MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP
NHÂN
1.1. Khái niệm, bản chất pháp lý của pháp nhân
1.1.1. Khái niệm pháp nhân
1.1.2. Bản chất pháp lý của pháp nhân
1.2. Vai trò của pháp nhân
1.3. Các loại pháp nhân
1.4. Phân biệt pháp nhân với các loại chủ thể khác
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA PHÁP
NHÂN TRONG QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ
2.1. Thành lập, hoạt động, chấm dứt pháp nhân
2.1.1. Thành lập pháp nhân
2.1.2. Hoạt động của pháp nhân
2.1.3. Chấ m dứt pháp nhân
2.2. Các yếu tố về lý lịch của pháp nhân
2.2.1. Tên go ̣i của pháp nhân
2.2.2. Trụ sở của pháp nhân
2.2.3. Quố c tich
̣ của pháp nhân
2.2.4. Cơ quan điề u hành của pháp nhân
2.3. Quyền và nghĩa vụ dân sự của pháp nhân
2.4. Đại diện pháp nhân
Chƣơng 3: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA PHÁP NHÂN
VÀ NHỮNG PHƢƠNG HƢỚNG , GIẢI PHÁP CƠ BẢN
NHẰM HOÀN THIỆN ĐỊA VI ̣PHÁP LÝ CỦA PHÁP NHÂN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Về vấ n đề thủ tu ̣c thành lâ ̣p doanh nghiê ̣p
3.2. Quy đinh
̣ về chuyể n đổ i doanh nghiê ̣p
3.3. Về vấ n đề sở hữu và đa ̣i diê ̣n chủ sở hữu
3.4. Về vấ n đề tâ ̣p đoàn kinh tế của nước ta hiê ̣n nay
3.5. Về quy đinh
̣ của Luâ ̣t doanh nghiê ̣p về Công ty hơ ̣p danh
3.6. Về vấ n đề pháp nhân công quyề n và pháp nhân tư (hay pháp
nhân kinh doanh)
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
2
5
5
5
6
9
9
10
11
11
11
12
13
14
14
15
15
15
16
16
17
17
17
18
18
20
22
24
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Trong xã hội dân sự ngày nay, pháp nhân được xem như là một tiêu chí
đánh giá mức độ tự do kinh tế và phát triển kinh tế của một đất nước. Pháp
nhân là một chủ thể cơ bản tham gia vào các quan hệ dân sự – kinh tế thường
xuyên và phổ biến, vì vậy tác động tới nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Pháp nhân được ra đời từ mong muốn của các nhà đầu tư về một cơ chế
góp vốn mà ở đó những người góp vốn chỉ phải bỏ ra một số vốn hữu hạn vào
công ty, nếu công ty làm ăn thua lỗ thì họ chỉ phải chịu rủi ro trong phạm vi
số vốn góp đó mà thôi, sản nghiệp không đưa vào kinh doanh của họ vẫn
được đảm bảo an toàn. Ngay từ cội nguồn khai sinh ra nó, pháp nhân đã mang
dấu ấn của một chủ thể được hư cấu bởi pháp luật, có tài sản riêng làm tiền đề
cho việc gánh vác nghĩa vụ độc lập trong các giao dịch tài sản với các chủ thể
khác. Từ những yếu tố, bản chất đó, pháp luật thừa nhận và quy định công
khai về khả năng chịu trách nhiệm độc lập bằng tài sản riêng của pháp nhân.
Như vậy, pháp nhân là một thực thể pháp lý được hình thành từ việc thực hiện
nguyên tắc tách bạch về tài sản nhằm mục đích đảm bảo tính độc lập về pháp
lý và khả năng chịu trách nhiệm hữu hạn của một chủ thể pháp luật không
phải là con người.
Hiện nay, nước ta phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay thì vấn đề làm rõ bản chất pháp lý của pháp nhân nói
chung và các doanh nghiệp nói riêng, từ đó giải quyết các vấn đề pháp lý liên
quan đến pháp nhân khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự là hết sức cần
thiết nhằm làm cho các loại pháp nhân bình đẳng khi tham gia vào các quan
hệ pháp luật, đặc biệt là trong quan hệ pháp luật dân sự. Vì vậy, việc nghiên
1
cứu về bản chất pháp lý của pháp nhân có ý nghĩa lớn cả về lý luận và thực
tiễn. Vì những lý do trên nên tác giả chọn đề tài “Pháp nhân - Chủ thể quan hệ
pháp luật dân sự‟‟ làm Luận văn Thạc sỹ Luật học của mình. Trong khuôn
khổ của luận văn, tác giả đi sâu nghiên cứu và làm rõ bản chất, địa vị pháp lý
và thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay nhằm hoàn thiện các
quy định của pháp luật về doanh nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Việc nghiên cứu của đề tài nhằm những mục đích sau:
- Tập trung nghiên cứu những nội dung lý luận cơ bản về pháp nhân
như khái niệm, bản chất và ý nghĩa của chế định pháp nhân.
- Từ những nội dung lý luận cơ bản về pháp nhân, đi sâu phân tích địa
vị pháp lý của pháp nhân, đặc biệt là địa vị pháp lý của các doanh nghiệp theo
pháp luật hiện hành.
- Phân tích thực tiễn hoạt động của pháp nhân và những phương hướng,
giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của pháp nhân trong giai
đoạn hiện nay.
3. Tình hình nghiên cứu liên quan đền đề tài:
Nghiên cứu về pháp nhân với tư cách là chủ thể pháp luật độc lập trong
thời gian qua có một số công trình nghiên cứu như:
-
“Tư cách pháp nhân của Doanh nghiệp Nhà nước”, Luận văn Thạc sỹ
Luật học của Tăng Xuân Trường, Viện Nhà nước và Pháp luật, năm 1999;
-
“Chế độ trách nhiệm hữu hạn của pháp nhân theo pháp luật hiện hành”,
Luận văn Thạc sỹ Luật học của Nguyễn Thị Hương Giang, Viện Nhà
nước và Pháp luật, năm 2005.
-
Ngoài ra, có một số công trình nghiên cứu đề cập đến một vài khía cạnh
pháp lý của pháp nhân như: “Xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở
hữu đối với tài sản trong công ty đối vốn”, Luận án Tiến sỹ Luật học của
2
Lê Thị Châu, Đại học Luật Hà Nội, năm 2002; Luận án Tiến sỹ Luật học
của Ngô Huy Cương, Viện Nhà nước và Pháp luật năm 2004...
Các công trình này từ các góc độ tiếp cận khác nhau đã có những đóng
góp nhất định trong việc nghiên cứu nội dung pháp lý về pháp nhân nói
chung. Tuy nhiên, đến nay chưa có một công trình nghiên cứu về Pháp nhân
với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật Dân sự. Khi nghiên cứu đề tài
này, tác giả rất may mắn được kế thừa những kết quả nghiên cứu đó về pháp
nhân.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Với thời lượng hạn chế, Luận văn Thạc sỹ này chỉ tập trung nghiên cứu
về pháp nhân, địa vị pháp lý của pháp nhân là các Doanh nghiệp với tư cách
là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, lý luận về nhà nước và pháp luật;
- Phương pháp cụ thể:
+ Phương pháp phân tích được sử dụng để thấy rõ được bản chất pháp
lý của pháp nhân từ thủa khai sinh ra cho đến giai đoạn xã hội phát triển.
+ Phương pháp so sánh được sử dụng để tìm hiểu, so sánh khái niệm,
bản chất pháp lý cũng như chế định về pháp nhân qua các thời kỳ trong
pháp luật Việt Nam.
+ Phương pháp tổng hợp được sử dụng để phân tích các quy định của
pháp luật hiện hành về pháp nhân mà ở đây tác giả tìm hiểu chủ yếu là các
loại hình doanh nghiệp.
+ Phương pháp thống kê được sử dụng để so sánh các loại hình doanh
nghiệp được thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp hiện nay để tìm
ra những nguyên nhân và hạn chế của các loại hình doanh nghiệp đó; hay việc
3
thống kê các Hội để thấy được sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định
của pháp luật về Hội.
6. Những điểm mới của Luận văn:
Luận giải những lý luận cơ bản về bản chất, địa vị pháp lý của pháp
nhân, trên cơ sở đó phân tích thực tiễn hoạt động của pháp nhân trong giai
đoạn hiện nay, những điểm bất cập và khác biệt với lý luận cơ bản về bản chất
của pháp nhân, đồng thời đưa ra những quan điểm, phương hướng hoàn thiện
các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của pháp nhân.
7. Kết cấu của Luận văn:
Ngoài lời nói đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết
cấu của Luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp nhân
Chương 2: Thực trạng địa vị pháp lý của pháp nhân trong quan hệ pháp
luật dân sự
Chương 3: Thực tiễn hoạt động của pháp nhân và những phương
hướng, giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của pháp nhân trong
giai đoạn hiện nay.
4
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP NHÂN
1.1.
Khái niệm, bản chất pháp lý của pháp nhân:
1.1.1. Khái niệm pháp nhân
Trong lịch sử đã có thời kỳ pháp luật chưa hề biết đến khái niệm pháp
nhân. Từ thời cổ đại đến thời kỳ phong kiến đã xuất hiện những phường hội,
đây là những tổ chức hình thành trên cơ sở hợp tác liên kết, không tham gia
vào các quan hệ pháp luật (quan hệ dân sự). Các tổ chức này không nhân danh
mình mà nhân danh các thành viên của phường, của hội - nhân danh các chủ
sở hữu của các tài sản được đưa vào sử dụng để thực hiện các hành vi giao
dịch. Như vậy, các tổ chức này không có tư cách pháp nhân độc lập trong việc
sử dụng và định đoạt những tài sản khi nó buộc phải thành phương tiện để
thực hiện các quan hệ dân sự, thương mại, kinh tế. Điều đó có nghĩa rằng về
mặt pháp lý, không có sự phân biệt và tách bạch giữa tài sản được đưa vào tổ
chức và phần tài sản còn lại, mà cả hai thuộc sở hữu của cùng một chủ.
Lịch sử ra đời của chế định pháp nhân và những ý niệm về pháp nhân
hình thành trong nền pháp lý tư sản. Trong xã hội tư bản, phương thức sản
xuất, đặc biệt là sức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh, đưa đến sự
xuất hiện ngày càng nhiều những tổ chức kinh tế xã hội với tư cách là những
chủ thể đặc biệt của những quan hệ pháp luật. Vấn đề củng cố địa vị cho các
tổ chức kinh tế bằng phương tiện pháp lý để các tổ chức này tham gia vào các
quan hệ dân sự, thương mại là nhu cầu cấp thiết với các loại hình tổ chức
khác nhau và cũng là phương tiện cạnh tranh giữa các nhà tư bản với nhau
trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Để xác định tư cách pháp lý độc lập cho
các tổ chức này và tránh rủi ro trong kinh doanh cũng như giới hạn những hậu
quả khủng khiếp của sự đổ vỡ trong các tổ chức và thực tiễn của hoạt động
5
dân sự, thương mại đòi hỏi phải tạo ra một khả năng về sự tách bạch về tài
sản giữa phần đưa vào lưu thông và phần còn lại mà chủ sử hữu có nhu cầu sử
dụng vào các mục đích khác. Khi thực hiện nguyên tắc tách bạch về tài sản
cũng là khi xuất hiện một nhân cách pháp lý mới tách bạch với nhân cách của
chủ sở hữu hoặc cộng đồng sở hữu. Để đặt tên cho nhân cách pháp lý mới đó,
khái niệm pháp nhân ra đời.
Như vậy, đến lúc này, trong cơ chế của nền pháp lý tư sản không chỉ có
một loại chủ thể pháp luật duy nhất là cá nhân con người mà xuất hiện một
loại chủ thể khác nữa, đó là tổ chức tập thể cộng đồng hay tập đoàn v.v. Vì
vậy, cùng một lúc trong dân luật tư sản xuất hiện hai khái niệm pháp nhân và
thể nhân. Hai khái niệm này được dùng để chỉ tính chủ thể của hai loại trên
(tổ chức và cá nhân) khi chúng tham gia vào các quan hệ pháp luật chủ yếu là
pháp luật dân sự, kinh tế. Do vậy, chế định pháp nhân xuất hiện trên thương
trường cùng với sản xuất hàng hoá và hình thành thị trường với quá trình trao
đổi hàng hoá và sự ra đời của các hội buôn, của các doanh nghiệp tổ chức
theo kiểu công ty. Các hội buôn, doanh nghiệp này có trụ sở khác với trú quán
hoặc nơi ở của các hội viên, một tài sản khác với tài sản của các hội viên và
khối tài sản này được dùng làm đảm bảo cho những cam kết của công ty,
doanh nghiệp hay của hội đối với khách hàng mà ngày nay trong thuật ngữ
kinh doanh gọi là “đối tác”. Công ty cũng có một người đại diện để hành động
phán quyết nhân danh công ty, nếu không có những yếu tố trên, mỗi khi đi
giao dịch hoặc theo kiện với công ty, người ta phải kiện từng thành viên, để
sai áp tài sản của từng người tại nơi làm việc hoặc nơi ở của từng người. Như
vậy giao dịch với công ty không thực hiện được và không ai muốn giao dịch
với công ty nữa, các giao dịch không được thực hiện. Ý niệm về pháp nhân
xuất hiện cùng với nhu cầu của các tổ chức tập đoàn, doanh nghiệp, hội buôn,
6
công ty được tham gia vào các quan hệ pháp luật và được luật pháp bảo vệ lợi
ích trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, không có một định nghĩa chung về pháp nhân ở bất cứ pháp
luật của một nước nào mà chỉ dừng lại ở việc quy định các dấu hiệu của pháp
nhân với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, đó là pháp nhân tồn
tại không phụ thuộc vào sự thay đổi các thành viên trong pháp nhân đó. Vì
vậy, pháp nhân được coi là “cá thể riêng biệt”, có tài sản riêng độc lập với tài
sản của các thành viên của nó, có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
và thực hiện những hành vi pháp lý nhân danh mình; có quyền làm nguyên
đơn, bị đơn trước tòa án, có trách nhiệm độc lập về tài sản.
Ở Việt Nam, luật cổ Việt Nam không có khái niệm pháp nhân. Pháp
nhân là một chế định pháp lý du nhập. Qua mỗi thời kỳ đều đánh dấu sự thay
đổi lớn về quan điểm pháp lý ở Việt Nam. Có thể chia thành 3 giai
đoạn chính sau:
- Thời kỳ pháp thuộc;
- Thời kỳ kinh tế tập trung;
- Thời kỳ kinh tế thị trường.
Trong thời kỳ Pháp thuộc: khái niệm pháp nhân được đề cập lần đầu
tiên trong Bộ luật dân sự Bắc Kỳ và Bộ luật Dân sự Trung kỳ. Điều 286 Bộ
luật dân sự Bắc kỳ và Điều 239 Bộ luật Dân sự Trung kỳ đều quy định pháp
nhân có thể “thủ đắc tất cả các quyền lợi và đảm nhiệm tất cả những nghĩa vụ
không lệ thuộc vào tư cách thiên nhiên của người ta như nam - nữ tính, tuổi
hay họ hàng”. Ý chí của pháp nhân do cơ quan của pháp nhân thể hiện và
hành vi của cơ quan này có giá trị đối với pháp nhân. Có thể thấy rằng, năng
lực pháp luật độc lập của pháp nhân đã được khẳng định. Tuy nhiên, khái
niệm về pháp nhân thời kỳ này đã được mở rộng với hầu hết các đoàn thể dân
sự, thương mại. Điều 284 Bộ luật Dân sự Bắc kỳ coi nhà nước; hàng – xã;
7
hàng – thôn; hàng – giáp; hàng – xóm; hội thương mại nếu có mục đích hợp
pháp và không trái pháp luật và trái đạo đức thì đều được hưởng quy chế
pháp nhân.
Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung: Chế định pháp nhân là
vấn đề pháp lý ít được nhắc đến. Mặc dù trong nhiều văn bản có quy định một
số tổ chức có tư cách pháp nhân nhưng không nêu rõ pháp nhân là gì và có
đặc điểm gì. Pháp nhân được đề cập tại Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế
ban hành kèm theo Nghị định 54/CP ngày 10 tháng 3 năm 1975 của Hội đồng
Chính phủ. Tại Điều 2 Nghị định 54 quy định các tổ chức sau buộc phải ký
kết hợp đồng kinh tế, trong mọi hợp đồng kinh tế có liên quan đến nhau:
Các tổ chức quốc doanh;
Các tổ chức công tư hợp doanh;
Các cơ quan quản lý nhà nước, các đơn vị bộ đội, các tổ chức xã hội;
Hợp tác xã các loại;
Các tổ chức sản xuất tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp được phép
kinh doanh và có tài khoản tại ngân hàng.
Thông tư hướng dẫn số 525 – HĐ ngày 23 tháng 6 năm 1975 của Hội
đồng Trọng tài kinh tế Nhà nước hướng dẫn bản Điều lệ trên đã xác định các
bên tham gia ký kết hợp đồng kinh tế này có đủ tư cách pháp nhân với điều
kiện: được nhà nước thành lập hoặc thừa nhận; có tài sản riêng và có trách
nhiệm về tài sản đó; có tài khoản tại ngân hàng.
Từ những quy định trên, chúng ta có thể đưa ra một số nhận định sau:
- Thứ nhất, việc quy định tư cách pháp nhân là phục vụ cho chủ trương
chính sách quản lý và ký kết hợp đồng kinh tế.
- Thứ hai, quy chế về pháp nhân không được xây dựng trên nền tảng
khoa học mà được ban hành nhằm phục vụ cho ý chí chủ quan của nhà nước.
Thời kỳ này, các quan hệ dân sự chưa phát triển, nhiều quan hệ kinh tế của
8
nền kinh tế thị trường chưa được đặt ra như phá sản, giải quyết tranh chấp
kinh tế, hợp đồng kinh tế nên chế định pháp nhân chưa được quy định đầy đủ
các khía cạnh pháp lý của nó.
- Thứ ba, chính vì chưa có nền tảng lý luận nên những điều kiện trở
thành pháp nhân khá mơ hồ, phiến diện. Ví dụ: điều kiện bắt buộc pháp nhân
phải có tài khoản ở ngân hàng. Trong khi đó, điều kiện ”có tài sản riêng và
chịu trách nhiệm độc lập bằng tài sản đó” được coi là điều kiện cơ bản để xác
lập tư cách pháp nhân thì các chủ thể nêu trên đều không có những yếu tố tiền
đề về sự tách bạch tài sản. Xuất phát từ nguyên tắc, tài sản nhà nước trong các
tổ chức quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và không thể chia cắt do đó pháp
luật thời kỳ này cũng chưa có quy định về việc chuyển giao quyền sở hữu tài
sản từ phía nhà nước đối với các chủ thể là pháp nhân. Có thể nói rằng, xét
dưới góc độ điều chỉnh pháp luật, thời kỳ này không có sự tồn tại pháp nhân
khi tham gia các quan hệ dân sự - kinh tế theo đúng nghĩa của nó.
Trong thời kỳ kinh tế thị trường, theo chủ trương đổi mới của Đảng, nền
kinh tế nước ta đã bắt đầu có những chuyển biến tích cực theo hướng nền kinh
tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế được
ban hành để điều chỉnh các quan hệ kinh tế ngày càng phát triển và đa dạng,
trong đó xác định pháp nhân là chủ thể quan trọng của hợp đồng kinh tế. Nghị
định 17/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng hướng dẫn chi tiết thi hành Pháp lệnh
Hợp đồng kinh tế ( 1989 ) lần đầu tiên đưa ra khái niệm về pháp nhân. Theo
đó, pháp nhân là tổ chức thỏa mãn các điều kiện sau:
Được thành lập hợp pháp;
Có tài sản riêng và chịu trách nhiệm độc lập bằng tài sản đó;
Có quyền quyết định độc lập về hoạt động;
Tự mình tham gia các quan hệ pháp luật.
9
Tiếp theo, pháp nhân còn được đề cập trong Pháp lệnh Hợp đồng Dân
sự ngày 01 tháng 7 năm 1991, theo đó, một tổ chức được coi là có tư cách
pháp nhân phải hội đủ ba điều kiện:
Có tài sản riêng, tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình;
Tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập, có thể là nguyên đơn,
bị đơn trước tòa;
Được thành lập hợp pháp và được pháp luật công nhận là một tổ chức
độc lập.
Như vậy, các Pháp lệnh trên đều quy định về hai thuộc tính cơ bản của
pháp nhân là sự tham gia quan hệ pháp luật và đặc biệt là pháp nhân có tài sản
độc lập và chịu trách nhiệm bằng tài sản. Pháp nhân được coi là chủ thể của
quan hệ pháp luật dân sự chứ không chỉ là chủ thể trong hợp đồng kinh tế
trước đây.
Năm 1995, Bộ luật Dân sự được ban hành, lần này khái niệm pháp
nhân được đưa vào Bộ luật với những quy định cụ thể. Điều 94 của Bộ luật
Dân sự quy định một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ điều
kiện sau:
Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập,
đăng ký hoặc công nhận;
Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản đó;
Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Năm 2005, Bộ luật Dân sự ( tại điều 84 ) đã mô tả các dấu hiệu (điều
kiện ) của một tổ chức có tư cách pháp nhân. Một tổ chức được công nhận là
pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau:
Được thành lập một cách hợp pháp;
10
Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản đó;
Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Từ các dấu hiệu pháp lý của pháp nhân cho thấy sự tồn tại của pháp
nhân phụ thuộc vào pháp luật. Có nghĩa là, pháp luật quy định tổ chức nào có
tư cách pháp nhân. Bản chất pháp lý của pháp nhân gắn với sự độc lập về tài
sản, tham gia các quan hệ pháp luật bằng tài sản và chịu trách nhiệm hữu hạn
về tài sản. Pháp nhân có khả năng hành động độc lập trước pháp luật. Pháp
nhân được pháp luật thừa nhận có quyền nhân thân và quyền tài sản, có địa vị
pháp lý bình đẳng với các chủ thể khác khi tham gia các quan hệ dân sự - một
quan hệ mang tính chất nền tảng trong đời sống dân sự. Do vậy, pháp nhân
cũng là chủ thể của các quan hệ pháp luật khác như: kinh tế, thương mại, lao
động. Điều này xuất phát từ vai trò điều chỉnh của Bộ luật Dân sự, là một văn
bản pháp lý đặt nền tảng cho các mối quan hệ mang tính chất thỏa thuận về tài
sản trong đời sống dân sự.
Bên cạnh Bộ luật Dân sự, pháp nhân còn là đối tượng điều chỉnh của
nhiều văn bản pháp lý chuyên ngành. Trong nền kinh tế thị trường, để tạo nên
sự đa dạng các hoạt động kinh tế, pháp luật thừa nhận và quy định các hình
thức đầu tư – các chủ thể mới của nền kinh tế. Mỗi chủ thể đều có quy chế
thành lập, hoạt động, giải thể và phá sản theo một quy chế pháp lý riêng. Các
pháp nhân là tổ chức kinh tế chịu sự điều chỉnh rất chặt chẽ của văn bản pháp
luật chuyên ngành như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật
Hợp tác xã, Luật phá sản... Do đó, có thể nói quy chế hoạt động của mỗi pháp
nhân kinh tế cụ thể chịu sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật chung ( về
các nội dung pháp lý cơ bản của pháp nhân ) và những quy phạm pháp luật cá
11
biệt điều chỉnh về việc thành lập, tổ chức hoạt động được áp dụng riêng cho
mỗi hình thức tổ chức pháp nhân.
Như vậy, pháp nhân là một tổ chức thống nhất, độc lập, hợp pháp có tài
sản riêng và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham
gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
1.1.2. Bản chất pháp lý của pháp nhân
Nghiên cứu tư cách pháp nhân nói chung và tư cách pháp nhân của các
loại hình doanh nghiệp nói riêng giúp chúng ta nhận rõ được bản chất pháp lý
của chúng khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự hay thương mại.
Thứ nhất, pháp nhân có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự.
Nhưng khác với cá nhân, pháp nhân có năng lực pháp luật và năng lực hành
vi dân sự bị hạn chế bởi pháp luật về từng loại pháp nhân và Điều lệ pháp
nhân. Điều 86 Bộ luật dân sự Việt Nam quy định: “Năng lực pháp luật dân sự
của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự phù
hợp với mục đích hoạt động của mình..
Điều đó có nghĩa rằng pháp nhân phải hoạt động đúng mục đích, khi
thay đổi mục đích phải xin phép đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Như các tổ chức chính trị - xã hội khi được các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cho phép thành lập thì các tổ chức này phải hoạt động theo đúng mục
đích đã được ghi trong Điều lệ. Nếu tổ chức chính trị - xã hội này muốn thay
đổi mục đích thì phải xin phép đăng ký lại với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Trong trường hợp pháp nhân được thành lập theo quyết định của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền thì việc thay đổi mục đích hoạt động phải tuân
theo quyết định của cơ quan đó. Ví dụ: Khi Quốc hội thành lập các Bộ quản
lý ngành – lĩnh vực để thực hiện chức năng quản lý nhà nước thì các Bộ phải
thực hiện đúng chức năng đó của mình không được thực hiện các chức năng
khác nhằm mục đích kinh doanh...
12
Thứ hai, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của pháp nhân cùng xuất
hiện hoặc cùng chấm dứt ở một thời điểm. Khác với cá nhân, năng lực hành vi
của pháp nhân không tính theo độ tuổi hay tình trạng sức khỏe ( vì pháp nhân
không phải là người ). Điều 86 Bộ luật dân sự quy định: “ Năng lực pháp luật
dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm pháp nhân được thành lập và
chấm dứt từ thời điểm chấm dứt pháp nhân”. Như vậy, kể từ thời điểm pháp
nhân được thành lập thì năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự
của pháp nhân đã được pháp luật công nhận. Đồng thời, khi pháp nhân chấm
dứt hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của
pháp nhân cũng chấm dứt.
Pháp nhân được phát sinh năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi
dân sự từ thời điểm thành lập trong các trường hợp sau:
Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập;
Được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập;
Được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép đăng ký hoặc
công nhận.
Nhà nước bằng các quy định về thẩm quyền ra quyết định thành lập,
trình tự, thủ tục thành lập, điều kiện thành lập pháp nhân. Mỗi pháp nhân
được thành lập theo một trình tự riêng phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức, nhiệm
vụ của pháp nhân đó. Chính vì vậy, mỗi pháp nhân có năng lực pháp luật dân
sự và năng lực hành vi dân sự bằng các cách thức khác nhau.
Năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự của pháp nhân chấm dứt
được quy định tại điều 99 Bộ luật dân sự. Theo đó, pháp nhân được chấm dứt
trong các trường hợp sau: Hợp nhất, sáp nhập, chia, giải thể hoặc bị tuyên bố
phá sản theo quy định của pháp luật. Thời điểm pháp nhân chấm dứt kể từ
thời điểm xóa tên trong sổ đăng ký pháp nhân hoặc từ thời điểm ghi trong
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
13
Thứ ba, pháp nhân có quyền nhân thân. Khác với cá nhân, pháp nhân
không có ý thức, ý chí theo nghĩa tâm lý, không có nội tâm, không có nhân
phẩm, nhưng pháp nhân có uy tín và danh dự. Theo điều 87 của Bộ luật Dân
sự thì “tên gọi của pháp nhân được pháp luật công nhận và bảo vệ”. Trong đời
sống kinh tế thì vấn đề này rất quan trọng vì nó gắn liền với tên, uy tín, danh
dự của hãng kinh doanh cũng như nhãn hiệu thương phẩm và uy tín của
doanh nghiệp.
Thứ tư, pháp nhân chỉ có thể thực hiện hành vi thông qua cơ quan của
pháp nhân. Cơ quan của pháp nhân là người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân và được “ủy quyền” của pháp nhân. Pháp nhân có thể thực hiện hành vi
dân sự thông qua đại diện ủy quyền. Điểm 3 điều 86 Bộ luật Dân sự quy định:
“ Người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của pháp
nhân nhân danh pháp nhân trong quan hệ dân sự “. Điều 89 Bộ luật Dân sự
cũng quy định: “Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan điều hành của
pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định
thành lập pháp nhân”. Như vậy, ta có thể hình dung ở đây có hai thực thể
pháp lý, đó là pháp nhân và cơ quan hay đại diện pháp nhân. Vì thế khi cơ
quan pháp nhân nhân danh pháp nhân thể hiện ý chí của pháp nhân, phù hợp
với điều lệ của pháp nhân, thì bản thân cơ quan pháp nhân không chịu trách
nhiệm dân sự thay cho pháp nhân. Nhưng ngược lại, khi cơ quan pháp nhân
thực sự không nhân danh pháp nhân mà nhân danh chính bản thân cơ quan
pháp nhân thì chính nó chứ không phải là pháp nhân phải gánh chịu hậu quả
pháp lý về những hành vi đó. Bởi vì cơ quan pháp nhân là cá nhân hay tập thể
người cũng đều có thể là chủ thể quan hệ pháp luật dân sự. Như vậy, “quyền
lực” của cơ quan pháp nhân cũng chỉ giới hạn và được xác định trong chừng
mực nhân danh pháp nhân. Bản thân cơ quan pháp nhân phải chịu trách nhiệm
về hậu quả của hành vi khi chúng hoạt động không nhân danh pháp nhân và
14
phải chịu trách nhiệm vô hạn về những hành vi đó. Lúc đó trách nhiệm hữu
hạn của pháp nhân không thể đưa ra áp dụng. Câu hỏi đặt ra là vậy thì khi nào
thì cơ quan pháp nhân hoạt động nhân danh pháp nhân và khi nào không còn
nhân danh pháp nhân. Chế định về tư cách pháp nhân, pháp luật và đặc biệt là
điều lệ của pháp nhân sẽ làm rõ vấn đề này.
Như vậy, mọi cá nhân và những tổ chức không có tư cách pháp nhân thì
tư cách pháp lý của chúng được thể hiện bởi những thành viên của tổ chức đó.
Trong khi đó, những pháp nhân khi tham gia các quan hệ tài sản luôn hưởng
quy chế trách nhiệm hữu hạn.
Từ những phân tích trên cho thấy một tổ chức được gọi là pháp nhân hay
một tổ chức phải có đủ các điều kiện sau thì có tư cách pháp nhân:
Một là, pháp nhân được thành lập một cách hợp pháp. Một pháp nhân
được thành lập một cách hợp pháp khi pháp nhân được pháp luật cho phép
thành lập hoặc được pháp luật thừa nhận một cách hợp lý.
Dấu hiệu pháp lý này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thời
điểm một tổ chức được hưởng quy chế pháp nhân. Khi pháp nhân chưa được
khai sinh về mặt pháp lý thì không có sự chuyển dịch về nghĩa vụ giữa người
thành lập pháp nhân và pháp nhân nếu trong giai đoạn tiền thành lập pháp
nhân phát sinh một nghĩa vụ tài sản.
Thời điểm pháp nhân ra đời là sự kiện pháp lý làm phát sinh năng lực
pháp luật và năng lực hành vi của pháp nhân. Dấ u hiê ̣u “Hợp pháp” ở đây
được hiểu theo nghĩa truyền thống đó là: đòi hỏi pháp nhân đó phải có mục
tiêu hoạt động không trái với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội, tuân
thủ trình tự luật định trong việc thành lập, tổ chức; hoạt động trong phạm vi
đăng ký thành lập. Theo pháp luật, pháp nhân được thừa nhận sự ra đời một
cách hợp pháp bằng một trong hai cách thức là: sáng kiến của cá nhân, tổ
15
chức kinh tế hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Điều
85 Bộ luật Dân sự).
Hai là, pháp nhân có tài sản độc lập, tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó.
Cũng giống như các chủ thể khác tham gia vào các quan hệ dân sự,
thương mại, để đảm bảo cho việc gánh vác một nghĩa vụ về tài sản, pháp nhân
phải có tài sản riêng thuộc quyền sở hữu của mình. Một nguyên tắc đã được
thừa nhận chung trong các quan hệ tài sản là chỉ khi có sự độc lập về quyền sở
hữu đối với tài sản, nói cách khác, là độc lập trong việc thực hiện nghĩa vụ về
tài sản, các chủ thể mới có sự bình đẳng thực sự về mặt pháp lý. Pháp nhân
bình đẳng với các chủ thể khác khi tự nó đưa tài sản thuộc quyền sở hữu của
mình vào lưu thông. Tài sản đó là đối tượng đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của
pháp nhân. Như vậy, nếu không có tài sản riêng, pháp nhân cũng mất vai trò
độc lập của nó khi tham gia các giao dịch tài sản. Quyền sở hữu của pháp
nhân đối với tài sản là quyền sở hữu mang tính chất tuyệt đối, tức là, chỉ có
pháp nhân mới có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản của
pháp nhân. Đồng thời, pháp nhân cũng có quyền được yêu cầu pháp luật bảo
vệ quyền sở hữu của mình một cách vô điều kiện như đối với sở hữu của cá
nhân khi có căn cứ cho rằng quyền sở hữu đối với tài sản của mình bị chủ thể
khác xâm phạm.
Pháp luật quy định sở hữu của pháp nhân là sở hữu chung theo phần
hoặc sở hữu hỗn hợp. Tuy nhiên, dưới góc độ xem xét về tình trạng chiếm
hữu đối với tài sản, tài sản của pháp nhân luôn tồn tại dưới dạng giá trị, là một
khối thống nhất, không thể phân chia. Pháp luật thừa nhận các trường hợp
những người cùng góp vốn có thể được chia lợi nhuận, rút vốn… Nhưng
không phải lúc nào những người góp vốn vào công ty cũng có quyền đó. Pháp
luật quy định chỉ trong một số những trường hợp nhất định thì người sáng lập
ra pháp nhân mới được quyền dự phần (can thiệp) vào khối tài sản của pháp
16
nhân. Sự bảo toàn trạng thái chiếm hữu một cách nguyên vẹn đối với tài sản
của pháp nhân luôn được pháp luật bảo vệ, mục đích là để đảm bảo cho việc
thực hiện nghĩa vụ của pháp nhân trước chủ thể thứ ba. Do đó, sở hữu của
pháp nhân là sở hữu chung theo phần sẽ có xu hướng không tích cực khi nói
đến sự tham gia của những người góp vốn theo phần hoặc theo tỷ lệ vốn góp.
Hệ quả của nó làm mất đi tính độc lập, tính riêng, tính toàn vẹn về mặt pháp
lý đối với tài sản của pháp nhân.
Điều đáng lưu ý là khi góp vốn vào thành lập pháp nhân, các
chủ thể thành lập pháp nhân phải chuyển dịch quyền sở hữu đối với
tài sản của mình cho pháp nhân. Quyền sở hữu ban đầu của họ được
chuyển cho pháp nhân để đổi lại họ có quyền quản lý, điều hành đối
với hoạt động của pháp nhân, kiểm soát việc pháp nhân đưa tài sản
vào lưu thông (còn gọi là những trái quyền). Pháp luật truyền thống
luôn có xu hướng bảo vệ sở hữu vật quyền (quyền đối với vật) hơn
là sở hữu trái quyền. Đối với tài sản của pháp nhân, pháp nhân là
chủ thể thực hiện các quyền năng của một chủ sở hữu một cách trực
tiếp và toàn vẹn (quyền đối với vật) [8].
Hệ quả tất yếu của việc pháp nhân có tài sản riêng là việc pháp
nhân được quyền nhân danh mình tham gia các quan hệ tài sản. Tài
sản của pháp nhân là đối tượng bảo đảm cho các quan hệ trái vụ của
pháp nhân. Các chủ thể khác khi tham gia quan hệ tài sản với pháp
nhân được bảo đảm bằng việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của pháp
nhân trong phạm vi tài sản hiện có của pháp nhân. Nếu như pháp
nhân không tồn tại (bị vỡ nợ) thì trách nhiệm trả đối với các khoản
nợ đương nhiên chấm dứt. Các thành viên pháp nhân không phải
lấy tài sản riêng của mình để trả nợ thay cho pháp nhân mà chỉ phải
mất phần vốn mà mình đã góp vào pháp nhân. Đây là nguyên tắc
17
pháp lý chung áp dụng cho mọi pháp nhân. Cơ sở vật chất áp dụng
quy chế này là sự tách bạch một cách tuyệt đối về tài sản của pháp
nhân với chủ thể thành lập pháp nhân. Trong khoa học pháp lý, việc
pháp nhân chỉ phải chịu trách nhiệm đến hết tài sản hiện có của
mình khi bị phá sản được gọi là chế độ trách nhiệm hữu hạn của
pháp nhân [8].
Nói rộng ra, quy chế pháp lý này là yếu tố cơ bản để phân biệt
pháp nhân với chủ thể pháp luật cơ bản khác là thể nhân. Việc phân
biệt giữa pháp nhân hay thể nhân không phải ở cơ cấu tổ chức,
không phải là cá nhân hay tổ chức mà chính là khả năng tách bạch
về tài sản và chịu trách nhiệm về tài sản một cách độc lập[8].
Khi nghiên cứu đến bản chất pháp lý này và bàn luận về tư cách pháp
nhân của công ty hợp danh, cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm
ủng hộ công ty hợp danh có tư cách pháp nhân cho rằng, “riêng trách nhiệm
tài sản hoặc cơ chế đảm bảo về tài sản của công ty hợp danh đối với các giao
dịch pháp lý không phải là đặc trưng của pháp nhân” 6] [7]. Với quan điểm
của mình, tác giả luận văn không đồng tình với quan điểm cho rằng công ty
hợp danh có tư cách pháp nhân. Quan điểm này sẽ được phân tích ở phần sau.
Ba là, pháp nhân nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật.
Sự tách bạch tuyệt đối về tài sản đã làm hình thành nên khối tài sản
thống nhất thuộc quyền sở hữu của pháp nhân. Thực hiện quyền kiểm soát đối
với tài sản chung đó, như một yêu cầu tất yếu, các chủ thể sáng lập ra pháp
nhân - những người đã từ bỏ quyền sở hữu của mình để được quyền quản lý,
điều hành đối với pháp nhân - cần có một sự thống nhất về ý chí trong việc
quyết định đưa khối tài sản chung đó vào trong lưu thông. Sự thống nhất ý chí
này được pháp luật trừu tượng hóa trở thành “ý chí” của pháp nhân. Pháp
18
nhân có năng lực về tài sản và có ý chí thống nhất là cơ sở để trở thành một
chủ thể độc lập tham gia quan hệ tài sản.
Trong các mối quan hệ về tài sản với các chủ thể khác, do có tài sản
riêng thuộc quyền sở hữu của mình, pháp nhân có đủ khả năng để gánh vác
các nghĩa vụ về tài sản một cách độc lập. Nếu trách nhiệm được áp dụng với
pháp nhân thì trách nhiệm đó luôn luôn là trách nhiệm độc lập về tài sản.
Trong trường hợp có các căn cứ cho rằng, cơ sở làm phát sinh trách nhiệm
được thực hiện bởi lỗi cố ý của những người đại diện pháp nhân do lợi dụng
danh nghĩa pháp nhân để thực hiện những nghĩa vụ vượt quá, không xuất phát
từ mục tiêu của pháp nhân, hay nói cách khác, làm mất đi khả năng tự hành
động của pháp nhân (tính độc lập tham gia các quan hệ của pháp nhân) thì khi
đó trách nhiệm không thuộc về pháp nhân. Và lúc đó, tùy thuộc tính chất của
sự việc, trách nhiệm đó có thể là trách nhiệm của cá nhân hay trách nhiệm
liên đới giữa các thành viên pháp nhân; có thể là trách nhiệm dân sự hay trách
nhiệm hình sự hoặc cả hai.
Trong hoạt động áp dụng pháp luật, tính độc lập của pháp nhân khi tham
gia các giao dịch là cơ sở để xem xét cơ chế chịu trách nhiệm trước các chủ
thể khác tức là trách nhiệm về tài sản đó thuộc về pháp nhân hay thuộc về
thành viên pháp nhân. Bởi vì, một nguyên tắc pháp lý rất hợp lý và nhân đạo
là “ai” thực hiện hành vi trước pháp luật thì người đó phải chịu trách nhiệm
về việc thực hiện hành vi của mình.
Bốn là, pháp nhân thực hiện các giao dịch tài sản thông qua cơ chế người
đại diện của pháp nhân.
Pháp nhân tham gia các quan hệ dân sự với tư cách là một chủ thể độc
lập như những con người. Để trở thành một chủ thể pháp luật độc lập, pháp
nhân phải có đầy đủ năng lực hành vi và năng lực pháp luật kể từ thời điểm
pháp nhân được khai sinh về mặt pháp lý.
19
- Xem thêm -