ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------------
Nguyễn Thị Mai Hương
Phát triển bền vững làng nghề
ở bắc ninh
Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị
Hà Nội - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------------
Nguyễn Thị Mai Hương
Phát triển bền vững làng nghề
ở bắc ninh
Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ DANH TỐN
Hà Nội - 2011
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………..1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG LÀNG NGHỀ ……………………………………………………….....5
1.1.Một số vấn đề lý luận chung về phát triển bền vững làng nghề……......5
1.1.1.Làng nghề………………………………………………………….5
1.1.2.Phát triển bền vững làng nghề…………………………………..20
1.2 Kinh nghiệm phát triển bền vững làng nghề ở một số nước và địa phương
trong nước ……………………………………………………………………..27
1.2.1. Kinh nghiệm của một số nước Châu Á …………………….....27
1.2.2. Kinh nghiệm của một số tỉnh, thành trong nước …………….31
1.2.3. Những bài học kinh nghiệm có thế áp dụng ở Bắc Ninh …....37
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG LÀNG NGHỀ Ở BẮC
NINH …………………………………………………………………………..39
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến phát triển bền vững
làng nghề ở Bắc Ninh ………………………………………………………...39
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên ……………………………………………….39
2.1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội ………………………………………40
2.2. Cơ chế, chính sách của tỉnh Bắc Ninh về phát triển bền vững làng nghề.......45
2.3. Tình hình phát triển bền vững làng nghề ở Bắc Ninh ………………………48
2.3.1. Về kinh tế ………………………………………………………….48
2.3.2. Về xã hội …………………………………………………………..66
2.3.3. Về môi trƣờng sinh thái trong quá trình phát triển làng nghề ……..71
2.4. Đánh giá chung về phát triển làng nghề bền vững ở Bắc Ninh ………….....75
2.4.1. Những thành tựu ……………………………………………………75
2.4.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong phát triển bền vững làng
nghề ở Bắc Ninh ………………………………………………………………….79
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG LÀNG NGHỀ BẮC NINH TRONG THỜI GIAN TỚI…...87
3.1. Bối cảnh mới và ảnh hƣởng đến sự phát triển bền vững làng nghề ở Bắc
Ninh……………………………………………………………………………….87
3.2. Phƣơng hƣớng phát triển bền vững làng nghề ở Bắc Ninh ………………….90
3.2.1. Phát triển làng nghề theo hƣớng đẩy mạnh áp dụng khoa học công
nghệ vào sản xuất, kết hợp yếu tố truyền thống và hiện đại ……………………...90
3.2.2. Khôi phục làng nghề truyền thống đi đôi với phát triển làng nghề mới
gắn với thị trƣờng ...………………………………………………………………92
3.2.3. Phát triển làng nghề gắn với đa dạng hoá các hình thức tổ chức sản
xuất kinh doanh .………………………………………………………………….94
3.2.4. Phát triển làng nghề gắn với tạo nhiều việc làm, thu nhập tăng lên và
ổn định cho ngƣời lao động, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội ở nông thôn .95
3.2.5. Phát triển làng nghề gắn với phát triển du lịch, giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc ở làng nghề …………………………………………………………..95
3.2.6. Phát triển làng nghề gắn với bảo vệ môi trƣờng sinh thái ...………..96
3.3. Những giải pháp cơ bản phát triển bền vững làng nghề Bắc Ninh ..….97
3.3.1. Quy hoạch phát triển làng nghề ..…………………………………...97
3.3.2. Nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực ..……………………………..99
