Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát triển bền vững - lý thyết và thực tiễn phát triển kinh tế bền vững ở thái l...

Tài liệu Phát triển bền vững - lý thyết và thực tiễn phát triển kinh tế bền vững ở thái lan

.PDF
46
319
143

Mô tả:

ĐỀ TÀI: PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG - LÝ THYẾT VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ BỀN VỮNG Ở THÁI LAN TP.Hố Chí Minh, ngày 13 tháng 03 năm 2012 I/ Lí do chọn đề tài Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đôi khi vì mục tiêu phát triển kinh tế một cách nhanh chóng mà chúng ta quên đi bảo vệ môi trường,đảm bảo công bằng,ổn định giữ gìn bản sắc văn hóa .Nhận thấy rõ điều đó,càng ngày chúng ta càng quan tâm làm thế nào để vừa phát triển kinh tế mà vừa đảm bảo được môi trường bền vững, xã hội bền vững.Và mục tiêu phát triển bền vững được nêu ra bàn luận. Phát triển bền vững không chỉ đơn thuần được hiểu là sự phát triển được duy trì một cách liên tục mà hơn thế phát triển ở đây là sự nỗ lực liên tục nhằm đạt được trạng thái bền vững trên mọi lĩnh vực,là một quá trình duy trì sự cân bằng cơ học của đòi hỏi của con người với tính công bằng, sự phồn vinh, chất lượng cuộc sống và tính bền vững của môi trường tự nhiên. Phát Triển Bền Vững ngày càng trở thành trung tâm của sự phát triển trong mọi lĩnh vực khi xã hôi bước vào thế kỉ 21. Trong hai thập kỷ qua, trên bình diện quốc tế, vấn đề phát triển bền vững ngày càng được đặc biệt quan tâm, trở thành yêu cầu phát triển của toàn cầu. Đã có không ít hội nghị thượng đỉnh thảo luận về chủ đề này và đưa ra nhiều văn kiện, quyết sách quan trọng. nhiều nước đã bắt đầu vào việc phát triển bền vững.Trong số đó là mô hình “phát triển nền kinh tế vừa đủ” của Thái Lan do Hoàng thân Bhumibol Adulyadej đề ra và Thái Lan đã áp dụng trong nhiều năm qua có những nét đặc sắc và thành công bước đầu. Nhận thấy được tầm quan trọng của phát triển bền vững đối với sự phát triển của một đất nước,và những gì Thái Lan đã làm để chúng ta có thể học hỏi thêm nên nhóm chúng em quyết định thực hiện đề tài “Phát triển bền vững - Lý thuyết và thực tiễn phát triển kinh tế bền vững ở Thái Lan” II.Đối tượng nghiên cứu: - Lý thuyết phát triển bền vững - Phát triển bền vững ở Thái Lan. MỤC LỤC CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN CỦA PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 1.1. Những thách thức về môi trường, kinh tế - xã hội và phát triển 1.2. Quá trình nhận thức và lý thuyết về phát triển bền vững 1.2.1 Khái niệm phát triển 1.2.2.Quá trình phát triển bền vững 1.2.3 Lý thuyết về phát triển bền vững. 1.2.3.1 Các thành phần cơ bản 1.2.3.2 Thước đo về phát triển bền vững 1.3 Phát triển bền vững trong giai đoạn hiện nay 1.3.1 Xã hội cacbon thấp( Kỷ nguyên năng lượng – khí hậu) 1.3.2 Xã hội tái tạo tài nguyên 1.3.3 Xã hội hài hòa với tự nhiên CHƯƠNG 2: PHÁT TRIỂN KINH TẾ BỀN VỮNG Ở THÁI LAN. 2.1 Tổng quan đất nước Thái lan 2.1.1 Khái quát 2.1.2 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên 2.1.3 Lịch sử 2.1.4 Thể chế chính trị 2.1.5 Kinh tế 2.1.6 Đối ngoại 2.2 Phát triển kinh tế bền vững ở Thái Lan CHƯƠNG 3: BÀI HỌC CHO VIỆT NAM CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN CỦA PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 1.1 Những thách thức về môi trường,kinh tế - xã hội và phát triển Ngay nay vấn đề phát triển kinh tế luôn là tâm điểm được các Tổ chức quốc tế (IMF, WB, UNDP, WEF…) và các quốc gia, trông đó nổi trội lên là mục tiêu phát triển kinh tế bền vững .Nhưng con đường tiến đến phát triển kinh tế bền vững lại không dễ dàng, vì điều này yêu cầu quốc gia phải có được một chiến lược phát triển đúng đắn dựa trên các nguồn lực có thể sử dụng, đồng thời một cơ chế quản trị vận hành, phản hồi và giám sát hiệu quả sự thực thi chiến lược, nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng đều trong dài hạn, tránh được các cú “sốc” của môi trường toàn cầu, bảo vệ được môi trường tài nguyên thiên nhiên phát triển ổn định, cũng như chi phí nguồn lực bỏ ra cho phát triển ở mức cho phép, điều này đòi hỏi năng suất chung của nền kinh tế ngày càng cao (hệ số ICOR hợp lý, yếu tố năng suất tổng hợp cao (TFP)), đồng thời thành quả của sự phát triển đất nước được phân phối càng công bằng càng tốt cho mọi phân vùng của đất nước, tầng lớp nhân dân (hiệu quả phân phối, sự phát triển công bằng thể hiện bởi chỉ số GINI…), đồng thời sự tăng trưởng kinh tế phải đem lại mức sống tinh thần, vật chất, phúc lợi ngày càng cao cho nhân dân (chỉ số phát triển con người HDI…). Hiện nay với cuộc cách mạng khoa học – công nghệ (KHCN)hiện đại của thế giới (đặc biệt là 4 cuộc cách mạng: Công nghệ sinh học, Tự động hóa,Công nghệ thông tin và Công nghệ nano) đang tiếp tục phát triển với nhịp điệu ngày một nhanh, tạo ra những thành tựu mang tính đột phá, làm thay đổi nhanh chóng, sâu sắc và quyết định đối với sự phát triển của kinh tế, xã hội và bản thân con người, thì loài người cũng đang đối mặt với những thách thức to lớn về chính trị, văn hóa, xã hội và đặc biệt là môi trường Bảng 1.1. Các thách thức về môi trường, văn hóa-xã hội cho sự phát triển Các thách thức về môi trường Các thách thức trong các lĩnh vực khác + Biến đổi khí hậu toàn cầu + Tăng dân số + Suy giảm tầng ôzôn + Bất bình đẳng về thu nhập + Suy thoái ĐDSH + Nghèo đói + Suy thoái tài nguyên đất và hoang + Thất học mạc hóa + Dịch bệnh + Suy thái tài nguyên nước ngọt + Đô thị hóa và sự hình thành các siêu + Ô nhiễm bởi các chất thải nguy hại đô thị + Suy thoái môi trường và tài nguyên + Nạn tham nhũng… biển… 1.2 Quá trình nhận thức phát triển bền vững và lý thuyết về phát triển bền vững 1.2.1 Khái niệm phát triển Phát triển được định nghĩa khái quát trong Từ điển Oxford là: “Sự gia tăng dần của một sự vật theo hướng tiến bộ hơn, mạnh hơn...” (The gradual grow of sth. so that it becomes more advanced, stronger...). Trong Từ điển Bách khoa của Việt Nam, phát triển được định nghĩa là: “Phạm trù triết học chỉ ra tính chất của những biến đổi đang diễn ra trong thế giới”. Con người và mọi sự vật đều thay đổi theo thời gian, nhưng sự phát triển được bao hàm cả khía cạnh thay đổi theo hướng đi lên, hướng tốt hơn tương đối. (Sự phát triển theo hướng đi lên như vậy, trong Sinh học được gọi đó là phát triển tiến bộ hay tiến hóa, và ngược lại là phát triển thoái bộ thoái hóa).Phát triển học hay Khoa học phát triển là một khoa học mới, ra đời khoảng những năm40-50 và phát triển mạnh trong thập kỷ 60. Trong quá trình phát triển, Phát triển học có những thay đổi về nội hàm. Ở giai đoạn đầu, nội dung chủ yếu là Kinh tế học phát triển và sau đó càng ngày càng phát triển theo hướng liên ngành. Ở mức cao hơn, môn Xã hội học phát triển và Quản trị học phát triển ra đời, nhấn mạnh sự hài hòa giữa sự tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội có phần can thiệp của thể chế, chính trị. Ở giai đoạn cao hơn nữa hiện nay, với sự bùng nổ của dân số và sự phát triển mạnh mẽ của các nền kinh tế, con người đã khai thác tài nguyên và hủy hoại môi trường một cách tàn bạo, đe dọa sự tồn tại của Trái đất, của nhân loại. Hàng loạt các vấn đề môi trường bức xúc như biến đổi khí hậu, suy thoái đa dạng sinh học (ĐDSH), suy thoái tài nguyên nước ngọt, suy thoái tầng ôzôn, suy thoái đất và hoang mạc hóa và ô nhiễm các chất hữu cơ độc hại khó phân hủy, v.v... đang thách thức sự phát triển trên phạm vi toàn thế giới. Chiến lược Phát triển bền vững ra đời (1992) và trở thành Chiến lượcphát triển của toàn cầu trong thế kỷ XXI. Bảng 1.2. Từ phát triển đến phát triển bền vững Tiêu chí Từ phát triển Đến phát triển bền vững Trụ cột Kinh tế (xã hội) Hài hòa kinh tế-xã hội-môi trường Trung tâm Của cải vật chất Con người Điều kiện cơ bản Tài nguyên thiên nhiên Tài nguyên môi trường Chủ thể quản lý Một chủ thể (nhà nước) Nhiều chủ thể Quan hệ với tự nhiên Khai thác/cải tạo tự nhiên Bảo tồn/sử dụng hợp lý tự nhiên Tính chất Kinh tế truyền thống Kinh tế tri thức Cách tiếp cận Đơn ngành/liên ngành thấp Liên ngành cao 1.2.2. Quá trình nhận thức phát triển bền vững Đã có một lịch sử phát triển tương đối dài để hình thành khái niệm phát triển bền vững Năm 1963: Phát hành cuốn sách Mùa xuân câm lặng (Silent Spring): Cuốn sách“Mùa xuân câm lặng” của nữ văn sĩ Rachel Carson, được xuất bản năm 1962, với những tiết lộ về những hiểm họa của thuốc trừ sâu DDT, đã hoài nghi một cách biện chứng niềm tin của nhân loại vào tiến bộ khoa học kỹ thuật này và giúp tạo ra một sân khấu cho các phong trào môi trường. DDT, thuốc trừ sâu mạnh nhất từng được biết đến trên thế giới, đã làm tổn thương tới các hệ tự nhiên. Chỉ một lần phun DDT để diệt một loài sâu hại cây trồng, nó không chỉ diệt được loài sâu bệnh trong nhiều tuần hoặcnhiều tháng, mà đồng thời cũng tiêu diệt luôn nhiều loài côn trùng có lợi khác và tồn lưu như một độc chất trong môi trường. "Mùa xuân câm lặng" đã làm thay đổi nhận thức của người dân Mỹ về môi trường, góp phần thúc đẩy các chính sách về môi trường của đất nước này. Tháng 4 năm 1968: Câu lạc bộ Rome được thành lập: Đây là một tổ chức phi chính phủ, hỗ trợ cho việc nghiên cứu “Những vấn đề của thế giới” – một cụm từ được đặt ra nhằm diễn tả những vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường và công nghệ trêntoàn cầu với tầm nhìn lâu dài. Tổ chức này đã tập hợp những nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nhà kinh doanh cũng như các nhà lãnh đão của các quốc gia trên thế giới (baogồm cả Tổng thống Liên xô Mikhail Sergeyevich Gorbachyov và Rigoberta MenchusTum). Trong nhiều năm, Câu lạc bộ Rome đã công bố một số lượng lớn các báo cáo, bao gồm cả bản báo cáo Giới hạn của sự tăng trưởng – được xuất bản năm 1972 – đề cập tới hậu quả của việc tăng dân số quá nhanh, sự hữu hạn của các nguồn tài nguyên... Năm 1970: Thành lập Chương trình Con người và Sinh quyển: Năm 1970, UNESCO thành lập Chương trình Con người và Sinh quyển, với mục tiêu là phát triển cơ sở khoa học cho việc sử dụng hợp lý và bảo tồn các tài nguyên của sinh quyển và cải thiện quan hệ toàn cầu giữa loài người và môi trường. Tháng 6 năm 1972: Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Con người và Môi trường: Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Con người và Môi trường được tổ chức tại Stockhom,Thụy Điển được đánh giá là là hành động đầu tiên đánh dấu sự nỗ lực chung của toàn thể nhân loại, nhằm giải quyết các vấn đề về môi trường. Hội nghị có 113 quốc gia tham dự và đã đạt được những kết quả chính sau: (i) Khởi động các cuộc đối thoại Bắc– Nam; (ii) Khởi động chương trình “Viễn cảnh toàn cầu”; (iii) Khởi động sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ trong giám sát và bảo vệ môi trường; (iv) Thành lập Chương trình Môi trường của LHQ (UNEP); (v) Đề nghị Đại hội đồng LHQ lấy ngày tháng 6 làm Ngày Môi trường Thế giới và quyết định rằng vào ngày này hàng năm các tổ chức thuộc LHQ và tất cả chính phủ các nước tiến hành các hoạt động trên phạm vi toàn thế giới để tái khẳng định mối quan tâm của cả thế giới đối với việc gìn giữ và cải thiện môi trường sống cho nhân loại. Hội nghị đã có một tuyên bố về môi trường con người, thỏa thuận về một chương trình hành động quốc tế rộng lớn, thành lập Chương trình Môi trường của LHQ (UNEP), Ban thư ký thường trực về môi trường đặt tại Kenya và thành lập Quỹ Môi trường. Hội nghị này đã đánh dấu sự ra đời của nhận thức về phát triển bền vững (PTBV) Năm 1980: Chiến lược bảo tồn thế giới: Tiếp theo Hội nghị Stockholm, các tổ chức bảo tồn như Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN), Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) và Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Thế giới (WWF) đã đưa ra “Chiến lược bảo tồn thế giới”. Chiến lược này thúc giục các nước soạn thảo các chiến lược bảo tồn quốc gia của mình. Ba mục tiêu chính về bảo tồn tài nguyên sinh vật được nhấn mạnh trong Chiến lược như sau: (i) Duy trì những hệ sinh thái cơ bản và những hệ hỗ trợ sự sống (như cải tạo đất, tái sinh các nguồn dinh dưỡng, bảo về an toàn nguồn nước); (ii) Bảo tồn tính đa dạng di truyền; và (iii) Bảo đảm sử dụng một cách bền vững các loài và các hệ sinh thái. Từ khi Chiến lược bảo tồn thế giới được công bố tới nay, đã có trên 60 chiến lược bảo tồn quốc gia được phê duyệt. Trong chiến lược này, thuật ngữ Phát triển bền vững lần đầu tiên được nhắc tới, tuy nhiên mới chỉ nhấn mạnh ở góc độ bền vững sinh thái. Tiếp theo Chiến lược này, một công trình khoa học có tiêu đề “Cứu lấy Trái đất- Chiến lược cho cuộc sống bền vững” đã được IUCN, UNEP và WWF soạn thảo và công bố (1991) (cuốn sách này đã được Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường dịch ra tiếng Việt vào năm 1993). Trong cuốn sách, nhiều khuyến nghị về cải cách luật pháp, thể chế và quản trị đã được đề xuất. Năm 1984: Thành lập Ủy ban Brundtland: Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã ủy nhiệm cho bà Gro Harlem Brundtland, khi đó là Thủ tướng Na Uy, quyền thành lập và làm Chủ tịch Ủy ban Quốc tế về Môi trường và Phát triển (WCED), nay còn được biết đến với tên Ủy ban Brundtland. Tới nay, Ủy ban này đã được ghi nhận có những cống hiến rất giá trị cho việc đẩy mạnh sự phát triển bền vững. Năm 1987: Xuất bản Báo cáo Brundtland: Hoạt động của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới trở nên nóng bỏng khi xuất bản báo cáo có tựa đề “Tương lai của chúng ta” (tựa tiếng Anh: Our Common Futur và tiếng Pháp là Notre avenir à tous,ngoài ra còn thường được gọi là Báo cáo Brundtland). Bản báo cáo này lần đầu tiên công bố chính thức thuật ngữ “phát triển bền vững”, là "sự phát triển đáp ứng được các nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ tương lai",sự định nghĩa cũng như một cái nhìn mới về cách hoạch định các chiến lược phát triển lâu dài,Năm 1987 được coi là thời điểm hình thành khái niệm phát triển bền vững. Năm 1989: Sự phát hành và tầm quan trọng của bản báo cáo “Tương lai của chúng ta” đã được đưa ra bàn bạc tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc và đã dẫn đến sự ra đời của Nghị quyết 44/228 – tiền đề cho việc tổ chức Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc. Năm 1992: Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc: Rio deJaneiro, Brazil là nơi đăng cai tổ chức Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất, tên chính thức là Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc (UNCED). Tại đây, các đại biểu tham gia đã thống nhất những nguyên tắc cơ bản và phát động một chương trình hành động vì sự phát triển bền vững có tên Chương trình Nghị sự 21 (Agenda21). Chương trình này bao gồm sự tổng hợp các yếu tố xã hội, kinh tế và môi trường. Hội nghị này đánh dấu sự cam kết toàn cầu vì sự PTBV.Với sự tham gia của đại diện hơn 200 nước trên thế giới cùng một số lượng lớn các tổ chức phi chính phủ, hội nghị đã thông qua các văn bản quan trọng: – Tuyên bố Rio về Môi trường và Phát triển với 27 nguyên tắc chung, xác định quyền và trách nhiệm của các quốc gia nhằm làm cho thế giới PTBV; – Chương trình Nghị sự 21 về PTBV; – Tuyên bố các nguyên tắc quản lý, bảo vệ và PTBV rừng; – Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu nhằm ổn định các khí gây hiệu ứng nhà kính ở mức độ không gây đảo lộn nguy hiểm cho hệ thống khíhậu toàn cầu; Công ước về Đa dạng sinh học.Đây là các văn kiện quốc tế quan trọng có mối liên quan với nhau, được quán triệt trong suốt thế kỷ XXI.Từ đó, Chương trình Nghị sự 21 về Phát triển bền vững đã trở thành chiến lược phát triển của toàn cầu trong thế kỷ XXI, và “Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ”, với 8 nội dung: xóa đói, giảm nghèo; phổ cập giáo dục tiểu học; thúc đẩy bình đẳng giới tính,đồng thời nâng cao quyền lợi của nữ giới; giảm tỷ lệ trẻ em tử vong; cải thiện và đảm bảo sức khỏe sản phụ; đấu tranh với các loại bệnh như HIV, sốt xuất huyết; bảo vệ môi trường; thúc đẩy phát triển hợp tác toàn cầu đã được tập trung thực hiện. Tháng 05/2000: Tại Diễn đàn toàn cầu cấp Bộ trưởng Môi trường đầu tiên tổ chức tại Malmo đã ra Tuyên bố Malmo kêu gọi biến các cam kết vì sự PTBV thành hành động. Tại Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ vào tháng 9/2000, Tổng thư ký LHQ đã nêu ra những thách thức và những khó khăn, lúng túng trong việc thực hiện các cam kết vì PTBV. Diễn đàn Malmo -2000 được coi là lời kêu gọi hành động vì PTBV. Năm 2002: Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững: được tổ chức tại Johannesburg, Nam Phi, đánh dấu một mốc quan trọng của loài người trong nỗ lực tiến tới PTBV toàn cầu. Hội nghị đã khẳng định trách nhiệm chung xây dựng 3 trụ cột của phát triển bên vững là : Phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường ở cấp độ địa phương, quốc gia, khu vực và toàn cầu.Hội nghị là dịp cho các bên tham gia nhìn lại những việc đã làm 10 năm qua theo phương hướng mà Tuyên ngôn Rio và Chương trình Nghị sự 21 đã vạch ra, tiếp tục tiến hành với một số mục tiêu được ưu tiên. Những mục tiêu này bao gồm xóa nghèo đói, phát triển những sản phẩm tái sinh hoặc thân thiện với môi trường nhằm thay thế các sản phẩm gây ô nhiễm, bảo vệ và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Hội nghị cũng đề cập tới chủ đề toàn cầu hóa gắn với các vấn đề liên quan tới sức khỏe và phát triển. Các đại diện của các quốc gia tham gia hội nghị cũng cam kết phát triển chiến lược về phát triển bền vững tại mỗi quốc gia trước năm 2005. 