ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HÀ THỊ BẮC
PHÁT HUY GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG
TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM THỜI KỲ
ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-
HÀ THỊ BẮC
PHÁT HUY GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG
TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM THỜI KỲ
ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số:
60 22 85
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS, TS. HOÀNG CHÍ BẢO
HÀ NỘI – 2010
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của GS, TS.
Hoàng Chí Bảo.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều
trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2010.
Tác giả luận văn
Hà Thị Bắc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................ 1
Chƣơng 1. GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY .... 7
1.1. Gia đình và hệ giá trị đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam ................... 7
1.1.1. Khái quát về gia đình và gia đình truyền thống Việt Nam ........................ 7
1.1.2. Đạo đức và giá trị đạo đức của gia đình truyền thống Việt Nam........................ 20
1.1.3. Hệ giá trị đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam ................................. 22
1.2. Đổi mới và hội nhập quốc tế - sự tác động của nó đến giá trị đạo đức
của gia đình truyền thống Việt Nam ........................................................ 29
1.2.1. Đổi mới và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay ..................................... 29
1.2.2. Tác động của đổi mới và hội nhập quốc tế đến giá trị đạo đức của gia
đình truyền thống Việt Nam .................................................................... 36
Chƣơng 2. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰM PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH TRUYỀN
THỐNG TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY ...... 48
2.1. Gia đình Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay ... 48
2.1.1. Thực trạng gia đình Việt Nam hiện nay ................................................... 48
2.1.2. Yêu cầu khách quan của việc phát huy những giá trị đạo đức của gia
đình truyền thống trong xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay ........... 68
2.2. Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu phát huy những giá trị đạo
đức gia đình truyền thống Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội
nhập quốc tế ............................................................................................. 73
2.2.1. Phương hướng .......................................................................................... 73
2.2.2. Những giải pháp ....................................................................................... 79
KẾT LUẬN......................................................................................................... 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................. 95
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chưa bao giờ vấn đề gia đình lại được nhiều người, nhiều giới, nhiều quốc
gia quan tâm như hiện nay. Ở nước ta, quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế
đang tạo ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với việc xây
dựng gia đình và phát huy những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống Việt
Nam.
Trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển
cùng với những chuẩn mực giá trị của gia đình truyền thống Việt Nam nhưng
dưới tác động của quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, gia đình Việt Nam đang
có những biến đổi một cách mạnh mẽ. Sự biến đổi ấy là một quá trình thống
nhất, liên tục vừa bảo tồn, truyền thụ, phát huy những giá trị tích cực của gia
đình truyền thống, đồng thời tiếp thu có chọn lọc và cải biến những giá trị của
gia đình hiện đại. Có thể nói, gia đình Việt Nam hiện nay chính là sản phẩm của
sự hiện đại hoá các giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam và truyền thống
hoá những tinh hoa của gia đình hiện đại. Nhiều giá trị của gia đình hiện đại
được thế giới tạo ra trong quá trình xây dựng nền văn hoá mới, gia đình mới
cũng đã được các gia đình Việt Nam tiếp thu và đang góp phần làm thay đổi diện
mạo của đất nước, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
Trong quá trình diễn ra những biến đổi của gia đình, có những giá trị của
gia đình truyền thống sẽ bị mất đi; lại có những giá trị đang biến đổi dần dần,
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội mới và cũng có những giá trị quý báu của
gia đình Việt Nam truyền thống vẫn được bảo tồn và phát huy như: tình yêu lứa
đôi trong sáng, lòng chung thuỷ, tình nghĩa vợ chồng; trách nhiệm và sự hy sinh
của cha mẹ với con cái; con cái hiếu thảo với cha mẹ, ông bà, tổ tiên… đồng thời
gia đình Việt Nam hiện nay cũng đang tiếp nhận nhiều giá trị của gia đình hiện
đại như: tôn trọng tự do cá nhân, tôn trọng quan niệm và sự lựa chọn của mỗi
thành viên trong gia đình; tôn trọng lợi ích cá nhân, bình đẳng nam nữ, vợ
chồng…Điều đó cho thấy, gia đình Việt Nam hiện nay đang được củng cố và
xây dựng theo xu hướng hiện đại hoá: dân chủ, bình đẳng, tự do và tiến bộ.
Cùng với những cơ hội đang thúc đẩy sự tiến bộ của gia đình Việt Nam thì
quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế cũng đang đặt gia đình Việt Nam đứng
trước rất nhiều thách thức, biến động và bất trắc, có nguy cơ xâm hại và làm mai
một những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống. Trên thực tế ở nhiều nơi,
nhất là những khu đô thị lớn, gia đình đang có những dấu hiệu của sự khủng
hoảng, những giá trị của gia đình truyền thống tốt đẹp đang bị lấn át bởi sự thao
túng của đồng tiền, lối sống lai căng, thiếu văn hoá, tình trạng ly hôn có xu
hướng tăng cao; sống chung không kết hôn; tình trạng trẻ em nghiện hút; tệ nạn
mại dâm; tình dục đồng giới; bạo lực gia đình; ngoại tình… đang tấn công vào
gia đình từ nhiều phương diện khác nhau. Có một thực tế đang đặt ra, nhiều gia
đình đang lúng túng trong việc nuôi dạy, giáo dục con cái, hướng con cái vào
những giá trị đạo đức cổ truyền thì xem ra lỗi thời, không thích hợp; hướng con
cái vào các giá trị hiện đại thì chưa được xác định rõ ràng… nhiều gia đình chỉ
biết dạy con theo kinh nghiệm của mình; bộ phận khác lại hướng con cái theo
suy nghĩ, lối sống hiện đại đang được du nhập vào nước ta thông qua quá trình
hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, không ít gia đình lại phó thác việc giáo dục con
cái cho nhà trường và xã hội… dẫn đến những hệ quả tiêu cực đối với việc xây
dựng gia đình, giáo dục và định hình nhân cách cho thế hệ trẻ đang lớn lên và
đang hàng ngày, hàng giờ chịu tác động bởi kinh tế thị trường, mở cửa và hội
nhập quốc tế. Tình hình đó đòi hỏi chúng ta cần phải xác định rõ những tác động
của quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế đến gia đình Việt Nam nói chung và
các giá trị gia đình truyền thống Việt Nam nói riêng để giữ gìn và phát huy
những giá trị tốt đẹp ấy trong xây dựng gia đình ở nước ta hiện nay. Do đó, việc
lựa chọn vấn đề “Phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia
đình Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập hiện nay” làm đề tài luận văn thạc
sỹ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về gia đình dưới
nhiều góc độ và quy mô khác nhau. Liên quan đến đề tài của luận văn có thể
phân chia các công trình này thành các nhóm cơ bản sau:
- Nhóm vấn đề chung về xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam có một
số công trình như : “Gia đình Việt Nam ngày nay” NXB. Khoa học xã hội, 1996;
“Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới” của GS. Lê Thi, NXB.
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002; “Suy nghĩ về việc xây dựng chiến lược phát
triển gia đình hiện nay” của Lê Thị Quý, Tạp chí Cộng sản, số 30 - 2003; “Cuộc
sống và biến động của hôn nhân gia đình Việt Nam hiện nay ” của GS. Lê Thi,
NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007; “Gia đình học” của Đặng Cảnh Khanh Lê Thị Quý, NXB. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2009… Qua các công trình
này, các tác giả đã khái quát một cách có hệ thống về sự biến đổi quy mô, cấu
trúc, chức năng của gia đình… trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ở
nước ta hiện nay.
- Nhóm vấn đề quan hệ giới và sự bất bình đẳng, bạo lực gia đình, có một
số công như: “Một số vấn đề về bạo lực gia đình hiện nay” của Lê Thị Quý, Tạp
chí Khoa học và Phụ nữ, số 4 - 1991; “Bất bình đẳng nam nữ nhìn từ góc độ lịch
sử” của Lê Thị Quý, Tạp chí Khoa học về Phụ nữ, số 32 - 1998; “Phụ nữ và bình
đẳng giới trong đổi mới Việt Nam”, NXB. Phụ nữ, Hà Nội, 1998; “Bạo lực gia
đình - Bất bình đẳng trong quan hệ giới” của Lê Thị Quý, Tạp chí Khoa học về
Phụ nữ, số 42 - 2000; “Bạo lực gia đình - một sự sai lệch giá trị”, NXB. Khoa
học xã hội, Hà Nội, 2007… Qua các công trình này, các tác giả đã chỉ ra thực
trạng, nguyên nhân, ảnh hưởng và hậu quả của sự bất bình đẳng giữa các thành
viên, nạn bạo lực gia đình đang diễn biến nghiêm trọng, tác động xấu đến gia
đình và xã hội ở nước ta hiện nay.
- Nhóm vấn đề tiếp cận và nghiên cứu gia đình dưới góc độ văn hoá, đạo
đức có một số công trình như: “Nho giáo và gia đình”, NXB. Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1995; “Xây dựng gia đình văn hoá trong sự nghiệp đổi mới”, NXB.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; “Văn hoá gia đình và xây dựng gia đình văn
hoá trong thời kỳ hội nhập quốc tế” của Th.s Trần Thị Tuyết Mai, Tạp chí Cộng
sản, số 161 - 2008… Qua các công trình này, các tác giả đã khái quát được
những giá trị văn hoá của gia đình, chỉ ra sự cần thiết phải xây dựng văn hoá gia
đình và gia đình văn hoá ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài một số công trình nêu trên còn có các luận án, luận văn nghiên cứu
về gia đình, về đạo đức gia đình và giáo dục đạo đức trong gia đình như: “Thực
trạng và những vấn đề đặt ra đối với gia đình Việt Nam hiện nay ” của TS. Lê
Ngọc Văn; “Sự tác động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến
đạo đức gia đình truyền thống ở Việt Nam” của ThS Nguyễn Thị Thọ… Tuy
nhiên, các công trình nêu trên chỉ đề cập một cách khái quát hoặc một số khía
cạnh của gia đình, cho đến nay còn rất thiếu những công trình nghiên cứu cơ bản
và hệ thống về việc phát huy những giá trị đạo đức của gia đình truyền thống để
xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở xác định hệ giá trị đạo đức của gia đình truyền thống Việt
Nam, luận văn khẳng định sự cần thiết phải phát huy những giá trị đạo đức của
gia đình truyền thống, đồng thời chỉ ra phương hướng, giải pháp để kế thừa và
phát huy những giá trị đạo đức ấy trong xây dựng gia đình Việt Nam thời kỳ đổi
mới và hội nhập quốc tế hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích nghiên cứu đã đặt ra, luận văn tập trung giải quyết
những nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, xác định hệ giá trị của gia đình truyền thống Việt Nam và sự tác
động của quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế đến hệ giá trị gia đình truyền
thống Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, làm rõ yêu cầu khách quan cần kế thừa, phát huy các giá trị đạo
đức tích cực của gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình Việt Nam.
Thứ ba, nêu lên phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát
huy những giá trị tích cực của gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình thời
kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những giá trị gia đình
truyền thống Việt Nam và phát huy các giá trị tích cực của gia đình truyền thống
Việt Nam trong xây dựng gia đình hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu về những giá trị đạo đức
của gia đình truyền thống mà ngày nay vẫn có ý nghĩa tích cực trong xây dựng
gia đình thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế ở nước ta trong những năm gần
đây.
5. Cở sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật,
kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, chú ý tính chính trị
- xã hội của vấn đề nghiên cứu, trong đó có sự kết hợp với các phương pháp như
lôgíc - lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh…để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn
* Đóng góp mới về mặt khoa học
Luận văn góp phần làm rõ hơn hệ giá trị đạo đức tích cực của gia đình
truyền thống Việt Nam, từ đó đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm phát
huy các giá trị tích cực của gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình Việt
Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay.
* Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn làm rõ và sâu sắc hơn những giá trị gia đình truyền thống và sự
tác động của đổi mới, hội nhập quốc tế đối với hệ giá trị của gia đình truyền
thống trong xây dựng gia đình, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp
xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay.
Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy những nội dung có liên quan
đến gia đình; là cơ sở giúp các gia đình ở Việt Nam hiện nay nhận thức đúng đắn
về sự cần thiết phải kế thừa và phát huy những giá trị của gia đình truyền thống
trong việc nuôi dưỡng, giáo dục con cái…
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết.
Chƣơng 1. Giá trị đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay
Chƣơng 2. Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá
trị đạo đức gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay
Chƣơng 1
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TRONG
THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
1.1. Gia đình và hệ giá trị đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam
1.1.1. Khái quát về gia đình và gia đình truyền thống Việt Nam
* Khái quát về gia đình:
Trong cuộc đời mỗi người, gia đình luôn luôn là điểm tựa, là cội nguồn, là
cái nôi của sự yên bình, là yếu tố vô cùng cần thiết cho mỗi người và xã hội.
Nghiên cứu di sản lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen, chúng ta thấy, trong suốt
tiến trình xây dựng quan niệm duy vật về lịch sử, bao giờ các Ông cũng dựa vào
những tiền đề hiện thực. Những tiền đề hiện thực này thường được các Ông sử
dụng với tư cách những phạm trù xuất phát để nghiên cứu, mổ xẻ các quá trình
xã hội nhằm phát hiện ra các quy luật, các mâu thuẫn, các xu hướng vận động và
phát triển của nó. Những tiền đề hiện thực này được biểu hiện một cách cụ thể
qua các phạm trù, như phạm trù hàng hóa, phạm trù con người, phạm trù sở
hữu,... Ở đây, điều đáng nói là, tất cả các phạm trù này đều có liên quan đến
phạm trù gia đình. Bởi, trong quan niệm của các Ông, gia đình là tế bào của xã
hội, tham gia vào mọi quá trình sản xuất, từ sản xuất hàng hóa đến tiêu thụ sản
phẩm; từ việc tái tạo ra con người đến việc đào tạo, bồi dưỡng con người; từ chỗ
tạo ra sự khác biệt về sở hữu đến chỗ giải quyết vấn đề sở hữu. Và, ngược lại,
các quá trình sản xuất, tiêu dùng, cải tiến và sử dụng công cụ lao động, giáo dục
và đào tạo,... đều tác động trở lại gia đình, củng cố hoặc làm biến đổi hình thức
và kết cấu của gia đình.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề gia đình như vậy, nên trong các
tác phẩm của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã không ít đề cập tới vấn đề gia
đình. Các Ông đã xem xét gia đình với tư cách một xã hội thu nhỏ, các hình thức
lịch sử của gia đình, nhất là gia đình với sự xuất hiện của sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất; nghiên cứu mối quan hệ giữa gia đình và nhà nước, sự khác biệt
giữa gia đình dưới chế độ tư bản chủ nghĩa và gia đình dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa tương. Không những thế, các Ông còn nghiên cứu gia đình trong quan hệ
tính giao - vấn đề trong hôn nhân, và gia đình với tư cách yếu tố cấu thành lực
lượng sản xuất trong lịch sử phát triển xã hội.
Có thể nói, vấn đề gia đình trong di sản lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen
không chỉ lại dừng ở khái niệm "gia đình" thuần túy, mà còn khám phá nguồn
gốc gia đình, tác động của gia đình tới xã hội và ảnh hưởng của những biến đổi
xã hội tới gia đình, đặc biệt là ảnh hưởng của sự biến đổi kinh tế, của tiến trình
công nghiệp hoá.
Trong Hệ tư tưởng Đức, khi nói về tiến trình phát triển của lịch sử nhân
loại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xem xét ba mối quan hệ con người đã được hình
thành trong lịch sử nhân loại. Quan hệ thứ nhất là quan hệ giữa con người với tự
nhiên, phản ánh khát vọng chinh phục tự nhiên, nghiên cứu tự nhiên để tồn tại và
cũng để nhằm thỏa mãn những nhu cầu không ngừng nảy sinh của con người.
Quan hệ thứ hai là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản
xuất, phản ánh các quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, các quan hệ trong tổ
chức và quản lý sản xuất, các quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động. Quan
hệ thứ ba là quan hệ gia đình. Cũng theo các Ông, ba quan hệ này tồn tại đan xen
với nhau, hòa vào nhau, cùng tồn tại bên nhau. Nhờ những nghiên cứu của
C.Mác và Ph.Ăngghen về các hình thức gia đình, chúng ta mới có thể hiểu rõ
hơn nội dung của lực lượng sản xuất (quan hệ thứ nhất), nội dung của quan hệ
sản xuất (quan hệ thứ hai) và ngược lại. Khi nhấn mạnh vai trò của gia đình đối
với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, C.Mác và
Ph.Ăngghen còn cho rằng, thực ra, gia đình là “quan hệ xã hội duy nhất” trong
buổi đầu của lịch sử xã hội. Nhờ quan hệ thứ ba này, với chức năng sinh con đẻ
cái, quan hệ gia đình đã sản sinh ra và duy trì các quan hệ xã hội khác. Theo ý
nghĩa đó, gia đình là một xã hội thu nhỏ: gia đình sản sinh ra các cá thể người,
gắn kết các cá thể người thành xã hội và khi xã hội loài người được hình thành
thì những hoạt động của nó thường xuyên tác động tới gia đình làm cho gia đình
biến đổi về cả hình thức, cấu trúc cũng như vai trò của nó đối với xã hội. Chính
vì vậy, các Ông luôn đòi hỏi nghiên cứu gia đình, nghiên cứu lịch sử loài người
phải gắn liền với lịch sử của công nghiệp và của sự trao đổi sản phẩm.
Khi luận chứng về những tiền đề, điều kiện cho sự tồn tại của con người,
C. Mác đã viết: “Hằng ngày khi tái tạo ra đời sống bản thân mình, con người bắt
đầu tái tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và
vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [25, tr.41]. Với quan niệm này gia đình
được nhìn nhận với một số nội dung chính sau:
Thứ nhất, gia đình ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của xã hội
loài người; con người cùng với quá trình tái tạo ra chính bản thân mình thì đồng
thời cũng tạo ra gia đình.
Thứ hai, chức năng chính của gia đình là tái tạo, sinh sôi nảy nở ra con
người.
Thứ ba, gia đình được tạo bởi hai mối quan hệ chủ yếu: quan hệ hôn nhân
(vợ - chồng), quan hệ huyết thống (cha, mẹ - con cái).
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848) C.Mác và Ph.Ăngghen đã
cho rằng, sự ra đời của nền sản xuất bằng máy móc hiện đại - nền đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa với lực lượng sản xuất mới đã dần xóa bỏ toàn bộ hệ
thống công trường thủ công, đã thay đổi sự phân bố dân cư và kết cấu ngành
nghề của xã hội và do vậy, sự "yên ấm” của từng gia đình cũng bị phá vỡ theo
dòng xoáy của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Không chỉ thế, nó còn làm thay
đổi vị trí và điều kiện sinh sống của gia đình, thay đổi nhu cầu thưởng thức
những giá trị vật chất và tinh thần của mọi thành viên trong gia đình. Nếu trước
đây, nhu cầu tiêu dùng được thỏa mãn bằng những sản phẩm trong nước, thì nay
đã nảy sinh ra những nhu cầu mới, đòi hỏi được thỏa mãn bằng những sản phẩm
đưa từ những miền và xứ xa xôi nhất về và một khi “sản xuất vật chất đã như thế
thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế”, nó làm cho những thành quả của
hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân
tộc. Nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa còn tạo ra một chế độ xã hội và chính
trị thích ứng với quan hệ sản xuất mới, với cơ sở hạ tầng mới. Nó xóa bỏ mọi
phẩm chất và đức hạnh do chế độ phong kiến tạo dựng; nó "tước hết hào quang
thần thánh của tất cả những hoạt động xưa nay vẫn được trọng vọng và tôn sùng"
[26, tr.600]; nó biến đổi cả quan hệ gia đình vốn được xem là thiêng liêng nhất,
"xé toang tấm màn tình cảm bao phủ những quan hệ gia đình và làm cho những
quan hệ ấy chỉ còn là những quan hệ tiền nong đơn thuần" [26, tr.600].
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã
khẳng định, với sự hình thành và phát triển của nền đại công nghiệp thì không
chỉ các quan hệ xã hội, mà cả quan hệ gia đình cũng đã bị thay đổi.
Tiếp tục nghiên cứu về gia đình, trong một tác phẩm chuyên khảo đặc biệt
có giá trị Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước (1884), Ph.
Ăngghen đã chỉ ra vị trí quy định của gia đình đối với các thiết chế xã hội, Ông
chỉ ra rằng: “Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, quy đến
cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản
xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần
áo và nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là
sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Những thiết chế xã
hội, trong đó những con người của một thời đại lịch sử nhất định và của một
nước nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất quyết định: Một mặt là do trình
độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình”
[27, tr.414]. Theo Ph. Ăngghen, quá trình sản xuất và tái sản xuất ra đời sống
trực tiếp là nhân tố quyết định tiến trình phát triển của lịch sử; cùng với trình độ
phát triển của lao động, trình độ phát triển của gia đình quyết định trình độ phát
triển của xã hội, đồng thời đến lượt mình trình độ phát triển của gia đình cũng
tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của sản xuất, của lao động và của xã hội.
Thực tế đã chứng minh rằng, những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin về hôn nhân và gia đình đã và đang được thực tiễn chứng minh là hoàn
toàn có cơ sở khoa học, có giá trị thực tiễn cao, nhất là những tư tưởng về những
biến đổi của gia đình phụ thuộc và gắn liền với sự biến đổi của các điều kiện
kinh tế - xã hội nhưng có tác động quan trọng đối với những biến đổi kinh tế - xã
hội ấy.
Trên thế giới, hiện tồn tại rất nhiều hình thức gia đình với cấu trúc và chức
năng khác nhau, do đó, khó có thể đưa ra một định nghĩa chung và khoa học về
gia đình. Ở Việt Nam, từ xưa đến nay, gia đình, đặc biệt là gia đình truyền thống
không chỉ là cộng đồng mà còn cộng cảm, tính xã hội đặc biệt của gia đình là ở
đó. Căn cứ vào thực tiễn của hôn nhân và gia đình ở nước ta, GS. Lê Thi đã đưa
ra quan niệm về gia đình: “Khái niệm gia đình được sử dụng để chỉ một nhóm xã
hội hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống nảy sinh từ
quan hệ hôn nhân đó (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng nội ngoại) cùng chung
sống. Đồng thời gia đình có thể bao gồm một số người được gia đình nuôi
dưỡng, tuy không có quan hệ máu mủ. Các thành viên gia đình gắn bó với nhau
về trách nhiệm, quyền lợi (kinh tế, văn hoá, tình cảm), giữa họ có những điều
kiện ràng buộc có tính pháp lý, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ
trong Luật hôn nhân và gia đình nước ta). Đồng thời trong gia đình có những quy
định rõ ràng về quyền được phép và cấm đoán trong quan hệ tình dục giữa các
thành viên” [39, tr.7].
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về gia đình, mỗi khái niệm đều nhằm
mục đích khái quát lên những yếu tố cơ bản, đặc thù. Sau đây là một số khái
niệm:
a. Gia đình là tập hợp những người cùng chung sống thành một đơn vị nhỏ
nhất trong xã hội, họ gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và dòng máu,
thường gồm vợ chồng, cha mẹ và con cái.
b. Gia đình là nhóm người chung sống với nhau dưới một mái nhà có quan
hệ hôn nhân, huyết thống và nền kinh tế chung.
c. Theo Levi strauss thì gia đình là một nhóm xã hội được quy định bởi ba
đặc điểm nổi bật là: bắt nguồn từ hôn nhân bao gồm vợ chồng, con cái phát sinh
từ sự hôn phối của đôi nam nữ, tuy nhiên trong gia đình có mặt của những người
họ hàng, bà con hoặc con nuôi, họ gắn bó với nhau bởi các nghĩa vụ và quyền lợi
có tính chất kinh tế và về sự cấm đoán tình dục giữa các thành viên.
Hướng tới xây dựng gia đình bền vững, tổ chức UNESCO của Liên hiệp
quốc đã quyết định lấy năm 1994 là năm Quốc tế gia đình và thống nhất khẳng
định: Gia đình là một yếu tố tự nhiên và cơ bản, một đơn vị kinh tế của xã hội.
Gia đình được coi như một giá trị vô cùng quý báu của nhân loại cần được giữ
gìn và phát huy. Trên tình thần đó UNESCO đã đưa ra định nghĩa về gia đình:
Gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng chung sống và có ngân
sách chung.
Trong thời đại ngày nay, trước yêu cầu của phát triển, đổi mới và hội nhập
quốc tế là vấn đề mang ý nghĩa sống còn đối với mọi dân tộc, mọi quốc gia dân
tộc trong đó có Việt Nam. Trong quá trình này, không thể không xét đến mối
quan hệ của nó đối với vấn đề gia đình và do vậy, không thể không vận dụng lý
luận về gia đình trong kho tàng lý luận của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác.
Nghiên cứu quan hệ gia đình trong sự phát triển kinh tế - xã hội, nhất là mối
quan hệ giữa gia đình và sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
trong di sản lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen không những giúp cho chúng ta
thấy được tác động của quá trình cải tạo và phát triển kinh tế - xã hội, thấy được
những khuynh hướng biến đổi tất yếu của gia đình, mà còn giúp chúng ta nhận
thức được vai trò của gia đình đối với sự nghiệp đổi mới và mở rộng hợp tác
quốc tế của nước ta hiện nay. Đó là vai trò của gia đình trong việc trang bị tri
thức mới cho thế hệ lao động tương lai, trang bị những hiểu biết căn bản về
những giá trị và văn hóa đạo đức; nâng cao nhận thức về sự cần thiết phải bảo vệ
những ngành, nghề truyền thống trước những tác động tiêu cực do mặt trái kinh
tế thị trường gây ra.
Chúng ta đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển trong bối cảnh toàn cầu
hóa, đồng thời cũng có những thách thức nghiệt ngã cần phải vượt qua, trong đó
có thách thức về xây dựng gia đình Việt Nam, gìn giữ và phát huy những giá trị
tốt đẹp của gia đình truyền thống, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của
công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Không thể phủ nhận được vai trò to lớn và rất quan trọng của gia đình
trong đời sống xã hội. Các tế bào cấu thành xã hội ấy vẫn còn và sẽ còn là nhân
tố quan trọng quyết định sự phát triển bền vững của xã hội Việt Nam. Từ quan
niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về gia đình trong mối quan hệ với sự
phát triển kinh tế -xã hội, có thể khẳng định chủ trương đó của Đảng ta là định
hướng chiến lược không chỉ đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam mới, mà
còn đối với việc phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt
Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế.
* Gia đình truyền thống Việt nam:
- Khái niệm gia đình truyền thống: Nếu khái niệm gia đình khó xác định
trên diện rộng và rất đa dạng thì khái niệm “gia đình truyền thống” cũng là một
khái niệm khó xác định không kém, hơn nữa nó còn được ít người nghiên cứu.
Gia đình truyền thống là một khái niệm mà các nhà nghiên cứu dùng để
chỉ loại gia đình đã hình thành và tồn tại trong quá khứ mà trong đó chứa đựng
nhiều yếu tố bền vững, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, những
yếu tố đó phản ánh nền văn hoá bản địa và tạo nên nét đặc sắc của văn hoá dân
tộc. Ở Việt Nam, gia đình truyền thống là một khái niệm mang nhiều hàm nghĩa
khác nhau. Trên thực tế, khái niệm này thường được hiểu chỉ là một phần trong
các ý nghĩa đó, chẳng hạn người ta có thể hiểu gia đình truyền thống là gia đình
Nho giáo hoặc gia đình phong kiến. Một số khác muốn nhấn mạnh tinh thần dân
tộc, muốn gạt yếu tố “Nho giáo” hoặc “phong kiến” ra khỏi khái niệm gia đình
truyền thống để đồng nhất gia đình truyền thống với hình thái gia đình Việt Nam
cổ, trước khi Nho giáo xâm nhập. Khi ấy gia đình được coi là tổ ấm của mỗi
người, trong đó sự thuỷ chung, lòng thương yêu và ý thức trách nhiệm là những
giá trị cơ bản. Khi nghiên cứu về gia đình truyền thống, GS. Đỗ Thái Đồng đã
đưa ra cách hiểu về gia đình truyền thống như sau: “Gia đình truyền thống chắc
hẳn là hình thái gia đình ở nông thôn, là gia đình ở những xã hội nông nghiệp Á
Đông đã tồn tại lâu đời và gần như bất biến trên nhiều khía cạnh. Như vậy, đó
cũng là kiểu gia đình nông nghiệp, là một định chế gắn liền với nền nông nghiệp
cổ truyền, sự nhất trí về khái niệm gia đình truyền thống có lẽ chỉ giới hạn đến
đó” [8, tr.72].
Như vậy, gia đình truyền thống có thể được hiểu là loại hình gia đình gắn
với nền kinh tế nông nghiệp tiểu nông với đặc trưng sản xuất lúa nước, ít biến
đổi qua những thay đổi của lịch sử, tồn tại cho đến thế kỷ XIX (trước khi tiếp
xúc với phương Tây), đó là loại gia đình hạt nhân và nửa hạt nhân hoá (gia đình
mở rộng ba thế hệ), gia đình này gắn chặt với nền văn hoá cộng đồng làng xã,
với chế độ ruộng công phân chia định kỳ, là một đơn vị tổ chức sản xuất nông
nghiệp kết hợp với sản xuất thủ công và tiểu thương nghiệp, tự thoả mãn các nhu
cầu sống của các thành viên. Đó là gia đình phụ hệ, coi trọng tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên và chịu ảnh hưởng rất lớn của Nho giáo, tuy nhiên trong gia đình
truyền thống Việt Nam, người phụ nữ vẫn được tôn trọng, đây là sự chi phối của
văn hoá bản địa và chịu sự tác động lớn của Phật giáo… những tác động này đã
làm mềm hoá các nguyên tắc cứng nhắc trong Nho giáo cho phù hợp với tâm lý,
lối sống của con người Việt Nam.
- Đặc điểm của gia đình truyền thống Việt Nam:
Đạo đức truyền thống của gia đình được hình thành và chịu sự quy định
trực tiếp từ những đặc điểm của gia đình truyền thống, đó là đặc điểm về kinh tế
xã hội, văn hoá gia đình và bản sắc văn hoá gia đình truyền thống.
Thứ nhất, đặc điểm kinh tế xã hội của gia đình : Gia đình truyền thống là
một đơn vị sản xuất nông nghiệp tự cung tự cấp. Các hộ gia đình tự sản xuất
những sản phẩm tiêu dùng cho gia đình mình. Có thể nói, gia đình truyền thống
là một hộ nông - công - thương kết hợp trong đó nông nghiệp giữ vai trò chủ
đạo. Ngoài công việc cày cấy ra mỗi gia đình làm thêm một số nghề thủ công
như đan lát, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải để tạo ra sản phẩm tiêu dùng cho cả gia
đình.
- Xem thêm -