3.3.3. Đổi mới công nghệ………………………………………………...100
3.3.4. Xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở…………………………………....101
3.3.5. Phát triển thị trƣờng và thƣơng hiệu sản phẩm ……………………104
3.3.6. Giải quyết hài hoà các vấn đề xã hội ở các làng nghề ……………109
3.3.7. Tăng cƣờng công tác quản lý môi trƣờng tại các làng nghề, xây dựng
các làng nghề xanh, sạch, đẹp ………………………………………………… 109
3.3.8. Hoàn thiện công tác quản lý nhà nƣớc đối với phát triển làng nghề.111
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Nguyên nghĩa
Chữ viết tắt
1
CNH, HĐH
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
2
DNTN
Doanh nghiệp tư nhân
3
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
4
HTX
Hợp tác xã
5
HĐND
Hội đồng nhân dân
6
KT - XH
Kinh tế - xã hội
7
NN & PTNT
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
8
PTBV
Phát triển bền vững
9
TCMN
Thủ công mỹ nghệ
10
THPT
Trung học phổ thông
11
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
12
TTCN
Tiểu thủ công nghiệp
13
UBND
Uỷ ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
Tên Bảng
Trang
1
Bảng 1.1. Phân bổ các loại hình làng nghề ở Việt Nam
11
2
Bảng 1.2.Tốc độ phát triển làng nghề qua các năm
12
trong cả nước
3
Bảng 2.1. Cơ cấu kinh tế ở Bắc Ninh giai đoan 1997 -
44
2010
4
Bảng 2.2. Số lượng làng nghề và cơ cấu ngành nghề
49
của tỉnh Bắc Ninh
5
Bảng 2.3. Các ngành nghề Tiểu thủ công nghiệp ở Bắc
50
Ninh
6
Bảng 2.4. Hộ gia đình hoạt động trong các làng nghề ở
51
Bắc Ninh
7
Bảng 2.5. Số lao động trong các làng nghề ở Bắc Ninh.
52
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những nội dung trọng tâm của CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn là khôi phục các làng nghề truyền thống, hình thành và phát triển
các làng nghề mới, vì nó tạo ra nhiều việc làm, thu hút lao động nhàn rỗi
trong nông nghiệp vào các hoạt động dịch vụ và sản xuất phi nông nghiệp trên
địa bàn nông thôn nhằm nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của nông
dân, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH,
góp phần thực hiện chiến lược kinh tế mở, đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu.
Đây là nhiệm vụ không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn có ý nghĩa chính trị - xã
hội to lớn trong sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
Tỉnh Bắc Ninh có mật độ dân số là 1227 người/ km2, đứng thứ hai của
khu vực Đồng bằng sông Hồng (sau tỉnh Hưng Yên) và đứng thứ 3 trong cả
nước (sau Thành Phố Hồ Chí Minh và tỉnh Hưng Yên), ruộng đất bình quân
đầu người và năng suất lao động lại thấp, sản lượng không ổn định. Do đó,
vấn đề việc làm đặt ra gay gắt. Hơn nữa khi sản xuất nông nghiệp phát triển
dựa trên cơ sở ứng dụng Khoa học - công nghệ tiên tiến làm cho năng suất lao
động ngày càng tăng, cùng với quá trình CNH, HĐH và đô thị hoá cùng diễn
ra mạnh mẽ khiến diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp thì điều đó
vừa tạo điều kiện vừa đòi hỏi tất yếu phải phát triển các ngành nghề tiểu thủ
công nghiệp ở nông thôn, trong đó phát triển Làng nghề là hướng cơ bản khả
thi trong chiến lược phát triển của tỉnh Bắc Ninh. Hiện nay, Bắc Ninh có tới
62 làng nghề, trong đó có 31 làng nghề truyền thống và 31 làng nghề mới.
Bên cạnh những làng nghề đang phát triển mạnh mẽ và trở lên giàu có góp
phần vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, cũng có không ít làng nghề đang
bị điêu đứng và đứng trước nguy cơ mất nghề. Nhiều làng nghề hoạt động
không ổn định, nhiều vấn đề xã hội bức xúc đã và đang nảy sinh ở các làng
1
nghề. Không chỉ vậy, hoạt động của các làng nghề ở Bắc Ninh đang phải đối
mặt với thách thức to lớn là ô nhiễm môi trường trở thành phổ biến và đã đến
mức báo động do lượng phát thải từ quá trình sản xuất chưa được kiểm soát
và xử lý khoa học, triệt để. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển
chung của tỉnh bởi làng nghề vốn được coi như một thế mạnh của tỉnh Bắc
Ninh. Do vậy, quá trình phát triển làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay đòi hỏi
cấp thiết phải giải quyết hài hoà các vấn đề phát triển kinh tế, phát triển xã
hội. Vấn đề này cần được nghiên cứu, luận giải để làm rõ và đưa ra giải pháp
phát triển đúng đắn. Chính vì vậy, tôi chọn vấn đề: “Phát triển bền vững làng
nghề ở Bắc Ninh” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Phát triển làng nghề nói chung và phát triển bền vững làng nghề nói
riêng là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học và hoạch định
chính sách, nghiên cứu trên nhiều phương diện. Tiêu biểu như:
- Hội thảo Quốc tế về bảo tồn và phát triển Làng nghề truyền thống
Việt Nam: “Về các giải pháp phát triển Tiểu thủ công nghiệp theo hướng
CNH, HĐH ở vùng Đồng bằng Sông Hồng”. Năm 2009
- Mai Thế Hởn (2000), “Phát triển làng nghề truyền thống trong quá
trình CNH, HĐH vùng ven thủ đô Hà Nội”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế,Hà Nội.
- Trần Minh Yến (2004), “Làng nghề truyền thống trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Nxb Khoa học xã hội.
- Sở Kế hoạch và đầu tư Bắc Ninh (2008), “Làng nghề ở Bắc Ninh Tiềm năng và hội nhập”.
- Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Bắc Ninh (2007), “Thực trạng
và giải pháp đào tạo nghề ở làng nghề tỉnh Bắc Ninh”.
- Phạm Sơn (2004), “Làng nghề và thống kê làng nghề”, Tạp chí Thông
tin Khoa học Thống kê.
2
-Trần Anh Phương (2008) “Phát triển bền vững ở Việt Nam: Thực
trạng và vấn đề đặt ra”. Tạp chí cộng sản, số 6/2008.
- Nguyễn Trung Chánh(2010): “Phát triển làng nghề Bắc Ninh theo
hướng bền vững”, Tạp chí cộng sản, số 7/2010.
- “Doanh nghiệp làng nghề với quá trình hội nhập, cơ hội , thách thức
và giải pháp”. Kết quả hội thảo tổ chức bởi Trung tâm kinh tế Châu á - Thái
Bình Dương - VAPEC (2007).
Ngoài ra còn có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu khoa học, các bài
viết khác đề cập đến sự phát triển làng nghề Việt Nam nói chung và làng nghề
ở Bắc Ninh nói riêng. Tuy vậy, các công trình này về cơ bản là nghiên cứu
phát triển làng nghề ở tầm vĩ mô. Phát triển làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh
thường chỉ được đề cập như một trường hợp tham khảo điển hình, hoặc các
tác giả chỉ đề cập đến từng mảng, từng vấn đề riêng biệt của làng nghề mà
chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về phát triển
bền vững làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh trong điều kiện mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích, đánh giá thực trạng
phát triển làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh theo hướng bền vững. Trên cơ sở đó đề
xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy phát triển bền vững
các làng nghề của Bắc Ninh trong thời gian tới.
Với mục đích đó, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
- Nghiên cứu và làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển bền
vững làng nghề ở Việt Nam
- Đánh giá thực trạng của phát triển bền vững làng nghề trong những
năm gần đây ở Bắc Ninh.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy phát triển
bền vững làng nghề ở Tỉnh Bắc Ninh trong bối cảnh mới.
3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Sự phát triển bền vững của các làng nghề ở Tỉnh
Bắc Ninh dưới góc độ khoa học Kinh tế Chính trị.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh từ khi
tái lập Tỉnh (năm 1997) đến nay
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các
phương pháp cụ thể như trìu tượng hóa khoa học, kết hợp logic với lịch sử,
phân tích và tổng hợp, so sánh đối chiếu, thống kê kinh tế, ... Các phương
pháp này được sử dụng phù hợp với từng nội dung trong luận văn.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển bền vững
làng nghề .
- Phân tích và làm rõ thực trạng phát triển làng nghề ở Tỉnh Bắc Ninh
theo hường bền vững từ năm 1997 đến nay.
- Đưa ra phương hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển bền vững làng
nghề ở Tỉnh Bắc Ninh trong bối cảnh mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
4
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG LÀNG NGHỀ
1.1.
Một số vấn đề lý luận chung về phát triển bền vững làng nghề
1.1.1. Làng nghề
1.1.1.1. Khái niệm
Lịch sử phát triển Việt Nam gắn liền với đơn vị hành chính làng xã,
cũng là nơi sinh sống và làm việc của người dân. Trong luỹ tre làng là cả xã
hội thu nhỏ với các mối liên kết đan xen trong cuộc sống và trong công việc.
Làm ruộng không chỉ là một nghề nghiệp chủ yếu mà còn là một cách sống,
một đặc trưng văn hoá của hầu hết cư dân ở các làng xã ở Việt Nam. Trong
quá trình phát triển, một bộ phận dân cư tách ra và làm nghề khác. Ban đầu,
các nghề phi nông nghiệp xuất hiện ở một số hộ gia đình, nhưng rồi trong quá
trình phát triển và chuyên môn hoá sản xuất, số hộ gia đình và số người làm
nghề tăng lên, dần chiếm đa số. Lúc này, làng nghề được hình thành, trở
thành tên gọi thậm chí là “thương hiệu” trong vùng và cả nước. Ví dụ như
“Gạch Bát Tràng”, “Giấy Yên Thái”, “Vàng bạc Châu Khê”, “Đúc đồng Đại
Bái”… với trình độ tinh xảo và phân công lao động khá cao. Do đó, quá trình
phát triển làng nghề ở Việt Nam chính là quá trình phát triển kinh tế nông
thôn, đồng thời là lịch sử phát triển của nền tiểu thủ công nghiệp Việt Nam.
Khái niệm làng nghề có rất nhiều. Dưới đây là một số khái niệm về
làng nghề được tổng hợp từ các nguồn tài liệu:
Khái niệm thứ nhất
Làng nghề là nơi mà hầu hết mọi người trong làng đều hoạt động cho
nghề ấy và lấy nghề đó làm nghề sống chủ yếu.[15, tr 6]
Nếu dựa trên khái niệm phân loại này, số lượng làng nghề ở Việt Nam
hiện còn rất ít. Ví dụ như làng gốm sứ Bát Tràng (Hà Nội) rất nổi tiếng nhưng
số người làm nghề cũng chỉ chiếm hơn 50%, số còn lại làm nhiều nghề khác.
5
Vài năm trở lại đây, số người dân Bát Tràng chuyển sang làm nghề thương
mại và dịch vụ tăng mạnh.
Khái niệm thứ hai
Làng nghề là làng làm nghề thủ công, nhưng không nhất thiết là đa số
dân làng. Thợ thủ công cũng làm nghề nông nhưng do yêu cầu chuyên môn
hoá đã trở thành thợ chuyên sản xuất hàng thủ công.[15, tr6]
Khái niệm này có thể dẫn tới việc hiểu tiêu chí đánh giá làng nghề quá
đơn giản. Làng nghề được công nhận phải được xem xét dưới góc độ vai trò
của nghề đó đối với sự phát triển kinh tế của làng với những tiêu chí cụ thể về
số lao động tham gia và tỷ trọng thu nhập từ nghề đó.
Khái niệm thứ ba
Làng nghề là trung tâm sản xuất thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân và
nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề truyền thống lâu đời, có liên kết trong sản
xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và
nhỏ và có cùng tổ nghề.[15, tr7]
Khái niệm này đã khái quát về khía cạnh nghề nghiệp trong cách hiểu
về làng nghề nhưng cái thiếu là chưa phản ảnh được hết tính chất của làng
nghề với vai trò là một thực thể sản xuất kinh doanh có ý nghĩa đối với các
mặt kinh tế, văn hoá, xã hội.
Khái niệm thứ tƣ
Làng nghề là cụm dân cư sinh sống trong một thôn (làng) có một hay
một số nghề được tách khỏi nông nghiệp để sản xuất, kinh doanh độc lập. Thu
nhập từ các nghề đó chiếm tỷ trọng cao trong tổng số giá trị sản phẩm của cả
làng.[15, tr8]
Khái niệm này mặc dù rất đơn giản về tiêu chí nhưng phản ánh được
tính chất của làng nghề trên góc độ kinh tế. Việc xác định làng nghề chỉ nên
6
dựa chủ yếu vào tiêu chí kinh tế bởi làng nghề thực chất là một mô hình phát
triển kinh tế đặc thù.
Trước đây, làng nghề chỉ bao hàm các nghề thủ công nghiệp, tên làng
nghề gắn liền với tên nghề. Nhưng hiện nay, trong xu hướng lĩnh vực thương
mại và dịch vụ đóng vai trò quan trọng đã dẫn tới sự hình thành các làng nghề
hoạt động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ.
Qua một số khái niệm nói trên, có thể thấy rằng:
Làng nghề là một không gian kinh tế nhất định, được cấu thành bởi hai
yếu tố làng và nghề, chủ yếu liên quan tới các nghề thủ công và một số dịch
vụ, trong đó lao động và thu nhập từ nghề này chiếm tỷ trọng lớn hơn.
Làng nghề có thể được xem xét dưới nhiều góc độ, với nhiều cách hiểu
khác nhau và cũng phù hợp với sự phát triển hiện nay. Do đó, để làm rõ khái
niệm về làng nghề, Thông tư số 116/2006/TT - BNN của Bộ NN và PTNT,
ngày 18/12/2006 đã đưa ra những tiêu chí cụ thể sau:
- Số hộ làm nghề đó chiếm từ 25%
- Thu nhập từ nghề đó chiếm trên 50%
- Giá trị sản lượng của nghề chiếm trên 50% tổng giá trị sản lượng của
làng.
- Thời gian phát triển ổn định từ 2 năm trở lên.
1.1.1.2. Đặc điểm
Làng nghề Việt Nam có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất: Làng nghề Việt Nam đa dạng về cơ cấu ngành hàng và
chủng loại mặt hàng. Đặc điểm này xuất phát từ chính cơ sở hình thành ban
đầu của làng nghề là khai thác lợi thế tại chỗ và phục vụ nhu cầu dân cư trong
vùng. Ngoài ra, trong bối cảnh nền sản xuất nhỏ, nặng về tự cung tự cấp nên
làng nghề là nguồn cung cấp nhiều loại hàng hoá thiết yếu cho dân cư trong
nhiều thế kỷ. Do đó, cơ cấu mặt hàng của làng nghề Việt Nam rất đa dạng,
7
phong phú. Theo Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, hiện tại có 2.017 làng nghề
với hơn 40 nhóm nghề chính, sản xuất ra hàng trăm nghìn chủng loại sản
phẩm. [21]
Trong điều kiện phát triển kinh tế, tăng cường hội nhập quốc tế và nhất
là trong xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làng nghề có cơ hội mở rộng
ngành hàng, lĩnh vực mới. Hiện nay, làng nghề không chỉ còn bó gọn trong
một số ngành hàng tiểu thủ công nghiệp được cha ông để lại mà mở thêm
nhiều lĩnh vực mói như công nghiệp, thương mại, dịch vụ… Ví dụ, ở Bắc
Ninh các làng nghề đã có nhiều mặt hàng mới, tỷ trọng các ngành cơ khí, vật
liệu xây dựng, thực phẩm tăng rõ rệt so với trước đây.
Thứ hai: Làng nghề thường gắn với nông nghiệp, nông thôn. Nông
thôn là nguồn cung cấp nguyên liệu, lao động và thị trường tiêu thụ chủ yếu
cho các sản phẩm làng nghề.
Các làng nghề nông sản, thực phẩm, thủ công mỹ nghệ (TCMN)… lấy
nguyên liệu chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp. Điều đó thể hiện rõ sự
phân bố làng nghề ở Việt Nam thường gắn với vùng nguyên liệu, như Nga
Sơn (Thanh Hoá), Kim Sơn (Ninh Bình) nổi tiếng về các làng nghề chiếu cói
là nhờ có vùng nguyên liệu cói.
Về nhân lực, làng nghề phụ thuộc hoàn toàn vào lao động nông nghiệp.
Hiện có 100% lao động làng nghề xuất thân từ nông thôn với hình thức làm
việc bán thời gian là chủ yếu. Thu hút lao động nông nhàn là thế mạnh (cho
phép giảm chi phí tối đa) và cũng là điểm chủ yếu của làng nghề, bởi vậy khi
nhận được đơn hàng vào dịp nông vụ, các làng nghề không có đủ lao động để
đáp ứng tiến độ giao hàng.
Sản phẩm làng nghề được tiêu thụ chủ yếu ở thị trường nông thôn và
khách hàng chủ yếu là người làm nông nghiệp. Đa số làng nghề có đích nhắm
8
tiêu thụ sản phẩm là thị trường trong vùng. Điều này có thể thấy rất rõ ở đa số
ngành hàng từ chế biến thực phẩm đến cơ khí…
Thứ ba: Quy mô sản xuất ở các làng nghề hiện còn nhỏ bé, thể hiện ở
quy mô sử dụng lao động, doanh thu… Việt Nam có khoảng 11 triệu người
thuộc hơn 1,4 triệu hộ gia đình làm việc ở các làng nghề. Trong đó, mô hình
tổ chức gia đình là chủ yếu. Năm 2005, tại đồng bằng sông Hồng, hình thức
sản xuất hộ gia đình chiếm 99% các loại hình tổ chức sản xuất (Thái Bình,
Hải Dương là 99,1%, Hà Tây là 99,6% …) Các hình thức tổ chức sản xuất
HTX, tổ hợp, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần không
đáng kể. [6, tr20]
Quy mô nhỏ của sản xuất làng nghề còn thể hiện ở tiêu chí vốn. Điều
tra của Bộ NN & PTNT cho thấy vốn sản xuất bình quân mỗi hộ gia đình làm
nghề là 25,73 triệu đồng.[6, tr25]
Trung bình mỗi cơ sở sản xuất làng nghề chỉ có 5 - 6 lao động. Tương
ứng với quy mô sử dụng lao động là doanh thu thấp. Quy mô sản xuất nhỏ có
thể thấy qua con số đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu của làng nghề. Năm
2006, xuất khẩu của làng nghề chỉ đạt 650 triệu USD, tính trung bình mỗi lao
động ở làng nghề chỉ đóng góp cho xuất khẩu 60 USD/năm, cho thấy năng
lực sản xuất làng nghề còn hạn chế.
Thứ tư: Đa dạng mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh. Làng nghề có
nhiều mô hình tổ chức sản xuất bởi đặc thù tận dụng tối đa thời gian nhàn rỗi
của dân cư nông thôn. Hình thức hộ gia đình chiếm đa số với tỷ lệ lên tới 80 90%, có nơi gần 100%. Các mô hình sản xuất theo kiểu Doanh nghiệp còn ít,
mô hình công ty cổ phần mới có ở Hà Nội, Bắc Ninh… và số lượng rất nhỏ.
Theo Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, hiện cả nước có 40.500 cơ sở sản
xuất kinh doanh làng nghề theo mô hình doanh nghiệp, trong đó công ty
TNHH chiếm 14,16%, HTX 5,76%, doanh nghiệp tư nhân 80%. Số lượng
9
doanh nghiệp làng nghề còn quá ít so với mô hình sản xuất hộ gia đình (1,4
triệu hộ).[22]
Theo số liệu thống kê ở tỉnh Bắc Ninh, khu vực làng nghề toàn tỉnh có
308 công ty TNHH, 202 DN tư nhân, 214 HTX so với 18.415 hộ cá thể.
Những con số trên cho thấy sự đa dạng về mô hình tổ chức sản xuất làng nghề
nhưng sản xuất hộ gia đình vẫn là chủ yếu.[22]
Thứ năm: Trình độ sản xuất thủ công là chủ yếu. Trình độ sản xuất
thấp của làng nghề chính là một lý do mà khu vực này được xếp vào sản xuất
tiểu thủ công nghiệp. Công cụ sản xuất chủ yếu là công cụ thủ công, nếu có
máy móc cũng là loại lạc hậu với tuổi thọ trung bình là 20 - 30 năm. Gần đây để
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao, làng nghề đã có chuyển biến lớn về đầu tư các
thiết bị mới, hiện đại cho sản xuất. Song đầu tư chưa đồng bộ, sự thay đổi này
không tạo đột biến về công nghệ. Do đó, bản chất sản xuất làng nghề vẫn là thủ
công kết hợp một phần máy móc, chưa mang tính chất dây chuyền công nghiệp.
Thứ sáu: Tiêu thụ hàng hoá trung gian. Nhìn chung, hàng hoá làng
nghề chủ yếu tiêu thụ tại thị trường nội địa, thông qua các chợ địa phương,
các đại lý nhỏ. Tiêu thụ hàng hoá làng nghề gặp nhiều khó khăn. Làng nghề
chưa có hệ thống tiêu thụ sản phẩm, chủ yếu dựa vào tư thương. Do đó, nhiều
làng nghề không có thị trường tiêu thụ ổn định. Xuất khẩu thấp không xứng
đáng với tiềm năng và hầu hết phải thông qua trung gian.
1.1.1.3. Khái quát về phát triển làng nghề ở Việt Nam
Làng nghề rất phổ biến ở nông thôn Việt Nam, ở nhiều địa phương hầu
như làng nào cũng có một nghề. Một số tỉnh, thành phố có nhiều làng nghề
như Hà Nội, Nam Định, Thái Bình, Bắc Ninh…với tỷ lệ làng nghề lên tới 70 80%. Theo thống kê của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, hiện nay nước ta có
2.790 làng nghề, riêng ở Hà Nội có 1.160 làng nghề. Theo tổng hợp của Tổng
cục Môi trường, làng nghề nước ta phân bố tập trung chủ yếu tại đồng bằng
10
sông Hồng (chiếm khoảng 60%), miền Trung (khoảng 30%) và miền Nam
(khoảng 10%).
Bảng 1.1. Phân bổ các loại hình làng nghề ở Việt Nam
Ƣơm tơ,
dệt nhuộm,
đồ da
Chế biến
Thủ
Vật liệu
nông sản,
Tái chế
công,
xây
Nghề
thực
phế liệu
mỹ
dựng,
khác
nghệ
gốm sứ
phẩm
Miền Bắc
150
145
71
495
25
380
Miền
30
45
30
150
12
127
15
30
9
121
8
158
195
220
110
766
45
665
Trung
Miền
Nam
Cả nƣớc
(Nguồn: Cục công nghiệp địa phương, số liệu thống kê năm 2008)
Trong xu hướng kinh tế chuyển dịch tăng công nghiệp và dịch vụ, làng
nghề cũng hình thành với nhiều nghề thủ công nghiệp và dịch vụ. Các làng
nghề đổi mới về sản phẩm, một số đã đạt trình độ khá cao, cung ứng nguyên
phụ liệu, phụ tùng cho các ngành công nghiệp.
Tiềm năng của làng nghề thể hiện qua tốc độ phát triển trong những
năm gần đây. Trung bình mỗi năm, Việt Nam có thêm hàng trăm làng nghề.
Theo thống kê của Bộ NN và PTNT, tốc độ tăng bình quân số làng nghề là
8,9% - 9,8%/năm. Thời gian tới, khi các chương trình phát triển kinh tế nông
thôn phát huy hiệu quả sẽ thúc đẩy mạnh mẽ việc hình thành và phát triển
làng nghề. Dự báo, mức tăng trưởng bình quân của làng nghề có thể đạt 15%/
năm. Trong đó, Chương trình “Mỗi làng một nghề” của Bộ NN và PTNT với
các mục tiêu và biện pháp hỗ trợ cụ thể với tổng số vốn gần 1.500 tỷ đồng sẽ
mang lại sự nhảy vọt về chất lượng và số lượng làng nghề trong cả nước.
11
Bảng 1.2: Tốc độ phát triển làng nghề qua các năm trong cả nƣớc
Năm
Số lƣợng
Tỷ lệ tăng (%)
2002
1.000
-
2003
1.210
21
2005
1.729
72,9
2008
2017
101,7
(Nguồn: Cục công nghiệp địa phương, số liệu thống kê năm 2009)
1.1.1.4. Vai trò của làng nghề
Thứ nhất, Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.
Đánh giá này có thể được nhìn nhận trên bình diện quốc gia và địa
phương. Hiện nay giá trị sản xuất của các làng nghề chiếm 9% GDP của cả
nước. Theo số liệu thống kê, làng nghề đã khẳng định vị trí chủ lực ở nhiều
tỉnh. Năm 2009, giá trị sản xuất của các làng nghề Hà Nội đã đạt khoảng
7.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 10% tổng giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp toàn thành phố. Trong đó, riêng 256 làng nghề đã được công
nhận là làng nghề truyền thống (tính đến hết năm 2008) đã đạt giá trị sản xuất
4.791 tỷ đồng. Ở Bắc Ninh, làng nghề chiếm khoảng 30% giá trị sản xuất
công nghiệp toàn tỉnh.
Thứ hai, Thu hút đầu tư nước ngoài và cung cấp nguồn hàng xuất
khẩu chủ lực.
Không chỉ đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, làng nghề còn
được nhìn nhận với ý nghĩa là lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt với
những mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu lớn như nông sản, TCMN, gốm sứ…
Hiện chưa có thống kê về đầu tư nước ngoài vào làng nghề nhưng theo các
chuyên gia, nguồn vốn này không nhỏ và thường được thực hiện dưới hình
12
thức không chính thức. Đa số đầu tư nước ngoài được thực hiện thông qua họ
hàng, mối quan hệ kinh doanh…
Hoạt động xuất khẩu của làng nghề bắt đầu khá sớm, từ thời nhà Lý với
các sản phẩm như đồ gốm, gỗ, nội thất, mây tre đan, giấy, lụa, bạc… Hàng
hoá được giao tại cảng Vân Đồn, Vân Ninh và sau này là Phố Hiến, Hội An,
Phan Thiết, Bến Nghé, Nhà Rồng…
Sau khi bị thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam đã trở thành thị trường
tiêu thụ hàng hoá của Pháp nên đã hạn chế phát triển làng nghề thủ công
truyền thống. Tuy nhiên, các mặt hàng công nghiệp nhập khẩu từ Pháp
không thể làm mất đi các nghề thủ công, vì nhu cầu tiêu thụ hàng hoá
khá lớn, với ưu thế giá rẻ.
Ngày nay, sản phẩm làng nghề Việt Nam tiếp tục xuất khẩu đi nhiều
nước. Theo Bộ NN&PTNT, hiện có 40% sản phẩm làng nghề được xuất khẩu
đến hơn 100 nước. Một số sản phẩm làng nghề có tiêng trên Thế giới như đũi
Nam Cao (Thái Bình), lụa Vạn Phúc (Hà Nội), khảm trai Đông Giao (Hải
Dương), gỗ Đồng Kỵ (Bắc Ninh).
Xuất khẩu của làng nghề có tiếm năng lớn và tăng trưởng cao. Trong 5
năm (2001 - 2005), hàng TCMN do làng nghề sản xuất trở thành mặt hàng
xuất khẩu mũi nhọn, tăng trưởng bình quân 19%/năm. Nếu tính cả gỗ mỹ
nghệ vào nhóm hàng làng nghề, kim ngạch xuất khẩu của khu vực này còn
lớn hơn rất nhiều. Thực tế, gỗ mỹ nghệ chủ yếu được sản xuất bởi các làng
nghề nhưng hiện tại vẫn được tính vào nhóm hàng đồ gỗ. Theo “Thời báo
kinh tế 2009 - 2010 - Việt Nam và Thế giới” kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản
phẩm gỗ năm 2005 đạt 1,561 tỷ USD, năm 2006 là 1,943 tỷ USD, năm 2009
là 2,598 tỷ USD.
Tại các địa phương, làng nghề cũng đóng vai trò quan trọng trong kim
ngạch xuất khẩu. Tỉnh Nam Định, mỗi năm, làng nghề đem về 30 triệu USD
13
- Xem thêm -