1.2.3 Lý thuyết về phát triển bền vững 1.2.3.1 Các định nghĩa Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về phát triển bền vững tuỳ theo cách tiếp cận, mục đích nghiên cứu sử dụng khác nhau mà khái niệm này được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Thuật ngữ Phát triển bền vững (PTBV – Sustainable Development) lần đầu tiên đượcsử dụng trong bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” do IUCN đề xuất năm 1980. Mục tiêu tổng thể của Chiến lược là “đạt được sự PTBV bằng cách bảo vệ các tài nguyên sinh vật” và thuật ngữ PTBV ở đây được đề cập tới với một nội dung hẹp, nhấn mạnh tính bền vững của sự phát triển về mặt sinh thái, nhằm kêu gọi việc bảo tồn các tài nguyên sinh vật. Năm 1987, trong báo cáo “Tương lai chung của chúng ta”, Ủy ban Quốc tế vềMôi trường và Phát triển (WCED) của Liên hợp quốc, "phát triển bền vững" được định nghĩa là “Sự phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai ”. Quan niệm này chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và đảm bảo môi trường sống cho con người trong quá trình phát triển. Nội hàm về PTBV được tái khẳng định ở Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992 và được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002: "Phát triển bền vững" là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên). Phát triển bền vững (Sustainable Development - viết tắt là SD) hay nói một cách khoa học hơn là lý thuyết SD hiện nay, chính là sự phát triển một cách bền vững của trái đất này. Hiện nay trái đất đang phải đối mặt với rất nhiều khủng hoảng: khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng dân số, khủng hoảng đói nghèo… Vì vậy, SD là việc mà chúng ta phải làm, vì sự tồn tại của tất cả mọi người. SD không còn là việc của một quốc gia. Ðể xây dựng một xã hội phát triển bền vững, Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc đã đề ra 9 nguyên tắc: 1. Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng. 2. Cải thiện chất lượng cuộc sống của con người. 3. Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của Trái đất. 4. Quản lý những nguồn tài nguyên không tái tạo được. 5. Tôn trọng khả năng chịu đựng được của Trái đất. 6. Thay đổi tập tục và thói quen cá nhân. 7. Ðể cho các cộng đồng tự quản lý môi trường của mình. 8. Tạo ra một khuôn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho việc phát triển và bảo vệ. 9. Xây dựng một khối liên minh toàn cầu, không một quốc gia nào được lợi hay thiệt riêng mình khi toàn cầu có một môi trường trong lành hay ô nhiễm. 1.2.3.2 Các thành phần cơ bản Theo UNESCO, phát triển bền vững bao gồm ba thành phần( khía cạnh) cơ bản : Trong mối tương tác, thỏa hiệp giữa ba thành phần chủ yếu nêu trên, mỗi thành phần lại xuất hiện các nội dung( hệ thống cấp hai) đòi hỏi phải đáp ứng được những yêu cầu phát triển riêng cho mỗi thành phần để cùng đạt được mục tiêu PTBV. ● Môi trường: phát triển bền vững đòi hỏi chúng ta duy trì sự cân bằng giữa bảo vệ môi trường tự nhiên với sự khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con người nhằm mục đích duy trì mức độ khai thác những nguồn tài nguyên ở một giới hạn nhất định cho phép môi trường tiếp tục hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên trái đất. Khía cạnh này gồm một số nội dung sau: - Sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo. - Phát triển không vượt quá ngưỡng chịu tải của hệ sinh thái. − Bảo vệ đa dạng sinh học. − Bảo vệ tầng ôzôn. − Kiểm soát và giảm thiểu phát thải khí nhà kính. − Bảo vệ chặt chẽ các hệ sinh thái nhạy cảm. − Giảm thiểu xả thải, khắc phục ô nhiễm (nước, khí, đất, lương thực thực phẩm), cải thiện và khôi phục môi trường những khu vực ô nhiễm.... ● Xã hội: xã hội của phát triển bền vững cần được chú trọng vào sự phát triển sự công bằng và xã hội luôn cần tạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực phát triển con người và cố gắng cho tất cả mọi người cơ hội phát triển tiềm năng bản thân và có điều kiện sống chấp nhận được. Khía cạnh này gồm một số nội dung sau: − Ổn định dân số. − Phát triển nông thôn để giảm sức ép di dân vào đô thị. − Giảm thiểu tác động xấu của môi trường đến đô thị hóa. − Nâng cao học vấn, xóa mù chữ. − Bảo vệ đa dạng văn hóa. − Bình đẳng giới, quan tâm tới nhu cầu và lợi ích giới. − Tăng cường sự tham gia của công chúng vào các quá trình ra quyết định. …. ● Kinh tế: đây là lĩnh vực không thể thiếu trong phát triển bền vững. Nó đòi hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế trong đó cơ hội để tiếp xúc với những nguồn tài nguyên được tạo điều kiện thuận lợi và quyền sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt động kinh tế được chia sẻ một cách bình đẳng. Khẳng định sự tồn tại cũng như phát triển của bất cứ ngành kinh doanh , sản xuất nào cũng được dựa trên những nguyên tắc đạo lý cơ bản. Yếu tố được chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh vượng chung cho tất cả mọi người, không chỉ tập trung mang lại lợi nhuận cho một số ít, trong một giới hạn cho phép của hệ sinh thái cũng như không xâm phạm những quyền cơ bản của con người. Khía cạnh này gồm một số nội dung sau: - Giảm dần mức tiêu phí năng lượng và các tài nguyên khác thông qua công nghệ tiết kiệm vàthay đổi lối sống. − Thay đổi nhu cầu tiêu thụ không gây hại đến đa dạng sinh học và môi trường. − Bình đẳng cùng thế hệ trong tiếp cận các nguồn tài nguyên, mức sống, dịch vụ y tế và giáo dục. − Xóa đói, giảm nghèo tuyệt đối. − Công nghệ sạch và sinh thái hóa công nghiệp (tái chế, tái sử dụng, giảm thải, tái tạo nănglượng đã sử dụng). …. Ngoài ba khía cạnh chủ yếu nêu trên, có nhiều người còn đề cập tới những khía cạnh khác của phát triển bền vững như chính trị, hành chính, dân tộc, tinh thần, công nghệ, quốc tế, sản xuất,... và đòi hỏi phải tính toán và cân đối chúng trong hoạch định các chiến lược và chính sách phát triển kinh tế-xã hội cho từng quốc gia, từng địa phương cụ thể. WCED, 1987 1.2.3.3 Thước đo về phát triển bền vững Làm thế nào để đánh giá sự phát triển bền vững? Có thể định lượng được không? Mức độ chấp nhận sự định lượng đó ra sao? Đây là vần đề rất phức tạp mà con người phải vượt qua rất nhiều khó khăn để chấp nhận và thực hiện. Xã hội loài người gồm nhiều dân tộc khác nhau về văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng, chính trị, giáo dục và truyền thống, họ cũng rất khác nhau về mức độ phồn vinh, về chất lượng cuộc sống và điều kiện môi trường mà sự nhận thức về sự khác biệt đó cũng rất khác nhau. Hơn nữa, sự cách biệt đó lại thường xuyên vận động, khi tăng khi giảm. Bởi vậy, đánh giá thế nào là phát triển bền vững mang tính tùy thuộc khá lớn. Tuy nhiên, chúng ta có thể đề cập đến tiêu chí để đánh giá tổng quát gồm sự tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao được chất lượng môi trường sống. Tính đến năm 2010, đã có mười hai tổ chức và phương án đánh giá định tính và định lượng phát triển bền vững. Đó là: 1. Bộ 58 tiêu chí của Uỷ ban phát triển bền vững (CSD) của Liên hợp quốc 2. Bộ 46 tiêu chí của Nhóm tư vấn về tiêu chí phát triển bền vững (CGSDI) 3. Phương án chỉ số thịnh vượng gồm 88 tiêu chí của Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) 4. Phương án Chỉ số Bền vững Môi trường của Diễn đàn Kinh tế thế giới gồm 68 tiêu chí 5. 65 tiêu chí của Nhóm Bối cảnh toàn cầu 6. Dấu chân sinh thái 7. Nhóm Tiêu chí Tiến bộ đích thực (GPI) 8. Nhóm hành động liên cơ quan Hoa Kì về các tiêu chí phát triển bền vững (I WGSDI) 9. Hệ thống tiêu chí của Costa Rica về PTBV 10. Dự án các tiêu chí Boston 11. Nhóm Đánh giá các thất bại 12. Sáng kiến thông báo toàn cầu. Ngoài các bộ chỉ tiêu nêu trên, đất nước Bhutan( một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Nam Á, nằm giữa Ấn Độ và Trung Quốc) còn đề nghị một chỉ số gọi là “Tổng hạnh phúc quốc gia”(GNS) với ý nghĩa lấy người dân làm trọng tâm, luôn chú trọng giữ vững sự ổn định chính trị, bảo đảm môi trường hoạt động tốt, dân chúng sống hạnh phúc. Trước khi Chính phủ phê duyệt bất cứ dự án nào thì câu hỏi luôn đặt ra là tăng trưởng kinh tế làm sao giữ ổn định môi trường, bảo tồn di sản văn hóa, bảo đảm đa dạng sinh học. Bảo đảm mỗi cá nhân phát triển bền vững, chính là duy trì phát triển bền vững. Chỉ số GNS được xây dựng từ 72 tiêu chí, trong đó có nhiều tiêu chí cơ bản gồm: bảo vệ môi trường; duy trì văn hóa; kinh tế xã hội phát triển ổn định; quản trị nhà nước tốt; tập trung phát triển hài hòa văn hóa- xã hội-kinh tế; bảo đảm sức khỏe; hội nhập sinh thái, bảo vệ môi trường…. Ở khía cạnh DN, đảm bảo cuộc sống ổn định vật chất, tinh thần cho người lao động cũng là yếu tố cơ bản xây dựng chỉ số GNS. Chỉ số này được tổng hợp từ các nguồn xây dựng tổng hợp từ các cơ quan trên khắp đất nước song hành cùng các chỉ tiêu đánh giá như GDP. 1.3 Phát triển bền vững trong giai đoạn hiện nay Thực tiễn cho thấy, số đông các nước vẫn dừng ở mức những nước đang phát triển với mức thu nhập thấp; tình trạng nghèo đói, bất bình đẳng xã hội, năng suất thấp, ô nhiễm môi trường, nguồn tài nguyên quốc gia khai thác cạn kiệt; chất lượng tăng trưởng, chất lượng sống của người dân thấp, lạc hậu. Một số quốc gia do điều kiện lịch sử, có điểm xuất phát cao và đã trải qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, những mâu thuẫn và bất ổn xã hội vẫn thường xuyên diễn ra. Bên cạnh đó, nhiều quốc gia vẫn đang loay hoay lựa chọn mô hình phát triển, chỉ có số ít nước phát triển đạt được một số tiêu chí cơ bản về chất lượng cuộc sống, chất lượng tăng trưởng, nhưng cũng phải trả giá không nhỏ trong quá trình phát triển. Bởi vậy, phát triển nhanh gắn với PTBV sẽ là mô hình mà nhiều quốc gia lựa chọn trong bối cảnh thế giới ngày nay, nhất là những nước đang phát triển. Trong bối cảnh như vậy, chiến lược dài hạn của thế giới cũng như của các nước cần tập trung theo 3 hướng phát triển: (1) Xã hội cacbon thấp/tăng trưởng xanh; (2) Xã hội tái tạo tài nguyên; và (3) Xã hội hài hòa với thiên nhiên. 1.3.1 Xã hội cacbon thấp( Kỷ nguyên năng lượng – khí hậu) Như trên đã phân tích, thế giới hiện nay đang đứng trước những thách thức lớn lao về môi trường và chúng ta phải nhanh chóng giải quyết vấn đề, nếu không, sẽ quá muộn. Biến đổi khí hậu là một thảm họa đối với nhân loại và chúng ta đang bế tắc chưa tìm được cách giải quyết, nhất là sau “Hội nghị Copenhagen COP15” về biến đổi khí hậu do Liên Hiệp Quốc tổ chức tại Đan Mạch. Tuy nhiên, một số người lại cho rằng, có “một loạt cơ hội ẩn sau những vấn đề tưởng như không giải quyết nổi” này và dự đoán rằng Kỷ nguyên mới trước mắt sẽ là một trong những kỷ nguyên thay đổi lớn nhất về xã hội, chính trị và kinh tế. Kỷ nguyên, trong đó có những đột phá lớn trong các lĩnh vực năng lượng sạch và thái độ trân trọng đối với tự nhiên,với tài nguyên rừng, biển, những điểm nóng về đa dạng sinh học, sẽ hướng tới một xã hội cacbon thấp và hài hòa với tự nhiên. Phải nhìn nhận rằng đây là một cơ hội lớn cho những ai có tầm nhìn xa. Rất đơn giản,vì con người không thể tiếp tục cung cấp năng lượng cho sự phát triển bằng hệ thống dựa trên nhiên liệu hóa thạch tồn tại suốt thời Cách mạnh Công nghiệp đến nay và bắt buộc chúng ta phải chuyển sang một Kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên năng lượng – khí hậu. Xã hội cacbon thấp gồm 3 nội dung: (i) duy trì hoạt động kinh tế hiệu quả trong khi tối thiểu hóa sử dụng năng lượng và tài nguyên; (ii) tối thiểu hóa áp lực về môi trường vớiviệc sử dụng mỗi nguồn năng lượng và tài nguyên; và (iii) đầu tư vào môi trường, một công cụ để phát triển kinh tế. 1.3.2 Xã hội tái tạo tài nguyên Tài nguyên tái tạo (nước ngọt, đất, sinh vật v.v...) là tài nguyên có thể tự duy trì hoặc tự bổ sung một cách liên tục khi được quản lý một cách hợp lý. Tuy nhiên, nếu sử dụng không hợp lý, tài nguyên tái tạo có thể bị suy thoái không thể tái tạo được. Ví dụ: tài nguyên nước có thể bị ô nhiễm, tài nguyên đất có thể bị mặn hoá, bạc màu, xói mòn v.v... Xã hội tái tạo tài nguyên nhằm tiết kiệm và sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả nhất. 1.3.3 Xã hội hài hòa với tự nhiên Nội dung này đã được khẳng định trong Hội nghị các bên tham gia Công ước Đa dạng sinh học( ĐDSH) lần thứ 10 (COP10) tại Nagoya, Nhật Bản năm 2010. Theo đó, Liên Hợp Quốc phát động “Năm quốc tế về rừng” (2011) và “Thập kỷ Đa dạng sinh học” (2011-2020), nhằm nâng cao nhận thức về đa dạng sinh học, đẩy mạnh các hoạt động bảo tồn ĐDSH và sống thân thiện, hài hòa với thiên nhiên trên phạm vi toàn cầu. CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ BỀN VỮNG CỦA THÁI LAN. 2.1 Tổng quan đất nước Thái lan 2.1.1 Khái quát: - Tên nước đầy đủ: Vương quốc Thái Lan - Thủ đô: Băng-cốc (từ năm 1782) - Diện tích: 513.115 km2 (lớn thứ 49 thế giới), đứng thứ hai khu vực Đông Nam Á( sau Indonexia), gồm 76 tỉnh. - Dân số: 65,4 triệu người(2011), đứng thứ tư Đông Nam Á, sau Indonesia (khoảng 240 triệu dân), Philippines (92 triệu) và Việt Nam (88 triệu). - Tôn giáo: Đạo Phật được coi là quốc đạo, chiếm khoảng 95% dân số, ngoài ra có Đạo Hồi (4%), Thiên chúa giáo và các đạo khác (1%). - Ngôn ngữ: Ngôn ngữ chính là tiếng Thái, bên cạnh đó Tiếng Anh được dùng phổ biến. - Ngày quốc khánh: ngày 5 tháng 12 hằng năm. Đây cũng là ngày sinh nhật Vua Bhumibol Adulyadej. - Tiền tệ: Đồng Baht (THB), tỷ giá hiện nay là khoảng 32-33 baht/USD - Lãnh đạo nhà nước hiện nay: + Nhà Vua: Bu-mi-bôn A-đun-da-đệt (Bhumibol Adulyadej), lên ngôi ngày 9/6/1946 đến nay. + Thủ tướng: Yingluck Shinawatra (nhậm chức ngày 08/8/2011). - Quốc kỳ: 5 sọc ngang 3 màu; màu đỏ tượng trưng dân tộc, màu trắng tượng trưng cho tôn giáo, màu xanh tím than tượng trưng cho Hoàng gia. 2.1.2 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên: - Vị trí địa lý: Nằm ở khu vực Đông Nam Á, trong vùng nhiệt đới gió mùa. Về tiếp giáp: phía bắc giáp Lào và Myanma; phía Đông giáp Cam-pu-chia và Vịnh Thái Lan; phía Nam giáp Malaysia; phía Tây giáp biển Andaman và Mianma. - Địa hình: thấp dần từ bắc xuống nam, từ tây sang đông. Những dãy núi kéo dài liên tục phí tây và phía tây bắc tạo thành xương sống cho Thái Lan. Độ cao trung bình cho các quả núi này là 1600m so với mực nước biển. Đỉnh cao nhất là Đoi -In -Tha- Ron cao 2600m. - Sông ngòi: đa dạng nhưng chủ yếu là các sông nhỏ, trừ hai sông lớn là Chai- po- ray-a và sông Mê Kong. - Khí hậu: Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, thời tiết khá điều hòa với hai mùa rõ rệt. Mùa nóng bắt đầu cuối tháng 3 và kéo dài đến thàng 9, mùa lạnh kéo dài từ tháng 10 đến hết tháng 3. -Khoáng sản: chủ yếu là thiếc, ngoài ra còn có một số khoáng sản khác như: Fluôri, Angtimoan, vônfram, kẽm,... 2.1.3 Lịch sử: Theo sử sách Thái Lan, người Thái xuất xứ từ vùng núi An-Tai, Đông Bắc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc từ 4500 năm trước, sau đó di cư dần xuống vùng đất hiện nay là Thái Lan. Vào năm 1238, người Thái thành lập Vương quốc tại Sukhothai (miền Bắc Thái Lan ngày nay) gọi là Vương quốc Phật giáo Sukhothai, sau đó người Thái mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam, và năm 1350 chuyển kinh đô xuống Ayuthaya (phía Bắc Băng-cốc 70 km) gọi là Vương quốc Ayuthaya. Hơn 400 năm người Thái tiến hành chiến tranh liên miên với Miến Điện và kinh đô Ayuthaya bị huỷ diệt. Năm 1767, một tướng người Thái gốc HoaTaksin, đứng lên chống quân Miến Điện giành lại độc lập và rời đô về Thonburi, bên bờ sông Chao Phaya, đối diện với Bangkok. Vua Rama I (1782) lên ngôi và lấy Băng-cốc (Thành phố của các thiên thần) làm Thủ đô. Thời đại này gọi là Rattanakosin. 2.1.4. Thể chế chính trị: ¾ Thể chế nhà nước: quân chủ lập hiến. Trước năm 1932, Thái Lan theo chế độ Quân chủ chuyên chế. Sau cuộc cách mạng tư sản năm 1932 do một nhóm sĩ quan trẻ lãnh đạo, Thái Lan chuyển từ chế độ quân chủ chuyên chế sang chế độ Quân chủ lập hiến. ¾ Cơ cấu các cơ quan quyền lực: - Nguyên thủ quốc gia là Nhà Vua: Được coi là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Nhà Vua là người đứng đầu nhà nước, Tổng Tư lệnh quân đội và là người bảo trợ quốc đạo Phật giáo.Trong số các vị vua Thái Lan phải nhắc đến vua Bu-mi-bôn A-đun-da-đệt (Bhumibol Adulyadej). Đây là người hiện đang giữ cương vị nhà vuacủa Thái Lan. Lên ngôi vào ngày 9/6/1946, nhưng Bhumibol Adulyadej trở lại Thụy sĩ để hoàn tất chương trình học vấn của mình. Mãi đến năm 1950 ông trở về Thái Lan và bắt đầu với cương vị là quốc vương của nhân dân Thái Lan. Đây là vị vua giữ cương vị nhà vua lâu nhất trong lịch sử. - Quốc hội: Theo Hiến pháp ngày 24/8/2007, Quốc hội Thái Lan là Quốc hội lưỡng viện gồm: Hạ viện và Thượng viện.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan