từ sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, kỹ thuật thủ công lên sản xuất lớn với công nghiệp hiện đại, kỹ thuật tiên tiến. Tuy nhiên, một vấn đề có tính quy luật của quá trình công nghiệp hóa là phải có bước đi cụ thể, tùy theo vai trò vị trí trước mắt, lâu dài của từng ngành mà vạch bước đi thích hợp. Chẳng hạn thời kỳ 1920, Lênin chủ trương trước hết phát triển công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến sau đó mới đến phát triển các ngành công nghiệp khác [9, 29]. Thực tế hầu hết các nước trên thế giới đều bắt đầu công nghiệp hóa bằng phát triển công nghiệp chế biến, bởi ba lý do: - Công nghiệp chế biến cho phép sản xuất ra những sản phẩm mới mà nông nghiệp bị hạn chế. - Công nghiệp chế biến là nhân tố hết sức quan trọng kích thích tăng trưởng nhanh nền kinh tế, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. - Công nghiệp chế biến tạo ra các động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. Nhưng, tùy theo điều kiện mỗi nước mà quá trình phát triển công nghiệp chế biến được tiến hành không hoàn toàn giống nhau. Căn cứ vào lịch sử và đặc điểm phát triển có thể thấy hai nhóm nước thực hiện công nghiệp chế biến: Nhóm các nước công nghiệp hóa đi trước như: Anh, Pháp, Mỹ, Đức... và nhóm các nước công nghiệp hóa đi sau như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Indonesia, Malaysia... Đến nay một số nước đi sau đã và đang thành công trong phát triển công nghiệp chế biến, có thể cung cấp những bài học kinh nghiệm cho các nước còn đang ở trong giai đoạn đầu phát triển công nghiệp chế biến. Việc tiếp cận kinh nghiệm phát triển công nghiệp chế biến của các nước, đặc biệt là các nước đi sau (NICs và ASEAN) để tìm ra giải pháp phát triển công nghiệp chế biến ở Việt Nam là việc làm cần thiết vì các nước này có nhiều nét tương đồng và xuất phát điểm gần giống với Việt Nam. 1.2.1. Về mặt chính sách và biện pháp phát triển công nghiệp chế biến Các nước NICs bao gồm Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore và Hồng Kông họ bắt đầu công nghiệp hóa vào những năm 1960. Tiếp theo là các nước thuộc khối ASEAN như Thái Lan, Malaixia, Indonêxia bắt đầu công nghiệp hóa vào những năm 1970. Trong thời kỳ này ở tất cả các nước, công nghiệp chế biến là ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất của nền kinh tế. Tỷ trọng đóng góp của công nghiệp chế biến vào GDP của mỗi nước rất cao và ngày càng có xu hướng tăng. Có thể thấy điều này qua các biểu sau. Biểu 1: Tốc độ tăng trưởng của công nghiệp chế biến ở Đài Loan (%) 1955-1960 1960-1965 1965-1970 1970-1975 1975-1980 10,9 13,8 20,6 13,5 15,4 GNP 6,7 9,5 9,8 8,8 10,4 GNP/người 3,1 6,1 6,6 6,7 8,2 LĐ trongCNCB 4,8 5,3 8,3 9,9 7,5 Tổng số lao động 2,1 2,3 4,3 3,8 3,5 Công nghiệp chế biến Biểu 2: Tỷ trọng của công nghiệp chế biến trong GDP ở Malaysia (%) 1970 1980 1985 1990 1995 2000 GDP 100 100 100 100 100 100 - Công nghiệp chế 13,9 19,6 19,7 26,7 34,7 37,2 29,0 22,9 20,8 18,7 13,5 10 biến - Nông nghiệp [16] Biểu 3: Tỷ lệ chế biến trong xuất khẩu của các nước ASSEAN (%) [3, 239-240] Inđonesia Malaysia Philippin Singapore Thái Lan 1976 1990 1976 1990 1976 1990 1976 1990 1976 1990 Tổng số 100 100 100 100 100 Hàng chế biến 9,2 44,1 31,9 58,5 46,7 52,0 47,2 70,3 80,8 90,8 Nguyên liệu 18,5 7,7 42,2 12,7 27,0 100 6,7 100 1,4 100 3,0 100 15,8 100 5,5 thô* * Không kể nguyên liệu khai khoáng. Để phát triển công nghiệp chế biến, các nước trong khu vực đã thực hiện chính sách, biện pháp: - Thông qua chiến lược công nghiệp hóa trong giai đoạn đầu với chính sách thay thế hàng nhập khẩu, các nước này thực hiện chính sách phát triển công nghiệp chế biến như phát triển các ngành chế biến nguyên liệu, sản xuất hàng tiêu dùng thay thế hàng nhập khẩu từ nước ngoài. Những cơ sở này cần vốn đầu tư ít, thu lợi nhuận nhanh, có khả năng tăng tốc độ tích lũy vốn. Đồng thời, các nước này cũng đẩy mạnh chế biến các mặt hàng có lợi thế so sánh về nguyên liệu để cân đối trong nưóc và dần chuyển sang xuất khẩu. Việc tích lũy vốn được thực hiện chủ yếu bằng quá trình này. - Chính sách hỗ trợ tài chính tín dụng: Chính phủ các nước đã can thiệp vào thị trường vốn thông qua chính sách lãi suất và tín dụng hướng luồng vốn chảy vào các ngành, lĩnh vực ưu tiên cần đầu tư là công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Chính phủ các nước thực hiện ưu tiên "tài trợ ngầm" qua tín dụng, duy trì lãi suất tín dụng thấp hơn lãi suất thị trường chứng khoán. Đây còn là một cách kiềm chế nhẹ giữ cho lãi suất ổn định, mặt khác đảm bảo thực hiện lãi suất tương đối với tiền gửi. Chính sách này được chính phủ Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia và Thái Lan rất coi trọng. Để có nguồn vốn hỗ trợ cho công nghiệp chế biến, các nước đã duy trì tỷ lệ tiết kiệm cao. Đài Loan khuyến khích cá nhân tiết kiệm với lãi suất cao và xây dựng hệ thống tiền gửi đảm bảo thuận tiện, nhanh chóng. Hàn Quốc khai thác truyền thống tiết kiệm của nhân dân, nâng tỷ lệ tiết kiệm lên cao ngay trong điều kiện nền kinh tế còn ở mức tăng trưởng thấp. Chính phủ các nước thực hiện cam kết ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát đồng thời mở rộng chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Thông qua chính sách này mà tích lũy vốn và tiết kiệm trong các nước tăng rất nhanh. Nên như giai đoạn 1960 - 1970 mức tiết kiệm trong nước ở các nước này chỉ khoảng 10 - 20% GDP, thì năm 1995 - 1996 là 30 - 48%. - Chính sách khuyến khích về thuế: Chính phủ các nước áp dụng các chính sách miễn và giảm thuế thu nhập, thuế kinh doanh, thuế lợi tức cho các cơ sở chế biến mới thành lập. ở Hàn Quốc giảm thuế 5% các loại thuế cho các cơ sở mới thành lập từ 2 - 5 năm. ở Thái Lan, Chính phủ giảm thuế nhập khẩu máy móc các phụ kiện từ 40% xuống còn 5% vào năm 1999, đồng thời giảm mức thuế cho các nguyên liệu thô. - Chính sách thúc đẩy xuất khẩu: để sản phẩm chế biến tiếp cận với thị trường thế giới, Chính phủ các nước đưa ra những chính sách khuyến khích và trợ giúp xuất khẩu sản phẩm chế biến. Mailaysia thực hiện chính sách trợ giúp phí tổn khi xúc tiến việc xuất khẩu nông sản, trợ giúp trong việc xây dựng các kho chứa bảo quản và tín dụng đổi mới công nghệ. Trong vòng 10 năm (1979 - 1989) Ngân hàng Malaysia đã tăng vốn tài chính cho xuất khẩu từ 140 triệu lên 9.900 triệu USD. Mặt khác, họ tổ chức cung cấp thông tin về thị trường thế giới, giới thiệu các cơ hội và những quy định trong buôn bán quốc tế, giúp các doanh nghiệp phát triển [23, 291]. Chính phủ Thái Lan còn có những biện pháp khuyến khích xuất khẩu như: Bỏ chế độ hạn ngạch (quota), không thu thuế xuất khẩu, nhà xuất khẩu chỉ phải nộp thuế lợi tức nếu có, tạo tín dụng thuận tiện cho các nhà kinh doanh được vay vốn ưu đãi, khi cần thiết được chính phủ hỗ trợ việc xuất khẩu, định hướng thị trường chủ yếu, can thiệp để ký những hợp đồng lớn [13, 36]. - Chính sách phát triển khoa học công nghệ, đào tạo cán bộ tay nghề cao: Trong điều kiện tiến bộ của khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng, các nước đi sau, không phải đi tuần tự như các nước đi trước, nên chính sách ở các nước này là tập trung vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp với lợi thế vốn có của mình để tham gia vào phân công lao động và hợp tác quốc tế. Thái Lan, Inđônêxia ưu tiên công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm và lâm sản để chuyển dịch cơ cấu kinh tế dần sang các ngành may, dệt, hóa chất, tinh dầu, ô tô, điện tử... Gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế là chính sách đi tắt: nhập khẩu công nghệ kết hợp với nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ, cán bộ quản lý và nâng cao tay nghề cho người lao động. Hàn Quốc chi 2,15% GDP cho khoa học công nghệ; Đài Loan chi 2,13% GDP, Singapore 1,27% GDP [18, 8]. Chi phí cho hoạt động khoa học công nghệ của ta còn thấp, tính bình quân 1991 1995 chi cho khoa học - công nghệ mới đạt 0,91% ngân sách nhà nước (khoảng 0,22% GDP), tính tất cả các nguồn (cả từ sản xuất và viện trợ) chỉ đạt khoảng 0,5% GDP [7, 110-111]. 1.3.2. Vận dụng kinh nghiệm phát triển công nghiệp chế biến ở thành phố Hồ Chí Minh Qua nghiên cứu sự phát triển công nghiệp chế biến ở các nước trong khu vực, cho thấy, sự tăng trưởng nhanh chóng của nền nông nghiệp nói chung, của các ngành nông, lâm sản xuất khẩu nói riêng là nhờ những kinh nghiệm sau đây: - Thứ nhất, thành công của các nước là gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến, lấy nông nghiệp làm điểm khởi đầu để phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chính phủ các nước trên đã kiên trì theo đuổi chiến lược đó: tập trung nỗ lực cho phát triển nông nghiệp để tạo đà và đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa và hiện đại hóa của một nền nông nghiệp hướng ra xuất khẩu là chủ yếu. Thực hiện đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp trên cơ sở phát huy các lợi thế tuyệt đối và tương đối (lợi thế so sánh) phục vụ cho mục tiêu xuất khẩu là con đường chủ yếu để nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nông nghiệp, từ kinh nghiệm này trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Đảng ta chủ trương: "phát triển toàn diện nông - lâm - ngư nghiệp, gắn với công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản, đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn" [23, 19-21]. Thứ hai: áp dụng công nghệ chế biến nhiều trình độ, có trọng điểm, mũi nhọn đi tắt lên hiện đại, tạo điều kiện chuyển sang lấy công nghệ chế biến hiện đại làm chủ yếu. Trong điều kiện từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua nhiều năm chiến tranh, chịu ảnh hưởng của mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp kéo dài, làm cho đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội. Sau 15 năm đổi mới, nền kinh tế có những bước khởi sắc nhất định. Song do sự gia tăng dân số, sức ép công ăn việc làm quá lớn, ngân sách còn hạn hẹp nên tuy đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, nhưng còn một số yếu tố chưa vững chắc như Đảng ta đã nhận định. Trong điều kiện đó, việc bố trí cơ cấu công nghệ phải đa dạng, đa trình độ, đồng thời phải biết lựa chọn khâu, ngành và mặt hàng mũi nhọn đi tắt lên hiện đại là quan điểm đúng trong quá trình phát triển công nghiệp chế biến. Ba là: Phối hợp đồng bộ các chính sách và giải pháp để đạt mục tiêu đã đề ra trong từng thời kỳ nhất định, đặc biệt đối với các nông sản xuất khẩu, các nước bước đầu đều có chính sách bảo hộ và các chương trình hỗ trợ đặc biệt để tạo dựng ngành hàng xuất khẩu. Ví dụ: Các xí nghiệp sơ chế nguyên liệu ở Malaysia, các cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản ở Thái Lan, Malaisia, Philippin... Trên cơ sở phát triển các mặt hàng này, các nước tập trung phát triển các ngành chế biến có hàm lượng khoa học công nghệ cao. Bốn là: chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp và nghiên cứu triển khai, tăng cường đổi mới hệ thống tiếp thu, phát triển các kênh sản xuất - tiêu thụ - xuất khẩu, coi trọng chữ tín để mở rộng và tạo lập thị trường. Trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa, các ngành công nghiệp chế biến, nhất là chế biến các sản phẩm mà nguyên liệu có sẵn trong nước được ưu tiên phát triển. Chính phủ cần thực hiện các chính sách hỗ trợ về tài chính, xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi để sớm mở rộng và nâng cấp các cơ sở chế biến và tạo kết cấu hạ tầng thuận lợi để chúng hoạt động. Đối với các nước công nghiệp chế biến phát triển muộn, việc xây dựng đi trước một bước các kết cấu hạ tầng về kinh tế và pháp lý là điều kiện rất quan trọng để đẩy nhanh tốc độ và quy mô phát triển công nghiệp chế biến. Kết cấu hạ tầng thuận lợi là cách tốt nhất để nối liền các cơ sở sản xuất, khai thác nguyên liệu với các trung tâm chế biến, là cách khai thông sản phẩm chế biến với thị trường. Để sản phẩm công nghiệp chế biến tiếp cận với thị trường thế giới và phát triển lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và lao động, các nước đã đưa ra những chính sách khuyến khích và thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm chế biến. Đài Loan, Hàn Quốc thực hiện miễn thuế và cấp vốn với lãi suất thấp để tăng sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu sang các nước phát triển. Năm là: Sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô để can thiệp gián tiếp và điều tiết sản xuất nông nghiệp có hiệu quả như chính sách tài chính, tín dụng, ngân hàng, thương mại trong quá trình phát triển. Chính phủ các nước đã can thiệp có hệ thống vào thị trường vốn thông qua chính sách lãi suất và chỉ đạo tín dụng, hướng luồng vốn chảy vào các ngành lĩnh vực cần ưu tiên đầu tư. Chế biến nông, lâm, thủy sản là một trong những hướng mà các chính phủ Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia và Philippin quan tâm. Tóm lại, Công nghiệp chế biến nông, lâm sản là ngành sản xuất công nghiệp mà nguyên liệu đầu vào là sản phẩm nông nghiệp. Vì thế là một ngành cần được phát triển và có nhiều điều kiện phát triển ở nước ta - một nước có tiềm năng nông, lâm nghiệp nhiệt đới. Thành phố Hồ Chí Minh có vị trí thuận lợi, nằm ở giữa vùng đồng bằng Nam Bộ có nhiều ưu đãi cho nền nông nghiệp, có nhiều sông ngòi, cận kề biển lại là đầu mối giao thông quan trọng. Thành phố Hồ Chí Minh cũng là trung tâm công nghiệp phát triển từ lâu, do đó có nhiều tiềm năng phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Việc đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh là một yêu cầu bức xúc. Chương 2 Thực trạng và tiềm năng phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh 2.1. Đặc điểm thành phố Hồ Chí Minh với khả năng phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản 2.1.1. Vị trí của thành phố Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh nằm trên vùng đồi núi thoai thoải cao hơn mặt sông từ 2 đến 10 m, có diện tích rộng 2.056 km2, Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Tây giáp tỉnh Long An, Đông giáp tỉnh Đồng Nai - Bình Dương, Nam ăn thông ra biển. Thành phố nằm ở giữa hai hệ thống sông Đồng Nai và sông miền Tây, là cửa ngõ của các đường thủy lẫn đường bộ, nối với Campuchia và hạ Lào, là nơi hội tụ của nhiều sông với hệ thống kênh rạch thuận lợi, nhờ đó làm cho sông và biển nối liền lại thành một hệ thống cảng, cầu cảng và biển. Cùng với các cảng hàng không thuận lợi, những điều kiện địa hình trên làm cho thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm kinh tế - văn hóa - chính trị - xã hội lớn của cả nước. Với dân số chính thức đến cuối 1999 là 5.063.871 người, trong đó dân cư thành thị chiếm 73%, dân cư nông thôn chiếm 27%; nam chiếm tỷ trọng 48,2%; nữ chiếm 51,8%; dân cư phi nông nghiệp 91,5%; dân cư nông nghiệp chiếm 8,5% [12, 18]. Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố có số dân đông nhất nước, trong số lao động của thành phố, lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân lành nghề có tỷ lệ cao hơn nhiều địa phương khác, là một tiềm năng lớn cho phát triển công nghiệp nói chung, công nghiệp chế biến nói riêng. Dân số ở đây cũng là nguồn lao động tiềm tàng đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến trong thời gian tới. Tuy nhiên, dân số quá đông cũng tạo một sức ép lớn trong giải quyết việc làm và nảy sinh nhiều vấn đề xã hội. Ngoài những ưu thế về vị trí địa lý, về lao động, thành phố Hồ Chí Minh còn các ưu thế sau:  Là đầu mối giao thông gắn với thị trường của các yếu tố đầu vào của sản xuất công nghiệp chế biến, hàng hóa, dịch vụ và gắn với thị trường đầu ra giữa các địa phương, giữa các vùng trong nước, giữa thành phố với các nước trên thế giới.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng