Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát huy giá trị đạo đức truyền thống việt nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiên ...

Tài liệu Phát huy giá trị đạo đức truyền thống việt nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiên nay

.PDF
92
26
105

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN …………………. LÊ THỊ NGUYỆT PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Triết học Hà Nội – 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN …………………. LÊ THỊ NGUYỆT PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành triết học Mã số: 60.22.03.01 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Anh Tuấn Hà Nội – 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nêu trong Luận văn là trung thực, các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Học viên thực hiện Luận văn Lê Thị Nguyệt MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1. GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY ................................................................ 8 1.1. Một số vấn đề lý luận về đạo đức và phát huy giá trị đạo đức truyền thống .. 8 1.1.1. Các khái niệm “đạo đức”, “giá trị” và “giá trị đạo đức” ................................... 8 1.1.2. Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam ................................................................ 20 1.1.3. Phát huy giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam ................................................. 33 1.2. Một số vấn đề lý luận chung về toàn cầu hóa ..................................................... 36 1.2.1. Khái niệm toàn cầu hóa......................................................................................... 36 1.2.2. Tác động tích cực của toàn cầu hóa ..................................................................... 39 1.2.3. Tác động tiêu cực của toàn cầu hoá ............................................................. 42 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY ...................................................................................................................... 48 2.1. Thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và những vấn đề đặt ra .......................................................................... 48 2.1.1. Phát huy giá trị đạo đức truyền thống yêu nước ................................................. 48 2.1.2. Phát huy giá trị đạo đức truyền thống đoàn kết và nhân ái ................................ 53 2.1.3. Phát huy giá trị đạo đức truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động............ 57 2.1.4. Phát huy giá trị đạo đức truyền thống hiếu học................................................... 60 2.1.5. Một số vấn đề đặt ra trong phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay ............................................................................................. 65 2.2. Giải pháp phát huy giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa .................................................................................................................... 68 2.2.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo điều kiện phát huy tốt các giá trị đạo đức truyền thống ....................................................................................................... 68 2.2.2. Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay .................................................................. 70 2.2.3. Đổi mới nội dung và phương thức giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho toàn xã hội ........................................................................................................................ 72 2.2.4. Xây dựng chính sách cụ thể phát huy giá trị đạo đức truyền thống ................... 74 KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................... 83 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một dân tộc có bề dày lịch sử, đã trải qua biết bao biến động lớn nhưng vẫn hiên ngang giữ vững chủ quyền và phát triển. Vị trí địa lý gần như nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu với nhiều nước trên thế giới, nhưng đó cũng chính là những khó khăn của dân tộc ta trong việc chống chọi với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt và chống lại những kẻ xâm lược hung bạo, hùng mạnh nhất trên thế giới. Vì vậy, muốn tồn tại và phát triển Việt Nam không còn cách nào khác là phải khơi dậy và phát huy nội lực của mình một cách mạnh mẽ. Trong những thời khắc gian khó và đầy thử thách của lịch sử dân tộc, giá trị đạo đức truyền thống vừa là kết quả vừa là động lực của quá trình đấu tranh đầy cam go đó. Chính những giá trị đạo đức ấy đã thúc đẩy tinh thần đấu tranh vượt qua mọi chông gai thử thách để nhân dân ta xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam được như ngày hôm nay. Cũng chính điều đó đã làm nên nét riêng biệt của dân tộc Việt Nam được bạn bè quốc tế công nhận với lòng ngưỡng mộ và khâm phục sâu sắc. Đạo đức là hình thái ý thức xã hội do tồn tại xã hội quy định đồng thời cũng chịu sự tác động của các hình thái ý thức xã hội khác. Những giá trị đạo đức truyền thống của Việt Nam tuy mang tính ổn định bền vững nhưng cũng không phải là nhất thành bất biến, mà thường xuyên vận động và biến đổi theo dòng lịch sử. Vì vậy, khi lịch sử bước sang trang mới thì những giá trị đạo đức truyền thống cũng biến đổi và cần phải được nhận thức lại, lựa chọn cho phù hợp điều kiện hiện tại. Điều đó sẽ làm cho hệ thống giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ngày càng phát triển phong phú, đa dạng, góp phần tích cực vào sự phát triển đời sống xã hội của chúng ta. Việt Nam hiện nay đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta đang ra sức xây dựng một xã hội tiến bộ, công bằng, dân chủ và văn minh. 1 Để thực hiện thành công sự nghiệp đó, một mặt, chúng ta cần hướng tới xác lập đạo đức mới, xã hội chủ nghĩa nhằm đưa đến cho con người những điều tốt đẹp nhất ngay trong từng bước đi tới tương lai đó. Mặt khác, cũng cần hướng ra bên ngoài để hội nhập, học hỏi kinh nghiệm nhằm thực hiện tốt hơn công cuộc xây dựng xã hội mới. Chúng ta hội nhập thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra như một cơn lốc cuốn hút tất cả các dân tộc xích lại gần nhau hơn. Đây là một xu thế tất yếu, khách quan phù hợp quy luật của thời đại mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài vì đứng ngoài đồng nghĩa với việc sẽ tụt hậu. Toàn cầu hóa đã đem đến cho tất cả các nước đặc biệt là các nước đang phát triển những cơ hội to lớn trên mọi mặt của đời sống xã hội. Nhưng mặt khác nó cũng đặt ra những thử thách không nhỏ, mà một trong số đó chính là sự xâm nhập, lai căng dẫn đến phá vỡ những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, làm cho các dân tộc yếu thế không còn là chính mình nữa. Như mọi quốc gia khác, Việt Nam cũng chịu sự quy định của xu thế toàn cầu hóa đó. Vì vậy, trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội, văn hóa thì đạo đức xã hội của chúng ta cũng có nhiều biến động theo chiều hướng tích cực thể hiện ở việc con người trong xã hội đang trở nên bình đẳng với nhau hơn, quan tâm, đùm bọc nhau hơn, có xu hướng xích lại gần nhau hơn... Bên cạnh đó mặt trái của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế cũng đang tác động mạnh mẽ đến đời sống đạo đức xã hội của chúng ta như tình trạng “đồng tiền lên ngôi, lối sống vụ lợi, vị kỷ, thực dụng, tôn thờ các giá trị vật chất, các tiện nghi tiêu dùng và hưởng lạc, sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân cực đoan... đã lấn át và làm xói mòn các giá trị tinh thần, làm hủy hoại đạo đức, nhân cách” [50, 11] và cũng chính “hiện trạng đạo đức suy thoái gây nhức nhối cho xã hội, làm cho lòng dân không yên, xã hội tiềm ẩn những mất ổn định. An ninh xã hội và an toàn cuộc sống bị đe dọa” [50, 113]. 2 Vì vậy, vấn đề đặt ra với chúng ta hiện nay là làm thế nào để trong quá trình hội nhập chúng ta không bị hòa tan, cũng như không đánh mất những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, mà ngược lại thông qua hội nhập với khu vực và thế giới chúng ta không chỉ tiếp thu những nét đẹp đạo đức mới của nhân loại, mà còn có thể vẫn giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của ông cha, làm cho chúng trở thành động lực đưa đất nước vươn lên một tầm cao mới. Đây thực sự là vấn đề cấp bách lôi cuốn sự qua tâm của nhiều cấp, nhiều ngành, và cũng khiến các nhà nghiên cứu trăn trở, suy nghĩ để tìm ra hướng giải quyết cho phù hợp với điều kiện hiện nay. Vì những lý do đó tác giả đã lựa chọn vấn đề Phát huy giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay làm đề tài nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề giá trị truyền thống nói chung và giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam nói riêng đã được nhiều tác giả với nhiều công trình quan tâm nghiên cứu. Tiêu biểu phải kể đến công trình của tác giả Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam [14]. Trong công trình này tác giả đã đề cập đến cơ sở hình thành, nội dung và những biểu hiện của các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc, trong đó chủ yếu là những giá trị đạo đức. Gần 30 năm qua đất nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là mảnh đất màu mỡ để các nhà nghiên cứu khai thác các đề tài về giá trị truyền thống nói chung và giá trị đạo đức truyền thống nói riêng. Tiêu biểu cần kể đến công trình do tác giả Phạm Minh Hạc chủ biên (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa [16]. Công trình đã đề cập đến những vấn đề cơ bản về truyền thống, cơ sở hình thành cùng những nội dung cơ bản của truyền thống Việt Nam và phát huy vai trò của truyền thống trong nhân tố con người phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện 3 đại hóa. Công trình nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sỹ Quý đồng chủ biên (2001), Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa [4], đã phản ánh rõ những nét cơ bản về giá trị và giá trị truyền thống được thể hiện trong mối quan hệ giữa văn hóa truyền thống với sự phát triển trong đó nhấn mạnh vị thế chủ thể của văn hóa nội sinh trong hội nhập, khai thác những yếu tố tích cực của Nho giáo Việt Nam phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tiếp đến, công trình nghiên cứu Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay [5] do các tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Phúc đồng chủ biên (2003), đã đề cập đến những tác động của kinh tế thị trường đối với những giá trị đạo đức truyền thống, vai trò của đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường và đề xuất một số giải pháp xây dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Trong cuốn sách Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay: Vấn đề và giải pháp [50] của Viện khoa học Xã hội Việt Nam do các tác giả Nguyễn Duy Quý và Hoàng Chí Bảo chủ biên (2006), đã gióng lên những hồi chuông cảnh báo thực trạng xuống cấp nghiêm trọng của đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay. Với những tác động của kinh tế thị trường và sự mở rộng giao lưu quốc tế, đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay đã có biến đổi thuận như: Sự bình đẳng trong xã hội, tự do dân chủ của con người được tăng lên. Bên cạnh đó cuốn sách nêu lên những hạn chế, những điều đáng lo ngại là đạo đức gia đình và xã hội, đạo đức trong các ngành, các lĩnh vực đang rất sa sút như lối sống chạy theo đồng tiền, sự tha hóa đạo đức của một bộ phận cán bộ công chức nhà nước, tình trạng tội phạm gia tăng... Điều đó đang gây ra những bức xúc cho xã hội, những lo lắng cho người dân. Trên cơ sở phân tích sâu sắc thực trạng đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay, các tác giả đã nêu lên giải pháp như tăng cường nghiên cứu giảng dạy đạo đức trong xã hội, nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam, để khắc phục những hạn chế thiếu sót trên. 4 Như vậy, các công trình trên đây chủ yếu tập trung nghiên cứu quá trình hình thành giá trị truyền thống và đạo đức truyền thống, sự chuyển đổi đạo đức truyền thống trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và trong điều kiện kinh tế thị trường mà chưa chú ý nhiều đến sự biến động các giá trị truyền thống, đặc biệt là phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Toàn cầu hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội là một vấn đề lớn và mang tính thời sự, vì vậy đã không ít các sách báo, công trình khoa học đề cập đến ở nhiều góc độ tiêu biểu khác nhau. Toàn cầu hóa - những vấn đề lý luận và thực tiễn [41] của tác giả Lê Hữu Nghĩa và tác giả Lê Ngọc Tòng đồng chủ biên (2004). Đây là kết quả nghiên cứu của đề tài KX.08.01 về xu thế toàn cầu hóa trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, gồm có 27 chuyên luận tập trung làm rõ các vấn đề về đặc điểm, bản chất của toàn cầu hóa, tính hai mặt của toàn cầu hóa đối với phát triển kinh tế của các quốc gia và tác động của toàn cầu hóa đến các mặt chính trị, xã hội, văn hóa ở các nước. Công trình Toàn cầu hóa - cơ hội và thách thức đối với các nước đang phát triển [52] của tác giả Đường Vinh Sường (2004) được thực hiện trên cơ sở phân tích, tổng hợp các đặc trưng cơ bản của toàn cầu hóa kinh tế, những cơ hội và thách thức đặt ra với các nước đang phát triển đồng thời có sự liên hệ với Việt Nam trong quá trình đổi mới. Ngoài ra còn có công trình nghiên cứu của tác giả như Nguyễn Văn Thanh (2003) chủ biên, Những mảng tối của toàn cầu hóa [54]. Như vậy, các công trình nghiên cứu về toàn cầu hóa ở trên đây chủ yếu tập trung nghiên cứu sự tác động của toàn cầu hóa đối với vấn đề kinh tế trong khi đó các vấn đề xã hội khác, nhất là vấn đề giá trị đạo đức truyền thống ít được đề cập đến. Đứng trước tác động của toàn cầu hóa đối với các vấn đề của quốc gia những năm gần đây đã diễn ra nhiều cuộc hội thảo quốc tế lớn bàn về vấn đề giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống của các dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Tiêu biểu là công trình (2002) Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa [3] do Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Huyên 5 đồng chủ biên. Công trình đã tập hợp những bài viết chọn lọc của một số tác giả được trình bày trong Hội thảo khoa học quốc tế “Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa” được tổ chức tại Hà Nội vào 5/2001. Tiếp đến là cuộc Hội thảo Quốc tế “Toàn cầu hóa - Những vấn đề triết học châu Á - Thái Bình Dương” được tổ chức tại Hà Nội tháng 11 năm 2005. Các bài tham luận đều tập trung làm rõ thực chất của toàn cầu hóa và những thách thức cũng như cơ hội của toàn cầu hóa đối với việc giữ gìn và phát huy những những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam đồng thời bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Tuy nhiên, các công trình trên đây phần lớn tập trung nghiên cứu giá trị truyền thống của dân tộc nói chung ít đề cập đến vấn đề phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa, đặc biệt chưa thật rõ những giá trị đạo đức truyền thống nào cần phát huy để góp phần thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài này để nghiên cứu mong muốn góp một phần nhỏ bổ sung làm rõ hơn những vấn đề đã được trình bày ở trên. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích: Trên cơ sở lý luận về giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và toàn cầu hóa, luận văn phân tích thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, từ đó đề xuất một số giải pháp phát huy giá trị đạo đức truyền thống ở Việt Nam hiện nay. Nhiệm vụ: - Làm rõ các khái niệm đạo đức, giá trị, giá trị đạo đức, giá trị đạo đức truyền thống và toàn cầu hóa, phân biệt với văn hóa, giá trị văn hóa truyền thống. - Làm rõ khái niệm phát huy giá trị đạo đức truyền thống. - Phân tích thực trạng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay và những vấn đề đặt ra. - Đề xuất một số giải pháp phát huy giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. 6 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm triết học Mác Lênin về đạo đức, về mối liên hệ giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng đạo đức mới. Luận văn cũng kế thừa thành tựu nghiên cứu của các tác giả đi trước về giá trị truyền thống, giá trị đạo đức truyền thống và toàn cầu hóa. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu biện chứng như thống nhất lịch sử - lôgic, phân tích - tổng hợp, diễn dịch - quy nạp, kết hợp lý luận với thực tiễn, so sánh, khái quát hóa... 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng: Phát huy giá trị đạo đức truyền thống. Phạm vi: Luận văn nghiên cứu chủ yếu tập trung trong lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam, đặc biệt là lựa chọn một số giá trị đạo đức truyền thống cần phát huy trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn tập trung phân tích thực trạng và một số vấn đề đặt ra cho việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Từ thực trạng đó đề xuất một số giải pháp cụ thể để giải quyết những vấn đề tồn tại, góp phần phát huy hơn nữa giá trị đạo đức truyền thống trong giai đoạn hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm rõ giá trị đạo đức truyền thống và vấn đề phát huy các giá trị đó trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu có thể được vận dụng vào việc xây dựng đạo đức mới của con người Việt Nam hiện nay và có thể dùng làm tài liệu tham khảo giảng dạy và học tập môn đạo đức học. 8. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương 4 tiết. 7 CHƯƠNG 1. GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY 1.1. Một số vấn đề lý luận về đạo đức và phát huy giá trị đạo đức truyền thống 1.1.1. Các khái niệm “đạo đức”, “giá trị” và “giá trị đạo đức” * Khái niệm đạo đức Đạo đức học cổ đại xuất hiện như là một phương thức lĩnh hội thế giới về mặt tinh thần, khởi nguồn từ Xôcrat vốn là nhân vật độc đáo rất nổi tiếng, như một chiến binh, nhà thông thái, nhà thuyết khách vĩ đại, nhà hùng biện bậc thầy. Với phương châm chỉ đạo tư tưởng đạo đức là, hãy tự nhận thức bản thân mình, Ông đã chứng minh rằng đạo đức là tri thức. Người ta có được đạo đức là nhờ sự hiểu và do vậy, chỉ sau khi hiểu biết, nghĩa là đã có khái niệm chính xác về đạo đức mới trở thành người đạo đức được. Platôn là nhân vật lớn của triết học Hy Lạp cổ đại - người đã sáng lập đường hướng duy tâm triết học. Theo ông nguồn gốc của đạo đức không phải ở trong bản chất con người mà là trong linh hồn vĩnh cửu độc lập với con người cụ thể. Ông cho rằng, thế giới hiện thực chỉ là nguồn gốc của những sai lầm và tội ác. Tri thức đúng đắn sẽ đạt được thông qua sự hồi tưởng của linh hồn, mà theo ông, gồm có ba phần: lý trí, ý chí và cảm xúc, trong đó phần thứ nhất là cơ sở của sự thận trọng. Sự kết hợp hài hòa ba phần này giúp đạt tới đức hạnh và chính nghĩa. Platôn cho rằng, Thượng đế chính là quan tòa tối cao soi xét mọi hành vi của con người, do vậy cần giáo dục công dân tôn kính thượng đế để trở thành người đạo đức. Arittôt, theo nhận định của C.Mác, là nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại. Ông đã phê phán quan điểm của Platôn, xuất phát từ quan niệm về mối liên hệ mật thiết giữa đạo đức và chính trị. Ông đã xác định cái gì phục vụ cho nhà nước và củng cố trật tự đang tồn tại thì cái đó có phẩm hạnh, khái niệm chính nghĩa trong mối quan hệ với người khác, quan tâm đến người khác, là sự thể hiện hành động 8 chính nghĩa của con người tự biểu hiện trước hết như một thực thể chính trị và xã hội. Arittôt là người đã thấy được nguồn gốc hành vi đạo đức của con người trong xã hội. Theo ông, hạnh phúc là mục đích cao nhất của con người và giáo dục phẩm hạnh là phương tiện để đạt đến mục đích ấy. Ông cho rằng, nếu chính trị đi tìm hạnh phúc cho xã hội thì đạo đức lại đi tìm hạnh phúc cho cá nhân, chính điều đó làm chính trị và đạo đức có mối liên hệ, tác động lẫn nhau. Epiquya lại cho rằng, những yêu cầu quyền lợi và khát vọng của con người phản ánh bản chất của con người. Theo ông, nhiệm vụ của đạo đức học là dạy cho con người biết lựa chọn cách sống một cách khôn ngoan, biết thỏa mãn những mong ước tất yếu và biết tránh xa những mong ước vô nghĩa. Ông kết luận sự ôn hòa là nền tảng của cuộc sống hạnh phúc. I.Cantơ cho rằng, lý tính là nguồn gốc sinh ra các nguyên lý, các chuẩn mực đạo đức. Vì vậy, ý chí đạo đức hay là thiện ý, theo cách gọi của Cantơ là năng lực hành động phù hợp với quy luật đạo đức phổ biến, nghĩa là phù hợp với mệnh lệnh tuyệt đối. Mệnh lệnh tuyệt đối đòi hỏi hoạt động của con người phải hướng tới cộng đồng, sống phù hợp với tự nhiên, tôn trọng mình và người khác. Điều đó cũng có nghĩa rằng, mệnh lệnh tuyệt đối đòi hỏi con người hành động theo một pháp chế phổ biến. Nhưng, trong xã hội có giai cấp đối kháng thì các giai cấp khác nhau có quan niệm khác nhau về lý tưởng của một pháp chế phổ biến. Vì vậy, trên thực tế, mệnh lệnh tuyệt đối không thể trở thành một pháp chế phổ biến được. Đối với G.Hêghen, cội nguồn và cơ sở của tất cả những hiện tượng tự nhiên và xã hội là một bản nguyên tinh thần, lý tính và được gọi là ý niệm tuyệt đối. Ý niệm này tự vận động, phát triển và thể hiện ra thành toàn bộ những hiện tượng tự nhiên và xã hội. Tuân thủ lôgic đó, Hêghen cho rằng, đạo đức bắt nguồn từ ý niệm pháp lý, còn ý niệm pháp lý là một hình thái biểu hiện của ý niệm tuyệt đối. Cũng như ý niệm tuyệt đối, ý niệm pháp lý vận động, phát triển hay là tự nhận thức bản thân mình theo xu hướng đi từ trừu tượng đến cụ thể. Bởi thế, điểm xuất phát hay là bậc thứ nhất của ý niệm pháp lý là pháp luật chủ quan được Hêghen gọi là luân 9 lý. Sự thống nhất giữa pháp luật khách quan và pháp luật chủ quan, sự thể hiện cụ thể của sự thống nhất này trong gia đình, xã hội và quốc gia chính là bậc phát triển thứ ba của ý niệm pháp lý được Hêghen gọi là đạo đức. Như vậy, ở Hêghen, luân lý với tư cách là phương diện chủ quan của hành vi và đạo đức với tư cách là phương diện khách quan của hành vi đều là biểu hiện của ý niệm tuyệt đối. Đạo đức tuy là một hiện tượng xã hội, biểu hiện trong các quan hệ gia đình, xã hội, quốc gia, nhưng về bản chất lại là biểu hiện của ý niệm tuyệt đối, có nguồn gốc từ ý niệm tuyệt đối. L.Phoiơbắc cho rằng, đạo đức chỉ tồn tại ở đâu có mối quan hệ giữa người với người, hay nói như cách nói của ông, ở đâu có mối quan hệ giữa “tôi và anh”. Nhưng Phoiơbắc quy mọi quan hệ người vào quan hệ đạo đức và cho rằng, nguyên tắc cơ bản của đạo đức là sự thương yêu lẫn nhau giữa mọi người. Từ đó, ông tuyên truyền cho một tình yêu phổ biến và kêu gọi mọi người phải biết “hạn chế mình một cách phổ biến”. Đối với ông vươn tới một thứ đạo đức tình yêu như vậy, con người có thể khắc phục được mọi bất công, mọi đau khổ với tính cách là những ngẫu nhiên đi chệch khỏi bản chất đích thức của con người. Mặc dù thấy được đạo đức trong quan hệ người, nhưng Phoiơbắc không thấy được tính quy định của các quan hệ kinh tế - xã hội đối với đạo đức. Vì thế, rốt cuộc đạo đức đối với ông cũng chỉ là một năng lực bẩm sinh, trừu tượng, bất biến và xét đến cùng cũng chỉ là sức mạnh từ bên ngoài gán vào cho xã hội và con người. Khác với tất cả các quan niệm trên, quan niệm mácxít khẳng định rằng, đạo đức có nguồn gốc từ lao động. Tính quy định sâu xa của lao động đối với sự hình thành đạo đức biểu hiện trước hết ở vai trò của lao động trong sự hình thành con người. Trong tác phẩm Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người, bằng sự khái quát các tài liệu sinh học, nhân học đương thời, Ph.Ăng ghen đã chỉ ra rằng: “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế, đến một mức độ mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải 10 nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người” [31, 641]. Nhưng, lao động không chỉ sáng tạo ra con người với tư cách là con người sinh vật, nghĩa là làm phát triển bộ não hoàn thiện các quan năng, mà quan trọng hơn là lao động đã sáng tạo ra con người với tư cách là con người xã hội có năng lực, các phẩm chất như: nhận thức, thẩm mỹ, đạo đức... C.Mác chỉ ra rằng, hành động lịch sử đầu tiên của con người là lao động. Nhưng lao động với tư cách là lao động thì không bao giờ là một hành động đơn lẻ, cá biệt. Trong các quan hệ giữa người với người, nghĩa là trong các quan hệ xã hội, con người tiến hành lao động để thỏa mãn các nhu cầu cũng như các lợi ích của mình. Nhờ có tư duy, con người nhận ra sự cần thiết của sự tương trợ lẫn nhau trong lao động. Tính tất yếu này đòi hỏi một sự hy sinh nhất định lợi ích cá nhân cho lợi ích của người khác, lợi ích của cộng đồng. Nhưng đổi lại, lao động của con người có hiệu quả hơn. Sự tương trợ đó, ban đầu được thể hiện trên cơ sở con người ý thức được tính tất yếu về mặt lợi ích của sự tương trợ lẫn nhau. Nhưng, sự tương trợ lẫn nhau một khi đã trở thành thói quen, tập quán thì khi đó con người nảy sinh khát vọng tương trợ tự nguyện. Khát vọng đó chính là tình cảm đạo đức đầu tiên của con người. Hành vi được điều chỉnh bởi ý thức khát vọng tương trợ tự nguyện chính là hành vi đạo đức đầu tiên của con người. Từ lao động và cùng với lao động, sự tương trợ lẫn nhau được mở rộng ra các lĩnh vực sống của con người và xã hội. Đó chính là cơ chế của sự hình thành đạo đức. Như vậy, đạo đức có nguồn gốc từ lao động và các hoạt động sống của con người. Nó hiện diện như một phương thức điều chỉnh hành vi người đặc thù. Sự điều chỉnh ấy dựa trên cơ sở tự giác, tự nguyện và ưu tiên lợi ích của cộng đồng xã hội. Trong Lời tựa của tác phẩm Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, C.Mác viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ” [30, 15]. Luận điểm này đã giải thích bản chất tất cả các hiện tượng xã hội và trong đó có cả 11 đạo đức.Như vậy, khác với tất cả các nhà thần học và triết học trước đó, C.Mác nhìn nhận đạo đức là một hình thái ý thức xã hội. Trong sự tác động qua lại với các hình thái ý thức xã hội khác (chính trị, pháp luật, tôn giáo, nghệ thuật) và cùng với các hình thái ý thức xã hội ấy, đạo đức chịu sự quy định của tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại xã hội. Ở Việt Nam hiện nay, Từ điển tiếng Việt, do tác giả Hoàng Phê chủ biên, Nxb Đà Nẵng, 1997, nêu hai nghĩa của từ đạo đức: "Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội. Đạo đức phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đạo đức mà có” [44, 280]. Tác giả Huỳnh Khái Vinh viết trong cuốn sách Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn mực xã hội rằng, “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm: những nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ xã hội, trong quan hệ người - người” [64, 44]. Hay “Đạo đức là một quan hệ xã hội có quy tắc, có chuẩn mực, có đánh giá, có giá trị, nhưng nó không ghi thành văn bản pháp quy mà thông thường là nếp sống, phong tục, tập quán do một cộng đồng nhất định tạo thành khi chung sống với nhau. Các quan hệ đạo đức trong xã hội thường được điều chỉnh bằng dư luận xã hội” [8, 11]. Nhưng, dù xét ở góc độ nào đi chăng nữa đạo đức vẫn là một hình thái ý thức xã hội, một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, tư tưởng đạo đức vừa phản ánh tồn tại xã hội, vừa có mối quan hệ mật thiết với các hình thái ý thức xã hội khác. Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng đạo đức cũng như tư tưởng chính trị, tư tưởng pháp quyền, tư tưởng nghệ thuật, đều là sự phản ánh một cơ sở kinh tế - xã hội nhất định, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Dưới các 12 hình thức phản ánh khác nhau, các tư tưởng ấy đều biểu hiện các lợi ích kinh tế, chính trị, pháp quyền, đạo đức của một dân tộc, một giai cấp, một thời đại nhất định. Sự tương tác giữa chính trị, đạo đức, pháp quyền, triết học, tôn giáo, khoa học tạo nên sự thống nhất trong đa dạng của các hình thái ý thức xã hội và đều bị quyết định bởi tồn tại xã hội. Khi tồn tại xã hội thay đổi thì đạo đức cũng thay đổi theo. Và ngược lại, như các hình thái ý thức xã hội khác, đạo đức cũng có tính độc lập tương đối so với cơ sở kinh tế và với các hình thái ý thức xã hội khác. Biểu hiện rõ rệt nhất của tính độc lập tương đối ấy là một số truyền thống, ít nhiều phong tục, tập quán và thước đo giá trị đạo đức vẫn tồn tại lâu dài khi cơ sở kinh tế, các thiết chế chính trị sản sinh ra chúng đã mất đi. Nhiều quan hệ đạo đức vẫn còn tác dụng gìn giữ phát triển các mối quan hệ nhân bản giữa con người với con người khi điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội trong đó chúng ra đời đã mất đi lâu rồi. Mặt khác, đạo đức cũng thường được coi là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội. Con người ngay từ khi sinh ra đã sống thành xã hội để đảm bảo sự tồn tại và phát triển trong xã hội, con người phải điều chỉnh hành vi của mình sao cho tạo nên sự phù hợp giữa lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội. Tham gia điều chỉnh hành vi của con người có nhiều lĩnh vực khác nhau như: kinh tế, chính trị, pháp luật, đạo đức... Mỗi lĩnh vực có vai trò khác nhau trong điều chỉnh hành vi của con người nhằm đảm bảo cho xã hội ổn định và phát triển. Kinh tế điều chỉnh hành vi của con người thông qua lợi ích kinh tế. Pháp luật điều chỉnh hành vi con người thông qua các quy chuẩn pháp luật buộc người ta phải tuân theo, mang tính chất cưỡng bức. Đạo đức dùng một hệ thống các nguyên tắc, các quy tắc, các chuẩn mực, tạo thành những khuôn mẫu để mọi người noi theo. Đạo đức điều chỉnh hành vi của con người bằng niềm tin, lý tưởng, bằng lương tâm, trách nhiệm, bằng dư luận xã hội. Đạo đức điều chỉnh hành vi của con người mang tính tự giác, vừa nhẹ nhàng, vừa sâu sắc. 13 Không chỉ thế mà đạo đức còn được xem xét với tư cách là một hệ thống các giá trị thiện, ác. Thiện là giá trị khẳng định lợi ích của xã hội, thiện là những cái gì con người mong muốn được làm, là những cái mang lại những điều tốt đẹp cho người khác và cho xã hội, thiện là hướng tới cái văn minh, tiến bộ. Ác là sự phủ định giá trị, là những cái gì đối lập với những lợi ích của xã hội, là những cái giả dối đưa lại điều xấu, điều bất hạnh cho ngươi khác, ác là những cái con người không mong muốn. Tóm lại, thông qua các quan niệm khác nhau về đạo đức ở trên, trong khuôn khổ luận văn này chúng tôi hiểu Đạo đức là tập hợp những quy tắc và chuẩn mực xã hội được lương tâm đồng tình, dư luận xã hội thừa nhận, nhằm đánh giá, điều chỉnh quan hệ giữa con người với nhau và quan hệ giữa con người với xã hội. Trong luận văn này chúng tôi xem xét đạo đức trong mối liên hệ với văn hóa. Vậy văn hóa là gì? Đã có rất nhiều định nghĩa về văn hóa được đưa ra theo các cách tiếp cận khác nhau. Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, “Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử” [65]. Trong cuốn Xã hội học Văn hóa, tác giả Đoàn Văn Chúc cho rằng, “văn hóa - vô sở bất tại: Văn hóa - không nơi nào không có! Điều này cho thấy tất cả những sáng tạo của con người trên nền của thế giới tự nhiên là văn hóa; nơi nào có con người nơi đó có văn hóa” [2]. Hồ Chí Minh nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [33, 431]. Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, tác giả Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [56, 20]. 14 Trong luận văn này chúng tôi dựa vào các quan niệm về văn hóa để đưa ra một quan niệm phù hợp với đề tài của mình, rằng, Văn hóa là toàn bộ giá trị tinh thần và vật chất do con người tạo ra trong quá trình lao động sản xuất, nhờ có văn hóa mà con người trở nên khác biệt với các loài động vật khác. Với cách hiểu như trên thì văn hóa sẽ bao hàm giá trị tinh thần như văn học, nghệ thuật, tôn giáo, đạo đức, pháp luật... Như vậy, đạo đức ở đây là một trong những giá trị tinh thần của văn hóa, nó bao gồm những quy tắc, chuẩn mực, hành vi của con người trong xã hội sao cho phù hợp với hoạt động thực tiễn tạo động lực cho văn hóa xã hội hoàn thiện và phát triển. * Khái niệm giá trị Khái niệm giá trị xuất hiện rất sớm ngay từ thời kỳ cổ đại, gắn liền với triết học và đạo đức học. Sau này khái niệm giá trị được sử dụng trong nhiều lĩnh vực, nhiều ngành khoa học khác nhau vì vậy được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Giá trị là cái làm cho một vật có lợi, có ý nghĩa, là đáng quý về phương diện nào đó” [44, 371]. Theo Từ điển bách khoa Triết học của Liên Xô, giá trị là “khái niệm triết học và xã hội học dùng để chỉ, thứ nhất, tầm quan trọng có tính khẳng định hay phủ định một khách thể nào đó, khác với đặc tính tồn tại và chất lượng của khách thể đó,... Thứ hai, khía cạnh chuẩn mực, mệnh lệnh đánh giá của các hiện tượng ý thức xã hội” [trích theo: 48, 19]. Nhìn từ góc độ kinh tế học giá trị là giá trị của hàng hóa được đo bằng lượng lao động xã hội cần để sản xuất ra nó. Do vậy, những hàng hóa nào có lượng hao phí lao động xã hội càng lớn thì giá trị của nó càng cao và ngược lại. Để bộc lộ giá trị, sản phẩm lao động phải được đem ra trao đổi, mà muốn vậy thì nó phải có ích tức là phải có giá trị sử dụng, phải có khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người. Trong kinh tế chính trị học, giá trị là một phạm trù lịch sử chỉ tồn tại trong nền sản xuất hàng hóa mà thôi. Trong triết học, chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng giá trị phụ thuộc vào kinh nghiệm của con người, là biểu hiện thái độ chủ quan của con người về khách 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất