VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-------------------
NGUYỄN TIẾN SƠN
PHÁP TU TỊNH ĐỘ TRONG PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 9229009
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÔN GIÁO HỌC
HÀ NỘI - 2018
Công trình đƣợc hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. TS. Nguyễn Phúc Đàn
( Hoà thượng Thích Thanh Đạt)
2. TS. Lê Tâm Đắc
Phản biện 1: GS. TS Đỗ Quang Hưng
Phản biện 2: PGS. TS Nguyễn Thanh Xuân
Phản biện 3: TS Bùi Hữu Dược
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
Học viện tại...............................................................
Vào hồi ...giờ…phút, ngày…tháng…năm 2018
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
Thư viện Quốc gia Việt Nam
Thư viện Học viện Khoa học Xã hội
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp tu tịnh độ (PTTĐ) hiện là một trong những pháp tu
khá phổ biến trong Phật giáo Việt Nam (PGVN). Biểu hiện của
nó thể hiện rõ nhất khi Tăng ni Phật tử Việt Nam chào nhau
thường niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”; Khi có người lâm
chung, Tăng Ni Phật tử thường tụng kinh A Di Đà, cầu sinh
tịnh độ (TĐ) cho vong linh…Như vậy đủ thấy sức ảnh hưởng
của PTTĐ đã ăn sâu vào đời sống của nhiều thế hệ người Việt
xưa nay.
Theo Cao Tăng truyện cho biết: Đàm Hoằng vào khoảng
năm 455 đã tụng Quán kinh và cầu vãng sinh TĐ. Truyền
thống thực hànhPTTĐ sau đó trải qua các triều đại: Lý, Trần,
Lê, Nguyễn và thời đại hiện nay đã được Phật tử Việt Nam
thực hành theo. Trải qua quá trình hơn 1500 năm lịch sử,
PTTĐ đã gắn bó với PGVN.
Cho đến nay, nghiên cứu về PTTĐ trong PGVN từ nhiều
chiều cạnh và mức độ khác nhau đã được thực hiện. Tuy nhiên,
một công trình nghiên cứu tổng thể và cập nhật dưới góc độ
Tôn giáo học nhằm làm rõ lịch sử hình thành và phát triển,
cũng như thực trạng PTTĐ trong PGVN hiện nay, qua đó chỉ ra
xu hướng vận động, đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp
nhằm phát huy những điểm tích cực, hạn chế những điểm tiêu
cực trong hoạt động của PTTĐ nước ta thời gian tới vẫn có giá
trị, có tính cấp thiết về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án là đi sâu nghiên cứu
tổng thể và cập nhật về PTTĐ trong PGVN dưới góc độ Tôn
giáo học, từ lịch sử truyền nhập, quá trình phát triển cho đến
2
những vấn đề liên quan đến hoạt động của PTTĐ giai đoạn
hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án: Thứ nhất, luận án
trình bày có hệ thống về lịch sử PTTĐ, từ kinh điển Phật giáo
đến những nhân vật Phật giáo tiêu biểu thực hành PTTĐ ở Ấn
Độ, Trung Quốc; sự du nhập và phát triển của PTTĐ trong tiến
trình Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến hiện nay. Thứ
hai, luận án đi sâu phân tích thực trạng cộng đồng Tịnh Độ
trong PGVN hiện nay, từ sự phân bố cộng đồng thực hành
PTTĐ tại ba vùng miền, đến phương pháp và cách thức tu tập
Tịnh Độ của các đạo tràng tiêu biểu trên khắp cả nước. Thứ ba,
trên cơ sở nêu bật một số đặc điểm và vai trò, cũng như chỉ rõ
xu hướng của PTTĐ trong PGVN, luận án đưa ra một số
khuyến nghị và giải pháp nhằm phát huy những điểm tích cực,
hạn chế những điểm tiêu cực trong hoạt động của PTTĐ thời
gian tới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là PTTĐ, một trong
bốn pháp tu tiêu biểu (Thiền, Mật, Tịnh, Luật) của Phật giáo
Bắc tông đã và đang tồn tại trong PGVN từ lịch sử đến hiện tại.
Phạm vi nghiên cứu của luận án là PTTĐ từ năm 1981 (năm
thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam) trở lại đây trên khắp cả
nước, trong đó chủ yếu tại ba thành phố Hà Nội, tỉnh Thừa
Thiên-Huế và thành phố Hồ Chí Minh.
4. Lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Luận án sử dụng chủ yếu hai lý thuyết nghiên cứu, Thứ
nhất: Lý thuyết thực thể tôn giáo.Thứ hai: Lý thuyết phân kỳ
về lịch sử. Luận án sử dụng một số cách tiếp cận như: Cách
tiếp cận Sử học, Triết học, Nhân học, Xã hội học, Văn hóa
3
học.Luận án còn sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ
cấp, sơ cấp; Phương pháp phỏng vấn sâu, tham dự.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Một là, luận án tổng quan khá đầy đủ tài liệu gốc và
những công trình nghiên cứu đi trước liên quan đến PTTĐ,
giúp cho những người nghiên cứu có được một cái nhìn toàn
cảnh về PTTĐ.Hai là, luận án trình bày có hệ thống sự hình
thành PTTĐ từ tam tạng kinh điển, đồng thời giới thiệu quá
trình du nhập và phát triển của PTTĐ trong lịch sử PGVN.Ba
là, luận án đi sâu phân tích thực trạng cộng đồng PTTĐ trong
PGVN hiện nay, từ thành phần tu tập và sự phân bố thực hành,
đến phương thức tu tập TĐtại các đạo tràng trên khắp cả
nước.Bốn là,sau khi nêu bật một số đặc điểm và vai trò, cũng
như xu hướng của PTTĐ trong PGVN, luận án đưa ra một số
khuyến nghị và giải pháp có tính khả thi .
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án đóng góp cho giới khoa
học xã hội và nhân văn nói chung, Tôn giáo học nói riêng,
cũng như toàn thể giới Phật giáo và xã hội thấy được một
phương pháp tu tập trong Phật giáo được đông đảo Phật tử Việt
Nam thực hành, có vai trò to lớn trong việc truyền bá Phật giáo
sâu rộng đến quảng đại người dân Việt Nam.Từ đó, luận án có
thể dùng làm tài liệu cho các trường Phật học và cơ sở nghiên
cứu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) các cấp; các
cơ sở nghiên cứu và đào tạo quốc dân về tôn giáo nói chung,
Phật giáo nói riêng. Kết quả của luận án còn cung cấp những
luận cứ khoa học cho chính quyền trong việc tiếp tục hoàn
thiện chính sách và pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng.
4
7. Kết cấu của luận án
Nội dung chính của luận án được chúng tôi triển khai
trong 4 chương có 12 tiết.
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tài liệu gốc
Những tác phẩm để tông Tịnh độ căn cứ vào để lập nên
tông bao gồm: 1.Phật thuyết A Di Đà Kinh thường gọi là Kinh
A Di Đà. 2. Phật thuyết Vô Lượng Thọ Kinh thường gọi là Kinh
Vô Lượng Thọ. 3. Phật thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh
thường gọi là Quán kinh. 4. Kinh Hoa Nghiêm - Phẩm Phổ
Hiền hạnh nguyện. 5. Kinh Lăng Nghiêm, chương Niệm Phật
viên thông. Một bộ luận là: Vô Lượng thọ kinh, Ưu ba đề xá
nguyện sinh kệ của bồ tát Thiên Thiên người Ấn Độ viết bằng
tiếng Phạn, Bồ Đề Lưu Chí dịch sang chữ Hán. Bộ này gọi tắt
là Vãng sinh Luận. Năm bộ này được giới nghiên cứu gọi là
“Ngũ kinh nhất luận” (năm kinh một luận).Nội dung cơ bản
của năm kinh một luận cung cấp những thông tin cơ bản về
Đức Phật Di Đà, quá trình tu hành để thành Phật của Đức Phật
ấy, môi trường của cõi Cực Lạc, điều kiện để sinh về thế giới
Tây phương.
Đại chính Tạng, tập 50, Cao Tăng Truyện, do sa môn
Thích Tuệ Kiểu soạn có nói về vị Tăng thực hành PTTĐ đầu
tiên của Việt Nam là Thích Đàm Hoằng. Thiền Uyển tập anh in
năm 1715 nội dung nói về hành trạng các vị cao tăng thời Lý,
Trần, trong đó có những vị hướng tâm Tịnh độ như thiền sư
Tịnh Lực đã tu niệm Phật tam muội.Thái tông hoàng đế ngự
chế khoá hư của Trần Thái Tông, có phần đề cập đến thiền tịnh
song tu. Từ đầu cho đến hết thời Trần, những tư liệu về PTTĐ
không nhiều, nhưng từ thời Lê trở về sau, tư liệu phong phú
5
hơn. Đương nhiên, những tác phẩm bằng Hán văn vẫn chiếm
ưu thế để luận án y cứ và xác định tiến trình lịch sử PTTĐ
trong PGVN.
*Tư liệu điền dã thực tế. Các lần điền dã thực tế tại các
chùa ở Việt Nam như: Chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), chùa Hoàng
Kim (Quốc Oai), chùa Tây Phương, chùa Cực Lạc (huyện
Thạch Thất) v.v... những cơ sở này bảo lưu những tư liệu
phong phú, sâu sắc về PTTĐ trong PGVN. Những chùa tiêu
biểu tại Trung Quốc như: chùa Long Tuyền, chùa Giới Đài
(Bắc Kinh), chùa Đại Giác, chùa Kê Minh (Giang Tô), chùa
Phổ Đà tỉnh Triết Giang …đây là các chùa tiêu biểu ghi dấu
tích sự hình thành và phát triển của TĐ tông, từ đó ít nhiều ảnh
hưởng đến PTTĐ trong PGVN.
1.2. Tình hình nghiên cứu Pháp tu Tịnh Độ tại nƣớc
ngoài
Tổng quan những kinh điển liên quan đến Tịnh độ tông
Trung Quốc, hiệp hội Phật giáo (PG) tỉnh Hà Bắc, tháng 7 năm
2010 xuất bản bộ Tịnh độ tạng, gồm 50 tập, biên soạn 787 tác
phẩm. Trong Tịnh độ tạng chia ra làm 2 loại hình chính: Một là
thống kê những kinh điển chuyên khảo về TĐ hoặc có một
phần liên quan đến PTTĐ. Hai là, đi giải thích các bộ kinh do
đức Phật nói. Loại hình thứ hai này chủ yếu giải thích tư tưởng
triết học của PTTĐ.
Trung Quốc Tịnh Độ tông thông sử của Trần Dương
Quýnh. Đây là một trong những bộ tập đại thành của các tông
phái Trung Quốc. Thích Đại An, Tịnh Độ tông giáo trình đứng
ở hình thức “giáo trình” để nghiên cứu Tịnh Độ tông. Nguyễn
Tiến Sơn, Việt Nam tịnh độ tín ngưỡng sử luận chỉ nghiên cứu
tư tưởng Tịnh độ ở góc độ triết học, lịch sử nhưng vẫn chưa đề
6
cập sâu đến khía cạnh Tôn giáo học. Nhưng đây là luận văn
thạc sĩ bằng tiếng Trung đầu tiên nghiên cứu về lịch sử PTTĐ
ở Việt Nam.
1.3. Tình hình nghiên cứu về Pháp tu Tịnh Độ trong
Phật giáo Việt Nam
Những tác phẩm bằng chữ Hán, chữ Nôm in ở Việt Nam
có nội dung về Tịnh Độ phải kể đến: Kiến tính thành Phật của
thiền sư Chân Nguyên; Đại thừa chư tịnh độ kinh; Kim cương
Di Đà kệ chú châm minh;Long thư tịnh độ diễn âm,Tây
Phương công cứ tiết yếu diễn âmđều do Sa môn Tính Định
soạn. Những kinh điển bằng chữ Hán và chữ Nôm kể trên có
nội dung vắn tắt để tả về thế giới Cực Lạc cũng như những
phương pháp thực hành PTTĐ.
Những tác phẩm thời cận đại có nội dung liên quan đến
PTTĐ phải kể đến Hòa thượng Thích Thiền Tâm: Niệm Phật
Thập Yếu, 13 vị Tổ Tịnh Độ tông; Thiết lập tịnh độ - Kinh A Di
Đà Thiền giải... Tư tưởng TĐ của Hòa thượng Thích Thiền
Tâm đã có kiến giải sâu rộng về PTTĐ. Tư tưởng này một mặt
kế thừa tư tưởng PTTĐ của Trung Quốc nhưng cũng có những
lĩnh vực đại diện cho người Việt Nam đương thời đã lý giải,
nhận thức về PTTĐ.
Những tác phẩm thời hiện đại có nội dung liên quan đến
Tịnh độ phải kể đến: Ngô Thị Lan Anh, Ảnh hưởng của “Tâm”
trong Phật giáo đối với đời sống đạo đức nước ta hiện nay.
Nguyễn Thị Thuý Hằng (2015), Ảnh hưởng của nhân sinh
quan Phật giáo đến đời sống tinh thần cư dân đồng bằng Bắc
bộ hiện nay. Những tác phẩm này đã phát phiếu điều tra xã hội
học, trong đó có nội dung liên quan đến PTTĐ. Lê Tâm Đắc
(chủ nhiệm), Đề tài Khoa học cấp bộ: Phật giáo Huế và vùng
7
phụ cận thời kỳ từ năm 1932 đến nay, viện nghiên cứu Tôn
giáo, tháng 4/2010. Trong đề tài này đã dành gần 20 trang để
nghiên cứu về PTTĐ đã và đang tồn tại ở Phật giáo xứ Huế.
Đinh Viết Lực Pháp tu Tịnh Độ và tượng Phật A Di Đà trong
các ngôi chùa Việt ở vùng đồng bằng Bắc bộ. Mặc dù đây là
luận án chuyên sâu về điêu khắc PG nhưng luận án cũng đề cập
đặc điểm của PTTĐ trong PG. Lê Tâm Đắc (2011), Phong trào
chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ, luận án tiến sĩ Tôn giáo học.
Trong luận án, tác giả có cả một chuyên mục nghiên cứu về
phong trào chấn hưng PG ở Bắc Kỳ, đề cao PTTĐ cũng như
vai trò của PTTĐ trong PG.
1.4. Đánh giá kết quả của các công trình đã có và
những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Nói về Tôn giáo học là nói về 3 yếu tố chính: Niềm tin
(về cái thiêng), thực hành, cộng đồng. Vì vậy, luận án đã tổng
hợp những tư liệu theo 3 yếu tố trên để làm sáng tỏ và có đầy
đủ 3 yếu tố: niềm tin, thực hành, cộng đồng. Các công trình
trước đây chưa đáp ứng toàn diện về 3 phương diện này, có
chăng chỉ tản mạn đề cập đến.
1.5. Một số khái niệm cơ bản sử dụng trong luận án
- Pháp tu: Phương pháp tu tập, thực hành của người tin
và học theo Đạo Phật. Tịnh Độ:Quốc độ của Phật A Di Đà, cõi
Tây Phương Cực Lạc. Pháp tu Tịnh Độ: Phương pháp thực
hành việc niệm Phật Di Đà để cầu vãng sinh sang cõi TĐ.Các
khái niệm khác đã được nói rõ nội hàm như:Phật giáo Phật
giáo Việt Nam; Tây Phương Cực Lạc; Tín - Nguyện - hạn;
Niệm Phật; Đạo tràng;Mê tín di đoan; Pháp môn; Tông phái...
8
CHƢƠNG 2 KHÁI LƢỢC VỀ PHÁP TU TỊNH ĐỘ VÀ
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁP TU TỊNH ĐỘ
TRONG PHẬT GIÁO VIỆT NAM
2.1. Khái lƣợc về Pháp tu Tịnh Độ
2.1.1. Pháp tu Tịnh Độ từ kinh điển
Việc niệm hồng danh A Di Đà, phát nguyện cầu vãng
sinh về Tây Phương Cực Lạc chính là cương lĩnh của PTTĐ,
muốn về Tây Phương Cực Lạc cần Tín - Nguyện - Hạnh.Kinh
Di Đà nhấn mạnh Tín; Kinh Vô Lượng Thọ chú trọng Nguyện;
Quán kinh thiên về Hạnh. Ba bộ kinh này gọi là “Tịnh độ Tam
kinh”, là bộ kinh Đức Phật chuyên nói về thế giới Cực Lạc,
Tịnh độ của Phật Di Đà. Do đó, ba bộ này được Tịnh Độ Tông
lấy làm kinh cơ bản để lập tông. “Tịnh độ Tam kinh” là những
kinh điển giới thiệu về PTTĐ một cách đầy đủ, xác thực nhất.
2.1.2. Nhân vật Phật giáo đại diện cho Pháp tu Tịnh Độ
tại Ấn Độ và Trung Quốc.
Những nhân vật tiêu biểu từ Ấn Độ đã thực hành pháp tu
niệm Phật phải kể đến như ngài A Nan, Bà Vi Đề Hy và các
cung nữ là những người thực hành việc tu TĐ đầu tiên tại Ấn
Độ. Sau thời Phật, các vị đệ tử Phật đã nối tiếp ý Phật tu theo
pháp môn này,tiêu biểu như: Mã Minh, Long Thọ, Thiên
Thân.PTTĐ truyền đến Trung Quốc, các bậc cao tăng đã biết
phát huy, hoằng truyền những đặc sắc riêng từ kinh điển theo
cách hiểu riêng của mỗi vị để khiến cho PTTĐ ở Trung Quốc
được ảnh hưởng sâu rộng đến với xã hội. Mười ba vị cao tăng
của Trung Quốc đã trở thành những nhân vật tiêu biểu cho TĐ
tông Trung Quốc, đó là:Tuệ Viễn (334 - 416); Thiện Đạo (613
- 681); Thừa Viễn (712 - 802); Pháp Chiếu (năm sinh - mất
chưa rõ); Thiếu Khang (770 - 805); Vĩnh Minh Diên Thọ (904
9
- 975); Tỉnh Thường (959 - 1020); Liên Trì (1532 - 1612); Trí
Húc (1598 - 1655); Hành Sách (1627 - 1682); Thật Hiền (1686
- 1734); Tế Tỉnh (1741 - 1810); Ấn Quang (1861 - 1941).
2.1.3. Quan điểm về Tịnh Độ tông Trung Quốc và Pháp
tu Tịnh Độ trong Phật giáo Việt Nam.
*Quan điểm về Tịnh Độ tông. Để gọi là một “tông” ra
đời cần các yếu tố sau: 1. Phát minh lý luận. 2. Kinh điển căn
cứ. 3. Tổ sư khai sáng. 4. Tự viện trung tâm. 5. Quá trình
truyền thừa.Cũng như tiêu chí thành lập các tông phái PG tại
Trung Hoa, Tịnh Độ tông lấy tông chỉ tu hành là Niệm Phật Di
Đà, cầu sinh TĐ làm cương lĩnh thực hành. Kinh điển để Tịnh
độ tông cứ gồm 3 kinh chính: Di Đà; Vô Lượng Thọ; Quán
kinh. Tổ sư khai sáng là ngài Tuệ Viễn, Tổ đình ở tại chùa
Đông Lâm (Lư Sơn). Việc truyền thừa của tông TĐ bao gồm
13 vị tổ sư tiêu biểu. Riêng tông TĐ cần có tiêu chí thứ sáu là
phải có thực nghiệm chứng ngộ. Tức là vị nào tu hành đến cuối
đời phải có tướng tốt khi vãng sinh như: hoặc nhìn thấy Phật Di
Đà, hoặc biết trước giờ vãng sinh, hoặc để lại xá lợi v.v
Từ những luận chứng như trên có thể rút ra những tính
chất của các tông phái PG Trung Quốc là: Các tông phái đều là
giáo lý Đạo Phật. Các tông phái không có sự mâu thuẫn, kích
bác nhau mà ngược lại còn bổ sung cho nhau. Các tông phái có
tính dung hoà. Về sự truyền thừa của các tông phái có sự hưng
thịnh hay suy vong khác nhau nhưng giáo lý của các tông phái
vốn không có thịnh suy mà nó luôn có giá trị như nó vốn
có.Tông phái chỉ ra đời trong bối cảnh, hoàn cảnh lịch sử nhất
định.
*Quan điểm về pháp tu Tịnh Độ trong Phật giáo Việt
Nam: Thứ nhất: PTTĐ trong PGVN đã song hành cùng thời
10
với tông TĐ ở Trung Quốc,người Việt đã có người tin, thực
hành và cộng đồng thực hành đối với pháp tu này sớm nhất
trong khoảng từ năm 422 đến năm 455 (năm Đàm Hoằng viên
tịch). Thứ hai, PTTĐ trong PGVN ban đầu lấy kinh Phật nói ra
làm cơ sở để tu hành chứ không phải lấy từ tông TĐ của Trung
Quốc.Thứ ba, PTTĐ trong PGVN chủ trương ngắn gọn, thực
tiễn, chủ yếu phục vụ cho các nhu cầu của cuộc sống người
dân.Thứ tư, PTTĐ trong PGVN lấy kinh nghiệm tu hành của
người trước để phỏng theo chứ không có một vị tổ sư khai
tông. Thứ năm, PTTĐ trong PGVN lấy sự tu hành chứng
nghiệm làm động lực thực hành.
2.2. Tổng quan pháp tu Tịnh Độ trong tiến trình lịch
sử Phật giáo Việt Nam
2.2.1. Pháp tu Tịnh Độ trong Phật giáo Việt Nam từ
đầu đến hết thế kỷ XVIII
Những nhân vật đại biểu cho PTTĐ trong PGVN từ đầu
đến hết thế kỷ XVIII được thể hiện qua 8 nhân vật tiêu biểu là:
1. Đại sư Đàm Hoằng ( - 455); 2. Thiền sư Tịnh Lực (1112 1175); 3. Trần Thái Tông (1218 - 1277); 4. Tuệ Trung Thượng
Sĩ (1230 - 1290); 5. Trần Nhân Tông (1258 - 1308); 6. Minh
Châu Hương Hải (1628 - 1715); 7. Chân Nguyên Tuệ Đăng
(1647 - 1726); 8. Nguyễn Du(1765 - 1820.
PTTĐ trong PG thời Lý - Trần chủ yếu thiên hướng
Thiền - Tịnh song tu. Đến thời Hậu Lê, Tây Sơn PTTĐ đã
được phổ cập hơn, những tác phẩm chuyên về TĐ do người
Việt Nam sáng tác đã ra đời. Những nhân vật trên đại biểu cho
các tầng lớp: Vua quan, tại gia, xuất gia đều hướng tâm đến
PTTĐ nên quần chúng nhân dân đã được ảnh hưởng bởi pháp
tu này.
11
2.2.2. Pháp tu Tịnh Độ trong Phật giáo Việt Nam từ
đầu thế kỷ XIX đến hết thế thế kỷ XX
Trong giai đoạn này, chữ Nôm và chữ Quốc Ngữ đã trở
thành ngôn ngữ chính thay cho chữ Hán. Do đó, việc dịch kinh,
chú giải tam tạng kinh điển của PTTĐ từ chữ Hán sang chữ
Nôm và chữ Quốc Ngữ đã được tín đồ PGthực hiện một cách
mạnh mẽ. Trong 3 miền đều có các nhân vật tích cực hoằng
dương PTTĐ.Miền Bắc có những nhân vật tiêu biểu như: HT
Thích Tố Liên (1903 - 1977); Cư sĩ Nguyễn Hữu Kha (1902 1954); Cư sĩ Văn Quang Thuỳ (1887 - 1967) pháp danh: Tuệ
Nhuận. Miền Trung có những nhân vật tiêu biểu như: HT
Thích Trí Thủ (1909 - 1984);cư sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám
(1897 - 1969). Miền Nam có những nhân vật tiêu biểu như: HT
Thích Thiền Tâm (1925 - 1992); HT Thích Trí Tịnh (1917 2014); cư sĩ Chánh Trí - Mai Thọ Truyền (1905 - 1973); Cư sĩ
Đoàn Trung Còn (1908 - 1988) v.v...Họ đại biểu cho các thành
phần gồm: Tại gia, xuất gia. Tại giabao gồmtrí thức, bác sĩ,
chính trị gia và quần chúng. Phạm vi thực hành PTTĐ không
chỉ ở chùa mà còn ở các nhà dân, không chỉ ở một khu vực mà
ở các tỉnh thành trong cả nước.
Trong thế kỷ XIX, XX, PGVN còn xuất hiện các hình
thức hội, sơn môn chuyên hoằng truyền PTTĐ. Những tổ chức
tiêu biểu bao gồm: Hội Liên Xã Niệm Phật của Nguyên Biểu
(1836 - 1906); Sơn môn Xiển Pháp của ngài Tính Định (....
1901); Hội Phật học An Nam với việc tu Tịnh độ.
12
CHƢƠNG 3
THỰC TRẠNG CỦA CỘNG ĐỒNG TỊNH ĐỘ
TRONG PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Cộng đồng Tịnh Độ trong Phật giáo Việt Nam
hiện nay
3.1.1 Thành phần tu Tịnh độ
Cộng đồng tu TĐ trong PGVN hiện nay gồm có 2 thành
phần chính là người tại gia và xuất gia. Người tại gia thực hành
PTTĐ gồm nhiều thành phần:Cán bộ, công chức làm trong nhà
nước, học sinh, sinh viên,những người làm các nghề tự do như
buôn bán, kinh doanh, những người hưu trí, người già. Người
xuất gia thực hành PTTĐ bao gồm từ người mới xuất gia trẻ
cho đến bậc hoà thượng cao tuổi, từ sư tăng cho đến sư ni, hễ
theo truyền thống PG Bắc truyền đều thực hành PTTĐ tuỳ theo
mức độ nông sâu.
3.1.2. Sự phân bố cộng đồng thực hành pháp tu Tịnh
Độ
Hiện nay, GHPGVN đã thành lập 63 Ban Trị sự Phật
giáo cấp tỉnh trên 63 tỉnh thành cả nước. Khi đã có tổ chức giáo
hội tức là có cả truyền thống Phật giáo Bắc tông và Phật giáo
Nam tông. Điều này có nghĩa, PTTĐ đã có mặt trên phạm vi 63
tỉnh thành trên cả nước. Luận án chỉ nghiên cứu những ngôi
chùa, đạo tràng tiêu biểu trong ba miền Bắc - Trung - Nam để
thấy rõ sự phân bố của PTTĐ trong cả nước.
3.2. Phƣơng thức tu tập của pháp tu Tịnh Độ trong
Phật giáo Việt Nam hiện nay
3.2.1. Các phương pháp tu tập Tịnh Độ từ Kinh - Luận
Phương thức tu tập của PTTĐ trong PGVN hiện nay
được căn cứ vào các kinh - luận ghi chép chia thành 5 phương
13
thức chính: 1. Trì danh niệm Phật - tức là miệng niệm ra tiếng
6 câu: “Nam mô A Di Đà Phật” hoặc 4 câu “A Di Đà Phật”; 2.
Quán tưởng niệm Phật là phương pháp ngồi tập trung, miệng
không niệm mà chỉ có tâm tưởng tượng hình tướng, công đức
của Phật Di Đà và thế giới Tây Phương Cực Lạc. 3. Thật tướng
niệm Phật (còn gọi niệm Phật tam muội) tức là quay trở về với
tính giác ngộ của chính mình. Mà tính giác ngộ này bằng với
tính giác ngộ của chư Phật mười phương, đồng với tâm của
Phật Di Đà. 4. Quán tượng niệm Phật: Người niệm Phật ngồi
đối diện với tranh hoặc tượng Phật A Di Đà, miệng niệm, mắt
quán sát tướng tốt của Phật. Từng chi tiết tướng tốt của Phật
đều nhớ rõ ràng. Miệng niệm, tâm nhớ đến lúc nào nhắm mắt,
mở mắt đều thấy rõ hình tượng Phật. 5. Các phương pháp khác:
Việc thực hành PTTĐ không chỉ là niệm hồng danh đức Phật
Di Đà mà còn thực hành các Phật sự, tụng kinh, lễ bái để cầu
nguyện vãng sinh, giữ gìn giới luật, làm việc phúc đức, hiếu
thuận cha mẹ, phụng thờ sư trưởng v.v…cũng được cộng đồng
người Việt thực hành.
3.2.2. Hình thức tu tập tại các đạo tràng
*Hình thức tu tập dành cho cƣ sĩ Phật tử. Mô hình tu
tập dành cho Phật tử có được dấu ấn đặc biệt phải kể đến chùa
Hoằng Pháp (thành phố Hồ Chí Minh) và TĐ đạo tràng (Hà
Nội).
*Chùa Hoằng Pháp. Đã có các cách thực hành PTTĐ
như:
Khoá tu Phật thất: Là việc điều hành, xắp xếp các hoạt
động trong khoá tu thực tập trì danh hiệu Đức A Di Đà suốt
thời gian bảy ngày dành cho tất cả thiện nam tín nữ Phật tử.
Khoá tu niệm Phật một ngày:Là khoá tu tổ được tổ chức cố
14
định vào chủ nhật đầu tiên của tháng Âm lịch. Thời gian tu tập
chỉ trong một ngày với hai thời công phu niệm Phật, một thời
pháp thoại và thực tập ăn uống, đi đứng nghỉ ngơi trong chính
niệm.Khoá tu mùa hè:Đây là khoá tu dành cho người trẻ độ
tuổi từ 18 đến 25, mỗi năm chùa chỉ tổ chức một khoá vào mùa
hè. Chương trình tổ chức, bao gồm pháp thoại, pháp đàm, giao
lưu, tụng kinh niệm Phật, vui chơi, thi Phật pháp. Ngày tu
“Sinh viên hướng về Phật Pháp”:Được tổ chức định kì hai
tháng một lần và chỉ diễn ra trong vòng một ngày. Trong ngày
tu, sinh viên được nghe pháp thoại, vấn đáp, giao lưu, được
ngồi tĩnh tâm để lắng dịu những phiền não.
*Tịnh độ đạo tràng là một tổ chức được ra đời theo
Quyết định số 11QĐ/BHP, ngày 1/7/2013 của Ban Hoằng Pháp
Trung Ương GHPGVN.Đây là tổ chức hoạt động trên tinh thần
tự nguyện của các Phật tử tại gia chuyên tu, chuyên hoằng pháp
môn niệm Phật cầu vãng sinh Tây Phương Cực Lạc; Đoàn kết
những người tu pháp môn niệm Phật để sách tiến tu tập, tham
gia các công tác xã hội nhân đạo và trợ niệm cho người khi lâm
chung. Những thành viên đủ tiêu chuẩn đăng ký tham gia hoạt
động và được TĐ đạo tràng chấp thuận cấp thẻ sinh hoạt. Vì
vậy, tính đến năm 2017, thành viên của TĐ đạo tràng có
19.313 người phân bổ trên các tỉnh - thành như: Hà Nội, Thái
Nguyên, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hải
Phòng, Nam Định, Thái Bình, Phú Thọ, Tuyên Quang, Sơn La,
Nghệ An, Đà Nẵng, Thanh Hóa, Quảng Trị, Quảng Ngãi,
Quang Nam, Lâm Đồng, Đồng Nai, Gia Lai, KonTum, Đắc
Lắc, Bình Thuận, Bạc Liêu, Sóc Trăng…
Từ khi thành lập TĐ đạo tràng tới nay, tổ chức này đã có
những cách làm để hoằng truyền PTTĐ đó là:
15
Tổ chức các pháp hội niệm Phật:Đây là hình thức tập
chung Phật tử cùng đến niệm Phật 3 ngày tại một địa điểm hợp
lý. Mục đích phần lớn là để cầu siêu cho các anh hùng liệt sĩ, tổ
tiên, người đã quá vãng trong gia đình người hành lễ. Đây còn
là cơ hội để các vị cùng tu Tịnh độ có nhiều thời gian tu tập thể
với nhau.
Định hướng tu tập tại các cơ sở trực thuộc TĐ đạo
tràng:Việc tu tập của các đạo tràng trực thuộc TĐ đạo tràng
sinh hoạt ở các chùa và ở tư gia hàng ngày, hàng tháng đều
theo thời khoá TĐ mà TĐ đạo tràng in ấn phát hành như cuốn
Tịnh độ ngũ kinh, Kinh chiêm sát hành pháp sám nghi. Trong
nghi lễ hàng ngày trọng tâm ở việc tụng kinh A Di Đà, niệm
Phật A Di Đà.
Tổ chức trợ niệm: Tức là mời các Phật tử đến niệm Phật
giúp cho người sắp và vừa quá vãng.
*Hình thức thực hành pháp tu Tịnh Độ của các tu sĩ
Phật giáo
Người xuất gia trong những chùa miền Bắc thực hành
PTTĐ được thể hiện rõ nhất thông qua việc thực hành “Cảnh
sách niệm Phật” sớm chiều. Thực hành PTTĐ trong mùa an cư
với những hoạt động như: Giảng các kinh điển TĐ, lễ sám
nguyện TĐ vào những ngày trai, lễ tụng, trì niệm Phật Di Đà
vào hai buổi sớm chiều...Thực hành PTTĐ vào việc cầu siêu
như: Trợ niệm, lễ nhập niệm, di quan, an táng, ba ngày,tuần 35
hoặc 49, làm lễ giỗ đầu, làm lễ cầu siêu sau 3 năm chuyển mộ,
làm lễ vào dịp phả độ gia tiên trong dịp tháng 7 âm lịch hàng
năm...Trong các dịp lễ trên, việc niệm Phật Di Đà, cầu sinh TĐ
cho vong linh chiếm trọng tâm của buổi lễ. Các sư không chỉ
thực hành PTTĐ trong việc hiếu mà còn thực hiện trong các
16
việc hỷ: Lễ đầy tháng, lên nhà mới, lễ hằng thuận, lễ giải hạn,
lễ cầu đảo bệnh...Tất cả những việc trên, sư đem PTTĐ ra để
thực hành bằng việc khuyên gia chủ cùng niệm Phật.
CHƢƠNG 4 Đ C ĐIỂM VAI TRÕ VÀ XU HƢỚNG VẬN
ĐỘNG CỦA PHÁP TU TỊNH ĐỘ TRONG PHẬT GIÁO
VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Một số đ c điểm cơ bản của pháp tu Tịnh Độ
trong Phật giáo Việt Nam hiện nay
4.1.1. Tính hỗn dung
Tức là tính chất ôn hoà, dung hợp của yếu tố ban đầu
với các yếu tố khác nhưng không bị mất đi đặc tính gốc. Cũng
vậy, PTTĐ trong PGVN có tính hỗn dung với pháp tu Mật,
được biểu hiện ở nghi thức khoá sáng có tụng Lăng Nghiêm
ngũ hội, đại bi thập chú, khoá trưa tụng Bốn tám nguyện của
Phật Di Đà, khoá chiều tụng Di Đà, Huân tu. Trước các khoá lễ
Di Đà đều có các thần chú: Tịnh khẩu, thân, ba nghiệp, an thổ
địa, phả cúng dàng. Sau kinh Di Đà có chú Bạt nhất thiết
nghiệp chướng căn bản đắc sinh Tịnh độ đà la ni. Đó là dấu
hiệu của Mật - Tịnh song tu. Việc hỗn dung còn được biểu hiện
trong PGVN hiện nay khá rõ ở 2 cặp: Luật - Mật - Tịnh như
đạo tràng tu mật tại Tây Thiên (Vĩnh Phúc). Cặp: Luật - Thiền
- Tịnh tiêu biểu như Chùa Ba Vàng (Quảng Ninh) lấy Giới Thiền - Tịnh làm pháp tu chủ yếu.Ngoài ra, PTTĐ còn ít nhiều
hiện diện trong các tôn giáo nội sinh ở Việt Nam như: Bửu Sơn
Kỳ Hương,Tứ Ân Hiếu Nghĩa, PG Hòa Hảo,Cư sĩ Phật hội
Việt Nam.
4.1.2. Tính ph cập
Thể hiện ở thành phần người thực hành PTTĐ bao gồm
“Hiền ngu, già trẻ, gái trai”, ví dụ điển hình như: Các cháu bé
17
chưa biết gì, nếu bảo ngồi thiền, tụng kinh... sẽ không dễ thực
hành được, nhưng nếu bảo niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, chắc
chắn sẽ thực hành tốt. Thứ nữa, người dân Việt Nam phần lớn
theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, khi khấn lễ gia tiên vào dịp
giỗ,tết, câu đầu tiên đều niệm “Nam mô A Di Đà Phật” ba lần
rồi mới vào nội dung văn khấn.
4.1.3. Tính quy tụ
Khi tổ chức pháp hội niệm Phật, các đạo tràng niệm
Phật tại các chùa trong PGVN hiện nay đã có lúc quy tụ hàng
vạn người. Lý do bởi bản thân PTTĐ có những đặc tính:Dễ tu,
phổ cập, ổn định, huyền diệu.Khi niệm Phật có thể thực hiện
bởi: Đi, đừng, nằm, ngồi, mọi lúc mọi nơi. Đồng thời, người tổ
chứckhéobiếtsử dụng các phương pháp để thu hút đông người
đến thực hành PTTĐ. Đó là biết chọn địa điểm phù hợp; Thời
gian hợp lý; Nêu bật ý nghĩa tổ chức; Quy mô phạm vi hoành
tráng; Các khâu tổ chức chu đáo; Có những hiệu ứng tâm linh
tốt.
4.2. Vai trò
4.2.1.Th a m n nhu cầu tâm linh của Phật t và
hội.PTTĐ đã thoả mãn các nhu cầu của Phật tử và các tổ chức
trong xã hội về các lĩnh vực: Nhu cầu thoát sinh tử, sinh Cực
Lạc của người chuyên tu TĐ. Nhu cầu báo ân, báo hiếu cho
người thân sắp và đã quá vãng.Nhu cầu giáo dục trẻ em của các
gia đình. Nhu cầu tâm linh của các tổ chức trong xã hội nhằm
trả ân trả nghĩa đồng đội, đồng bào.
4.2.2. Kết nối và cố kết cộng đồng.Với những cộng
đồng PG, đặc biệt là cộng đồng người tu TĐ, PTTĐ chính là
chất keo để gắn kết các cá nhân lại với nhau chặt hơn. Họ có
chung một lý tưởng là cầu vãng sinh TĐ nên họ đến cùng một
18
địa điểm để cùng thực hành. Họ gọi bạn cùng tu TĐ là “Liên
hữu” (bạn cùng lên hoa sen ở Tây Phương vào đời sau).
4.2.3.An ninh tinh thần, an sinh
hội. An ninh tinh
thần là trạng thái tâm lý an ổn, không lo sợ trước những việc
bất thường từ bên ngoài đem đến và từ nội tâm hoảng loạn đem
lạibằng việc thường xuyên niệm Phật Di Đà. PTTĐ còn đóng
góp cho xã hội những giá trị cả vật chất. Ví dụ điển hình: Pho
tượng Phật Di Đà chùa Phật tích (Bắc Ninh), Toà tháp gỗ “Cửu
phẩm liên hoa” mô tả lại cảnh giới Tây Phương Cực Lạc tại
Bùi Tháp (Bắc Ninh) đã thu hút lượng lớn khách tham quan du
lịch, tạo giá trị vật chất không nhỏ cho xã hội.
4.2.4. Làm phong phú thêm văn hoá, nghệ thuật.
PTTĐ giúp cho con người có văn hoá cư xử theo chiều hướng
tích cực lên, làm người lương thiện hơn thông qua việc chào
hỏi nhau mở đầu bằng câu “A Di Đà Phật”. PTTĐ còn tạo hiệu
ứng trong các lĩnh vực văn hoá nghệ thuật như: Hội hoạ, điêu
khắc, đồ hoạ in ấn, nhiếp ảnh, âm nhạc, kịch, điện ảnh, múa,
văn chương.
4.2.5 Vai trò của pháp tu Tịnh Độ đối với việc hoằng
truyền Phật giáo Việt Nam. PTTĐ góp phần vào việc tăng số
lượng tu sĩ xuất gia trong đạo Phật, tăng số lượng tín đồ biết
đến đạo Phật, tăng số lượng ban trị sự Phật giáo trên cả nước
và tăng tầm ảnh hưởng của PGVN khi sánh với PG thế giới.
4.3. Xu hƣớng vận động của pháp tu Tịnh Độ trong
Phật giáo Việt Nam và một số khuyến nghị, giải pháp
4.3.1. Xu hướng vận động của Pháp tu Tịnh Độ trong
Phật giáo Việt Nam.
Xu hƣớng ổn định và phát triển: Trong thời gian tới
(từ 50 đến 100 năm nữa), PTTĐ vẫn giữ vai trò chính trong
- Xem thêm -