Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp môn niệm phật tam muội trong kinh hoa nghiêm...

Tài liệu Pháp môn niệm phật tam muội trong kinh hoa nghiêm

.PDF
80
153
122

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ TRỌNG BẢO PHÁP MÔN NIỆM PHẬT TAM MUỘI TRONG KINH HOA NGHIÊM LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI, 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ TRỌNG BẢO PHÁP MÔN NIỆM PHẬT TAM MUỘI TRONG KINH HOA NGHIÊM Ngành: Triết học Mã số: 60220301 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. TRẦN NGUYÊN VIỆT HÀ NỘI, 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Pháp môn niệm Phật tam muội trong kinh Hoa Nghiêm” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của PGS.TS. Trần Nguyên Việt. Các số liệu trích dẫn trong luận văn là trung thực, rõ nguồn gốc./. Tác giả luận văn Đỗ Trọng Bảo MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1 Chƣơng 1. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ PHÁP MÔN NIỆM PHẬT TAM MUỘI VÀ KINH HOA NGHIÊM .......................................................................................................... 7 1.1. PHÁP MÔN NIỆM PHẬT TAM MUỘI .................................................................... 7 1.2. KINH HOA NGHIÊM VÀ NỘI DUNG TƢ TƢỞNG CƠ BẢN CỦA NÓ ............. 17 Chƣơng 2. BỐN PHÁP MÔN NIỆM PHẬT TAM MUỘI CƠ BẢN TRONG KINH HOA NGHIÊM ................................................................................................................... 38 2.1. NIỆM PHẬT PHÁP THÂN ..................................................................................... 39 2.2. NIỆM PHẬT CÔNG ĐỨC ....................................................................................... 44 2.3. NIỆM PHẬT DANH TỰ .......................................................................................... 53 2.4. NIỆM PHẬT ADIĐÀ ............................................................................................... 62 KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 74 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong kinh Niết bàn có đoạn Thích Ca Mâu Ni nói về tính cần thiết của giải thoát với các đệ tử của mình nhƣ sau: “Tự mình làm ngọn đuốc, tự mình làm phƣớc lành, xem chân lý chính là ngọn đuốc và phƣớc lành đó. Bất luận là trong giờ khắc này hay là sau khi ta mất đi, các đệ tử nhất định phải tự bảo vệ và tự soi sáng cho mình, đồng thời phải dùng chân lý để bảo vệ và soi sáng cho mình” [2, tr.26]. Đây là di huấn hết sức quan trọng và cũng là tiền đề để Phật giáo tồn tại và phát triển, trở thành một trong ba tôn giáo lớn của thế giới. Cũng nhƣ mọi tôn giáo khác, Phật giáo lấy giải thoát con ngƣời khỏi nỗi khổ truyền kiếp làm mục đích tối thƣợng. Tuy nhiên, làm thế nào để đạt đƣợc giải thoát, đƣợc đến với cõi Niết bàn hay Tịnh độ đã trở thành nguyên nhân của sự xuất hiện các phƣơng pháp tu hành khác nhau trong Phật giáo. Ngay cách hiểu về Niết bàn và tiêu chí đạt tới cảnh giới đó cũng không thống nhất khi chúng ta tìm hiểu nó trong các bộ kinh của Phật giáo nhƣ Tạp A Hàm kinh, Đại Niết bàn kinh, Niệm Phật tam muội kinh, v.v. Duy chỉ có điều đƣợc thừa nhận chung về cảnh giới Niết bàn chính là cảnh giới tâm linh, không phải là cảnh giới vật chất, vì thế nó không có địa danh xác định. Tiểu thừa Phật giáo cho rằng, đến với Niết bàn là đến với bến bờ bên kia (đáo bỉ ngạn), với chúng ta, chừng nào còn ở bờ bên này (thử ngạn) thì vẫn còn lẩn quẩn trong vòng luân hồi. Ngƣợc lại, Đại thừa Phật giáo cho rằng, Niết bàn tức là luân hồi xét từ góc độ nào đó, tức là có Niết bàn ở thế giới bên này chứ không phải chỉ có ở thế giới bên kia nhƣ Tiểu thừa xác nhận. Nói cách khác, cái vô minh, cái nhìn thấy đƣợc là luân hồi, còn cái nhận biết đƣợc, giác ngộ (tri nhận) đƣợc là Niết bàn. Tiểu thừa Phật giáo coi việc đạt mục tiêu Niết bàn chỉ sau khi 1.đoạn trừ đƣợc nghi hoặc, đoạn trừ tham, 1 sân si và 2.sau khi chết mới có sự hoàn thành của trí tuệ Bát Nhã. Trong khi đó, Đại thừa Phật giáo cho răng, “thành phần của „thể tụ hợp‟ không ngừng hoán dị, cho nên sinh mệnh của cá thể chỉ có „sự tăng trƣởng của nhất niệm‟… cho nên giả nhƣ tin rằng, „cá thể‟ không có sinh mệnh, chính là cách nhìn nhận „ngũ uẩn giai không‟… Cái gọi là Niết bàn chỉ là do cảm giác tỉnh táo của mộng mị, do từ trong sự trầm kha của tâm thức sống lại, Niết bàn chính là giác ngộ” [2, tr.317-318]. Qua đó cho thấy, ý nghĩa tên gọi của “Đại thừa Phật giáo” là cỗ xe lớn chở đƣợc nhiều ngƣời đến với Niết bàn hay Tịnh Độ chính là ở chỗ phái này đƣa ra lý luận giải thoát cho con ngƣời ngay trong cõi Sa-bà và Ta-bà vừa bằng tự giác, vừa bằng giác tha. Điều cốt yếu là hành giả trong quá trình tu tập phải nhất tâm, phải hƣớng tới pháp môn niệm Phật tam muội để tri nhận Pháp thân, Báo thân và Hóa thân thì sẽ đạt tới giác ngộ, thậm chí đạt tới giác ngộ rất nhanh (đốn ngộ). Giác ngộ hay giải thoát là mục đích tối thƣợng của Phật giáo nói chung, Phật giáo Đại thừa nói riêng. Điều này đƣợc Kinh Hoa Nghiêm luận giải và chỉ ra các phƣơng pháp rất cụ thể để hành giả thực hành tu niệm cho đúng để đạt hiệu quả. Mặt khác, tu niệm trong đời sống tôn giáo còn góp phần củng cố niềm tin vào đạo lý chân chính, điều đó có ý nghĩa không chỉ đối với các phật tử xuất gia, mà đặc biệt đối với các cƣ sĩ tại gia không bị rơi vào tình trạng dao động, bị lôi cuốn bởi các tà đạo đang có xu hƣớng biến thái và xuất hiện ngày càng nhiều ở nƣớc ta. Pháp môn niệm Phật tam muội nói chung, niệm Phật tam muội trong kinh Hoa Nghiêm giúp ngƣời tu hành giữ vững niềm tin tôn giáo vào Phật giáo, một tôn giáo đã gắn bó với dân tộc hàng ngàn năm và hiện tại đang góp phần quan trọng vào việc xây dựng đất nƣớc theo tinh thần “Đạo Pháp, Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội”. 2 Vì vậy, với ý nghĩa và tầm quan trọng của pháp môn niệm Phật tam muội, cùng với việc bản thân học viên là nhà tu hành, cho nên mạnh dạn chọn “Pháp môn niệm Phật tam muội trong kinh Hoa Nghiêm” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn cao học của mình với mong muốn góp phần làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của Phật giáo Đại thừa vừa uyên bác về mặt triết học, vừa vi diệu về, mặt phƣơng pháp tu hành trong bộ kinh này. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Từ các cuộc kết tập kinh điển của Phật giáo đã hình thành nên bộ kinh điển đồ sộ đƣợc gọi là Tam tạng kinh (tripitaka). Trong quá trình phát triển của Phật giáo trải qua hàng thế kỷ, số lƣợng kinh điển ngày càng tăng và điều đó kéo theo một loạt các công trình nghiên cứu về Phật giáo với số lƣợng không thể thống kê hết đƣợc. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài, chúng tôi xác định số các công trình cần thiết để tham khảo và sơ bộ phân định các tài liệu đó theo các hƣớng sau đây: 1. Hướng nghiên cứu các nội dung cơ bản của Phật giáo Đại thừa Trong phạm vi luận văn này chúng tôi không thể kể hết đƣợc các công trình nghiên cứu về Phật giáo Đại thừa. Song liên quan đến đề tài có thể chỉ ra một số công trình nhƣ sau: Sách Đại thừa khởi tín luận [12] do Bồ tát Mã Minh soạn. Cuốn sách đƣợc phật tử Chân Hiền Tâm dịch từ tiếng Hán sang tiếng Việt với mục đích dò tìm dấu vết nghìn năm cũ của các bậc Bồ tát. Cuốn sách nói về lý duyên khởi của Nhƣ Lai tạng. Hiện nay các sách trƣớc thuật về khởi tín luận đƣợc chia thành sách đƣợc chia thành 18 loại với số lƣợng 89 quyển. Cuốn Lược sử Phật giáo Ấn Độ [10] do Hòa thƣợng Thích Thanh Kiểm biên khảo năm 1963 trình bày khái quát lịch sử Phật giáo Ấn Độ. Sách do Thành hội Phật giáo TP HCM xuất bản năm 1989 gồm 4 thiên, 19 chƣơng. Thiên thứ ba nói về Phật giáo Đại thừa kể từ cuối thế kỷ II đến cuối thế kỷ 3 VII với sự hƣng long và phát triển của Đại thừa Phật giáo qua các thời đại ngài Long Thọ, Đề Bà. Cuốn Ấn Độ Phật giáo sử luận [31] do tác giả Viên Trí biên soạn, Nxb Phƣơng Đông, TP HCM, 2009 trình bày lịch sử Phật giáo Ấn Độ từ đức Phật đến thời kỳ Bộ phái. Cuốn Bước đầu học Phật [30] do HT Thích Thanh Từ biên soạn, Nxb Tôn giáo 2002 với mục đích dẫn dắt những ngƣời mới bắt đầu học Phật hiểu Phật giáo một cách đúng đắn để trở thành phật tử chân chính. Theo tác giả, bản chất của Phật giáo đã là chân lý, là sự thật, chúng ta đừng làm méo mó khiến kẻ bàng quan hiểu lầm Phật giáo. Bộ sách Nguyên thủy, Tiểu thừa, Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận [7] của Kimura Taiken do HT Thích Quảng Độ dịch, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2012. Đây là bộ sách bàn về tƣ tƣởng của Phật giáo đƣợc nhiều ngƣời quan tâm với cách trình bày khúc triết, dễ hiểu về Phật giáo, đặc biệt là cuốn thứ ba về Phật giáo Đại thừa với lý luận giải thoát hết sức tinh tế và vi diệu. 2. Hướng nghiên cứu Pháp môn niệm Phật tam muội Hƣớng nghiên cứu này cũng có nhiều sách bàn về lý luận giải thoát thông qua các hình thức tu niệm, cụ thể: Cuốn Đường về Cực Lạc [25] của Hòa Thƣợng Thích Trí Tịnh, Thành hội Phật giáo TP HCM ấn hành năm 1995. Theo tác giả, cuốn sách là sự “gom góp những chỗ, những nơi dạy về Pháp môn Tịnh Độ của Phật Bồ Tát và Cổ đức, trong các Kinh các luận chính thức… Đƣờng về Cực Lạc là con đƣờng Pháp dẫn ta và tất cả chúng sinh từ xứ ác trƣợc Ta Bà về đến thế giới Thanh tịnh Cực Lạc, cũng chính là Pháp môn Tịnh độ nói bằng một cách khác đấy thôi”. Tiếp đến là cuốn Niệm Phật thập yếu [22] do Hòa thƣợng Thích Thiền Tâm dịch, Nxb TP HCM ấn hành năm 1999. Cuốn sách đƣợc coi là kim chỉ 4 nam cho những hành giả tu Tịnh Độ. Trọn bộ gồm 10 chƣơng tƣơng ứng với 10 yêu cầu thiết yếu nhất cho quá trình tu niệm của hành giả tới sự giác ngộ. Bộ sách Đại trí độ luận [3] của Bồ Tát Long Thọ gồm 5 tập giải thích về các khái niệm của pháp môn tu niệm Phật, đặc biệt là vai trò và năng lực của trí để đạt tới giải thoát. Bộ sách do HT Thích Thiện Siêu dịch, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành năm 1997. Cuốn Giải thoát luận Phật giáo [26] của TS Nguyễn Thị Toan, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010 cho rằng, quan niệm về giải thoát xuyên suốt giáo lý của đạo Phật, tạo thành nét đặc sắc của tôn giáo – triết hoc này. Nghiên cƣu quan niệm về giải thoát trong Phật giáo sẽ giúp chúng ta hiểu sâu hơn sự đa dạng của các cách thức, các con đƣờng giải phóng con ngƣời trong các học thuyết xã hội. Cuốn Khai sáng tuệ giác giáo nghĩa tinh yếu cơ bản của Đạo Phật [2] của tác giả David Neil do Hoàng Ngọc Cƣơng và Nguyễn Thị Xuân Hiền dịch, Nxb Đồng Nai ấn hành 2011. Cuốn sách trình bày khái quát giáo lý cơ bản của Phật giáo, nghiệp lực và Niết bàn tịch tĩnh, giúp độc giả hiểu rõ những khái niệm cơ bản của phƣơng pháp tu niệm Phật. 3. Hướng nghiên cứu kinh Hoa Nghiêm và pháp môn niệm Phật tam muội trong kinh Hoa Nghiêm Từ 4 tập của bộ kinh Hoa Nghiêm do Hòa thƣợng Thích Trí Tịnh dịch, Nxb TP Hồ Chí Minh ấn hành năm 1999 đã xuất hiện nhiều công trình lƣợc giải, đại cƣơng, giáo trình về kinh này. Cụ thể: Cuốn Đại cương Kinh Hoa Nghiêm t.1 [28] do Thích Hằng Trƣờng biên soạn, Nxb tôn giáo Hà Nội, 2004; cuốn Giáo trình Kinh Hoa Nghiêm, do TT Thích Trí Hải biên soạn, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2016; Hòa Thƣợng Thích Trí Quảng với Lược giải Kinh Hoa Nghiêm, v.v. giúp độc giả hiểu biết rõ hơn về nguồn gốc, cấu trúc và những nội dung cơ bản của Kinh Hoa Nghiêm. Ngoài ra còn có các công trình khác liên quan đến hƣớng nghiên cứu này đƣợc đăng tải trên các tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, Nghiên cứu Phật học, v.v. 5 3. Mục đích và nhiệm vụ 3.1. Mục đích: làm rõ nội dung của Pháp môn niệm Phật tam muội trong kinh Hoa Nghiêm 3.2. Nhiệm vụ: để thực hiện đƣợc mục đích nêu trên, luận văn cần tiến hành các bƣớc sau đây: - trình bài nội dung của Pháp môn tam muội qua quan niệm của Phật giáo Đại thừa về Tịnh Độ - làm rõ sự ra đời và một số vấn đề mang tính văn bản học của kinh Hoa Nghiêm - trình bày bốn pháp môn niệm Phật tam muội trong kinh Hoa Nghiêm 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Pháp môn niệm Phật tam muội 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là Pháp môn niệm Phật tam muội trong kinh Hoa Nghiêm. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận: luận văn nghiên cứu Pháp môn niệm Phật tam muội dựa trên cơ sở lý luận của lịch sử triết học, tôn giáo học. 5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn: là các phƣơng pháp đƣợc ứng dụng trong nghiên cứu lịch sử triết học nhƣ phân tích, tổng hợp, sự thống nhất giữa logic và lịch sử cụ thể, phƣơng pháp so sánh, đối chiếu, v.v. 6. Ý nghĩa của luận văn Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những độc giả nghiên cứu lịch sử triết học, tôn giáo học, triết học tôn giáo và đặc biệt là những ngƣời quan tâm đến phƣơng pháp tu niệm Phật. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận án có kết cấu gồm 3 chƣơng 9 tiết. 6 Chƣơng 1 VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ PHÁP MÔN NIỆM PHẬT TAM MUỘI VÀ KINH HOA NGHIÊM 1.1. PHÁP MÔN NIỆM PHẬT TAM MUỘI 1.1.1. Quan niệm của Phật giáo Đại thừa về Tịnh Độ Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn của thế giới và có một quá trình lịch sử phát triển lâu dài: thời kỳ Phật giáo nguyên thủy, thời kỳ phân chia phái bộ thành Thƣợng tọa bộ và Đại chúng bộ, tiếp đến là sự phân chia thành Tiểu thừa và Đại thừa. Theo biểu tƣợng giản đơn thì quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo đƣợc ví nhƣ cây, gốc của nó là Phật giáo nguyên thủy, thân của nó là Tiểu thừa và phần ngọn là Đại thừa. Đại thừa (Mahayana) là cỗ xe lớn không chỉ giản đơn đƣợc dùng làm phƣơng tiện vận tải, mà còn đƣợc dùng để chỉ giáo pháp khiến ngƣời tu đƣợc mở mang Nhất thiết trí. Trong Phẩm Thí dụ, Kinh Pháp Hoa viết rằng: “Nếu có chúng sinh nào theo đức Phật Thế tôn, nghe pháp tín thụ siêng tu tinh tiến, cầu Nhất thiết trí, Phật trí, Vô sƣ trí, cầu Tri kiến, Lực, Vô sở úy của Nhƣ lai, xót thƣơng làm cho vô lƣợng chúng sinh đƣợc an lạc, làm lợi ihcs cho Trời, Ngƣời, độ thoát hết thảy thì đó gọi là MaHaTat”. Nhƣ vậy, Đại thừa hiểu một cách giản đơn, trong sự đối lập với Tiểu thừa, là cỗ xe lớn chở đƣợc nhiều ngƣời đến đích giải thoát. Khái niệm Đại thừa còn đƣợc dùng để chỉ giáo pháp (Đại thừa giáo), tức pháp môn tu hành viên mãn lục độ để thành Phật; dƣới tên gọi Đại thừa tông dùng để chỉ tông phái, theo đó những tông cầu chứng ngộ thành La Hán thì gọi là Tiểu thừa tông, những tông cầu thành Phật (Bồ Tát) gọi là Đại thừa tông. Trong lời giới thiệu bộ sách của Kimura Taiken “Nguyên Thủy, Tiểu Thừa, Đại Thừa Phật giáo tƣ tƣởng luận”, dịch giả Hòa thƣợng Thích Quảng Độ viết rằng: “Phật pháp chỉ có một vị, đó là vị giải thoát. Nhƣng phƣơng 7 pháp để đạt đến giải thoát thì có rất nhiều, và phƣơng pháp nào – dù là Đại Thừa hay Tiểu Thừa cũng đều nhằm đạt đến mục đích nhất vị kể trên” [7, tr.8]. Khác với các phái Tiểu Thừa, đặc trƣng căn bản nhất của đạo Bồ Tát là sự nghiệp giải thoát cho bản thân và cho ngƣời khác (tự lợi, lợi tha). Đúng nhƣ nhận định của Kimura Taiken: “…nếu tự mình muốn đạt đến lý tƣởng giới thì tất phải đƣa ngƣời khác cũng đạt nhƣ mình; và đƣa ngƣời khác đạt đến lý tƣởng giới tức là chính mình đạt đến vậy. Đƣơng nhiên, nói một cách thực tế, trƣớc phải tự cứu mình rồi sau mới cứu ngƣời đƣợc, đó là lẽ thƣờng, thế nhƣng đứng về mặt thệ nguyện mà nói, thì thay vì, vì mình, trƣớc hết phải vì ngƣời: đó là tâm từ bi và hạnh từ bi của Bồ Tát” [7, tr.451]. Điều này làm chúng ta liên tƣởng đến tƣ tƣởng trung thứ đƣợc trình bày trong cuốn Luận ngữ của Khổng Tử (551-479 TCN), cho rằng “điều mình muốn thành đạt thì cũng nên giúp ngƣời khác thành đạt”. Tuy nhiên, quan điểm của Khổng Tử chỉ dùng lại ở chỗ “nên giúp ngƣời khác thành đạt” mà chƣa nói rõ đƣợc bằng cách nào, mức độ nào, trong khi đó đạo Bồ Tát cho rằng, mỗi cá nhân trên con đƣờng hoàn thiện bản thân, nếu chỉ hoàn thành cái nhỏ nhoi của riêng mình mà không hoàn thành cho kẻ khác thì sự hoàn thành đó chƣa thể gọi là trọn vẹn. Vì vậy, một tiêu ngữ rất nổi tiếng của đạo Bồ Tát xuất phát từ điều kiện tiên quyết để thực hiện lý tƣởng giải thoát mang tính tối hậu là phải cùng với tất cả chúng sinh cùng tiến tới giải thoát khỏi mọi phiền muộn, khổ đau, đó là: “Thƣợng cầu Bồ Đề, hạ hóa chúng sinh” (Trên cầu đạo giác ngộ, dƣới hóa độ chúng sinh). Theo Kimura Taiken, “Đạo Bồ Tát nếu muốn thực hiện lý tƣởng tối cao, tất phải cùng với chúng sinh cùng tiến, cho nên ở đây tất nhiên cần phải nói đến Tịnh Độ, hoặc Phật Độ, tức là lý tƣởng đó đã trở thành xã hội hóa” [7, tr.452]. Vậy Tịnh Độ là gì? 8 Tịnh độ (Buddha ksetra) nguyên chữ phạn là Phật độ, cõi Phật, cõi thanh tịnh. Trong truyền thống Đại thừa, ngƣời ta hiểu mỗi cõi Tịnh Độ thuộc về một vị Phật, và do có vô số chƣ Phật nên cũng có vô số Tịnh Độ. Tịnh Độ đƣợc nhắc đến nhiều nhất là cõi Cực Lạc (Sukha-Vati) của Phật ADiĐà (Amitàbha) nơi Tây phƣơng cự lạc. Tịnh Độ phía Đông là cõi Phật Dƣợc sƣ (Bhaisajyaguru-Buddha), có khi cõi đó gọi là Diệu hỷ quốc (Abhirati) của Phật Bất Động (Aksobhya), phía Nam là cõi Phật Bảo Sinh (Ratnasambhava), phía Bắc là cõi Phật Cổ Âm (Đunubhi svara) Đức Phật tƣơng lai DiLặc (Maitreya) là vị đang giáo háo ở cõi trời Đâu Suất (Tusita) sẽ tạo một Tịnh Độ mới. Tịnh Độ đƣợc xem là “hóa thân” của thế giới là cõi xứ mà ở đó ngƣời tu hành muốn đạt tới. Muốn đạt đƣợc cõi này hành giả không phải chỉ trau dồi thiện nghiệp, mà còn phải nguyện cầu các Đức Phật của các cõi đó để đƣợc cứu độ. Trong nhân gian, ngƣời ta thƣờng hiểu Tịnh Độ là một nơi, có vị trí địa lý nhất định, nhƣng thật ra Tịnh Độ là một dạng của tâm thức giác ngộ không bị nhiễm ô và các phƣơng hƣớng Đông – Tây – Nam – Bắc chỉ có tính chất hình tƣợng. Tịnh Độ không phải là mục đích cuối cùng trên con đƣờng tu tập – chỉ là nơi đƣợc xem là cõi cuối cùng mà hành giả phải đạt tới tái sinh để sau đó đạt tới đích giải thoát viên mãn là cõi Niết bàn. Đúng thế, cảnh giới Tịnh Độ không phải ở một nơi nào đó xa xôi mà ở tại trong tâm thức của mỗi chúng sinh. Nếu nhƣ chúng sinh xa lìa đƣợc vô minh phiền não, sáng suốt giác ngộ chân lý, và sống đúng chân lý thì chúng sinh mang tâm Phật, mà tâm Phật ở đâu thì quốc độ nơi đó tự trang nghiêm thanh tịnh. Kimura Taiken còn chia Tịnh Độ quan của Phật giáo thành ba loại, gồm Quán Chiếu Tịnh Độ; Tha phƣơng Tịnh Độ và Tịnh Độ trong tƣơng lai ở ngay cõi này. 9 Quán Chiếu Tịnh Độ là một phƣơng pháp dựa vào tâm thanh tịnh mà cải tạo hiện thực thành một loại Tịnh Độ. Theo Kimura Taiken, “nếu lấy dục làm tiêu chuẩn thì thế gian này là một cảnh giới bất mãn thƣờng xuyên, là một vũ đài của khổ não. Trái lại, nếu bỏ đƣợc lòng dục, dựa vào tâm thanh tịnh mà cải tạo thế giới, thì trong đó sẽ mở ra một thế giới khác, nếu có thể thì đó là sự triển khai một thế giới tốt đẹp. Trong Tịnh Độ quan của Phật giáo, cách tƣởng tƣợng đó gọi là Quán Chiếu Tịnh Độ” [7, tr.547-548]. Khi đề cập đến Tha phƣơng Tịnh Độ là ý muốn nói đến một điều là ngoài thế giới của cái đẹp đƣợc tâm thanh tịnh triển khai về mặt nghệ thuật, “chúng ta còn phải sống trong thế giới đạo đức, thế giới lợi hại, cho nên không thể nói tất cả đều cùng một duộc – có ngƣời lƣơng thiện, cũng có những kẻ sát nhân và trộm cƣớp, tất cả đều sống trong thế giới hiện thực… Đứng về mặt toàn thể mà nói, nếu chỉ có Quán Chiếu Tịnh Độ thì chƣa đủ; theo điểm này, đem quan niệm lợi hại đối chiếu với những sự xuất hiện xƣa nay thì quyết không phải ở thế giới này mà muốn sản sinh một loại thế giới hoàn toàn viên mãn sau khi chết: tức là lý tƣởng Tha Phƣơng Tịnh Độ” [7, tr. 449-450]. Hai Tịnh Độ quan nêu trên đều khẳng định ngƣời nào nhất tâm tín niệm Phật ADiĐà đều có thể cảm ứng đƣợc Cực Lạc Tĩnh Độ. Tuy nhiên, sự nhất tâm niệm Phật ADiĐà để đƣợc đến với Cực Lạc Tĩnh Độ mà “bỏ rơi” thế giới thực tại bởi quan niệm cho thế giới này là nhơ nhớp là điều bất cập. Chính vì vậy, đối với thế giới bên này, tại sao chúng ta không nỗ lực thƣờng xuyên cải tạo nó, thanh tịnh hóa nó, biến nó thành một nơi sạch sẽ trang nghiêm, hay nói cách khác, làm cho nó trở thành Tịnh Độ Tƣơng Lai trên cõi này? Ngƣời ta gọi loại Tịnh Độ này là Di Lặc Tịnh Độ. Kimura Taiken cho rằng, “nếu ngƣời đã chí nguyện kiến thiết Tịnh Độ Di Lặc thì cái thời gian luân hồi sinh tử vô cùng tự nó đã là giải thoát rồi, bởi thế nếu đi tìm cầu giải thoát sinh tử ở bên 10 ngoài thì không thể có đƣợc. Chúng ta do tạo nghiệp mà phải lƣu chuyển trong dòng sinh tử tuy đó là khổ, nhƣng chúng ta đã tự nguyện lăn lộn trong dòng sinh tử vô hạn để kiến thiết Tịnh Độ Di Lặc thì sinh tử tự nó biến thành hoạt dụng của đạo Bồ Tát” [7, tr. 554] Tuy nhiên, để đạt tới cảnh giới của các loại Tịnh Độ, ngƣời tu hành phải dùng phƣơng pháp nào? Trong các kinh Phật chúng ta thƣờng gặp luận điểm “Nhất thiết duy tâm tạo”, chứng tỏ mọi khổ đau hay an lạc đều do tâm quyết định. Cũng trên tinh thần này trong Kinh Duy Ma có nói: “Tuy kỳ tâm tịnh tắc Phật Độ tịnh” (Hễ tâm ngƣời thanh tịnh thì có cõi Phật thanh tịnh). Lại nói: “Cõi Phật của Đức Thích Ca vẫn trang nghiêm thanh tịnh không thua kém gì cõi nƣớc của chƣ Phật trong mƣời phƣơng, thế mà Ngài Xá Lợi Phất lại thấy không thanh tịnh chẳng trang nghiêm”. Điều đó cho thấy mƣời phƣơng quốc độ đều là Tịnh Độ, thế mà chúng ta có khác gì nhƣ ngƣời mù đứng dƣới nắng ban mai trƣớc cảnh trăm hoa nở mà không hề cảm nhận đƣợc một chút hƣơng vị nào. Tịnh Độ không chỉ là thế giới của ngƣời niệm Phật vãng sinh, mà còn là thế giới của mọi tông phái thuộc Đại thừa Phật giáo. Trong quá trình tu tập để thành tựu Pháp thân, Tịnh Độ là điều cần yếu cho mỗi hành giả Đại thừa. Do đó, sự vãng sinh về thế giới Cực Lạc Tịnh Độ của Phật ADiĐà là một phƣơng tiện tối cần thiết, không chỉ dành riêng cho ngƣời tu tông Tịnh Độ, mà còn là khuôn mẫu chung không thể thiếu của mỗi hành giả Đại thừa. Chính vì vậy mà “Tịnh Độ tƣ tƣởng tuy phổ biến rất rộng và rất mạnh, nhƣng nếu lại tiến đến lĩnh vực luân lý của đạo Bồ Tát thì không những có thể vãng sinh Tịnh Độ, mà tiến lên bậc nữa tự mình có thể thành Phạt, do đó có thể cấu tạo thành Tịnh Độ mới. Vì mỗi ngƣời đều có Phật tính, mỗi ngƣời đều có thể thành Phật để có khả năng tính cấu thành Tịnh Độ mà thực hiện Tịnh Độ” [7, tr. 452452]. 11 Con đƣờng thể nhập vào cảnh Tịnh Độ là con đƣờng hành giả của Đại thừa là con đƣờng của Đại Bồ Tát, tức là con đƣờng thực hiện sự thanh tịnh của toàn thể Pháp giới (chẳng hạn Tỳ khiêu Pháp Tạng đã phát nguyện trang nghiêm thanh tịnh cảnh giới Tịnh Độ trong lúc thực hành Bồ Tát đạo). Muốn thực hiện trọn vẹn con đƣờng đƣa hành giả thể nhập vào Tịnh Độ, thể nhập vào Pháp thân, thì niệm Phật Tam muội là pháp môn căn bản và có tính quyết định. Pháp môn niệm Phật vãng sinh là do Phật ADiĐà lập bởi ngài nguyện Đức Thích Ca Mâu Ni chỉ giáo và đƣợc lục phƣơng chƣ Phật tán dƣơng. Trong cuốn Đường về Cực Lạc có nói: “Nơi hội Hoa Nghiêm đức Phổ Hiền, trong hội Bát nhã Văn Thù, cùng vô lƣợng đại Bồ Tát đều có lời phát nguyện vãng sinh Cực Lạc: Mã Minh đại sỹ có lời khuyên tu niệm Phật trong luận Khởi Tín; Long Thọ Bồ Tát đƣợc Phật thọ ký vãng sinh nơi Pháp hội Lăng già, cùng vô số bậc Đại tổ Sƣ của các tông phái đại thừa. Chẳng những Liên tông mà cả Tịnh Độ, Hoa Nghiêm tông cho đến Duy thức tông Ngài Thiên Thân, Ngài Khuy Cơ…đều cực lực tán dƣơng và hoằng truyền môn Tịnh Độ” [25, tr.534]. Đây cũng là lý do tại sao chƣ đại Bồ Tát trong Pháp hội Hoa Nghiêm lại tán thán sự trang nghiêm của cảnh giới Cực Lạc, năng lực của Đức Phật ADiĐà và sự lợi ích của chúng sinh khi đƣợc vãng sinh là Tịnh Độ. Đức Thế Tôn muốn cho chúng sinh thoát khỏi thế giới Sa Bà (nhẫn nhục) để thể nhập vào đƣợc Pháp thân của chƣ Phật, tức cảnh Tịnh Độ. Tuy nhiên, Ngài khẳng định rằng, để thể nhập vào cảnh giới Cực Lạc của Phật ADiĐà thì phải đi theo con đƣờng Bồ Tát Đại thừa. Bởi vì con đƣờng vãng sinh về cảnh giới Tịnh Độ là con đƣờng dễ đi nhất, cho nên hành giả vào đƣợc con đƣờng này sẽ dễ dàng đi vào Pháp thân và có đủ năng lực trọn vẹn để đạt đến quả Phật. Do vậy mà trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Thế Tôn đã ân cần chỉ 12 ra pháp môn “Niệm Phật Tam muội” để hành giả nƣơng theo đó tiến tu và vững bƣớc trên lộ trình giải thoát. 1.1.2. Các phương pháp niệm Phật và pháp môn niệm Phật tam muội 1.1.2.1. Các phương pháp niệm Phật Theo Từ điển Phật học Hán Việt, thuật ngữ “Niệm Phật” có hai nghĩa chung và riêng. Về nghĩa chung có: 1. Xƣng danh niệm Phật: gọi tên Phật bằng lời nói; 2. Quán tƣởng niệm Phật: tĩnh tọa mà quán niệm công đức tốt đẹp của Phật; 3. Thực tƣớng niệm Phật: xét nghĩa lý thực tƣớng trung đạo để hiểu rằng, pháp thân của Phật là không có, mà cũng không phải là không... Về ý nghĩa riêng thì vì để quán tri về Phật mà phải lập riêng các lời nói niệm Phật. Ngƣời thời bấy giờ trong lúc quán Phật thu nhiếp cả hai thứ niệm Phật quán tƣởng và thực tƣớng. Do đó xƣng danh niệm Phật, gọi tắt là Niệm Phật, nhƣ sự đối xứng giữa Quán Phật Tam muội và và Niệm Phật Tam muội. Nay lời niệm Phật tuy thông đạt đến chƣ Phật, nhƣng các thuyết Đại thừa đều hạn chế ở Phật ADiĐà” [4, t.1, tr.1079]. Trì danh niệm Phật là phƣơng pháp niệm ra tiếng hay, niệm thầm bốn chữ “ADiĐà Phật” hoặc sáu chữ hồng danh “Nam mô ADiĐà Phật”. Trì bốn chữ “ADiĐà Phật” đƣợc điển lợi dễ nhất tâm, trì sáu chữ thì dễ phát khởi lòng thành kính cơ cảm và phƣơng pháp này đƣợc đề cập đến trong kinh ADiĐà mà Đức Thế Tôn đã dạy. Quán tƣởng niệm Phật: là chiếu theo Kinh Quán Vô lượng thọ để quán tƣởng y báo, chính báo nơi cõi Cực Lạc. Nếu quán tƣởng thành thục thì bất cứ lúc nào hành giả cũng thấy mình nhƣ đƣợc sống trong thế giới Cực Lạc, kinh hành dạo chơi cùng với các vị đại Bồ Tát, đƣợc nghe các loại chim sáo hót lên lời kệ du dƣơng, lại đƣợc học hỏi chính pháp Đại thừa cùng các vị “Nhất sinh bổ xứ” Công đức khó hành trì đối với ngƣời căn cơ thấp kém. 13 Thực tƣớng niệm Phật là nhập vào “Đệ nhất nghĩa tâm”, là niệm tính Phật bản lai của chính mình. Đây là quán Pháp thân thực tƣớng của Phật, kết quả sẽ chứng đƣợc chân nhƣ tam muội. Phƣơng pháp này thuộc về Thiền, nhƣng cảnh giới do tâm Thiền hiển lộ lại là Tịnh Độ nên thuộc về Pháp môn niệm Phật. Ngoài ra còn thêm một phƣơng pháp niệm Phật là quán tƣợng niệm Phật, tức là phƣơng pháp chăm chú nhìn vào bức tranh hay một pho tƣợng Phật ADiĐà bày trƣớc mặt, quan sát vẻ đẹp trang nghiêm của Phật từng chi tiết, cho đến khi không có ảnh, tƣợng của Phật trƣớc mình mà lúc nào cũng thấy Phật với đẩy đủ đức tƣớng trang nghiêm. Quá trình từ quán tƣợng niệm Phật đến “nhất tâm bất loạn” đạt tới mức độ hành giả có thể cảm thông đƣợc với Phật, và hình tƣớng giả của Phật biến thành thực tƣớng Phật chói sáng rạng ngời trong tâm thức hành giả. Theo kinh Hoa Nghiêm thì năng lực và vật chất, hay tâm và vật chỉ là một, tƣợng Phật là cảnh đƣợc quán niệm bởi tâm, khi đã hiểu rõ lý nhất như rồi thì sự cảm thông giữa hình tƣợng giả bên ngoài biến thành thực tƣớng trong tâm là sự kiện đƣơng nhiên xảy ra. Xét bốn phƣơng pháp niệm Phật này chúng ta thấy “Thực tƣớng niệm Phật” thuộc về “Lý”, ba môn còn lại thuộc về “Sự”. Về “sự”, do công phu niệm Phật ADiĐà tới nhất tâm bất loạn, hành giả chắc chắn sẽ đƣợc dứt nghiệp vãng sinh. Về “lý” thì cho rằng, thế giới Cực Lạc ở ngay trong tâm mình, chỉ cần “Kiến tính” là thành Phật. Nghe qua ta thấy 2 điểm khác nhau nhƣng thật ra chỉ là hai lối diễn đạt để chỉ một cái đích chung là giác ngộ giải thoát. Ngài Phổ Hiền đã dạy trong kinh Như Lai bất tư nghị cảnh giới nhƣ sau: “Nếu ai cầu vô thƣợng Bồ Đề, mà chuyên tu một Pháp môn thời thành tựu cả”. Bởi vậy hành giả muốn thành công nơi Pháp môn niệm Phật, nhập vào “Niệm Phật tam muội” thì “Lập chí cầu thành Phật và chuyên cầu tu niệm Phật”. 14 Theo Từ điển Phật học Hán Việt thì Niệm Phật Tam muội hay “phép tam muội niệm Phật có hai thứ: 1. Nhất tâm quán tƣởng tƣớng mạo trang nghiêm vi diệu của Phật hoặc nhất tâm quán tƣởng thực tƣớng pháp thân (cả hai đều thuộc loại Quán tƣởng niệm Phật), hoặc nhất tâm xƣng danh hiệu Phật (tức thuộc loại xƣng danh Niệm Phật) mà tu hành gọi là Niệm Phật tam muội, là phép Niệm Phật tam muội về nhân hành; 2. Do 3 thứ nhân hạnh nói trên sẽ thành đạt đƣợc những sự nhƣ: tâm nhập thiền định, hoặc thấy Phật thân hiện ra trƣớc mắt mình, hoặc chứng đắc pháp thân thực tƣớng, v.v. gọi là phép niệm Phật tam muội, là phép niệm Phật tam muội về quả thành. Phép niệm Phật tam muội về nhân hành gọi là “tu”, phép niệm Phật tam muội về quả thành gọi là “phát đắc” [4, t.1, tr.1080]. Trên cơ sở niệm Phật theo luật nhân quả (nhân hành và quả thành), niệm Phật tam muội đƣợc qui về bốn môn tam muội là Ban chu tam muội, Nhất hạnh tam muội, Pháp Hoa tam muội và Tùy tự ý tam muội. 1.1.2.2. Bốn môn tam muội Ngƣời niệm Phật khi đi đến chỗ tuyệt đỉnh tận cùng duy có một dinh thể là niệm phật tam muội. Đây là cảnh hƣ linh sáng lặng, vọng giác tiêu tan, hành giả tuy còn trụ tâm nơi tƣớng hảo hoặc hồng danh của Phật. Nhƣng tuy nói trụ mà thật ra vô trụ, vì tâm thanh sắc tƣớng đƣơng thể nhƣ huyễn, chính đó là không. Tƣớng tam muội ấy nhƣ thế nào? Khi hành giả chuyên nhất niệm Phật quên hết thân tâm ngoại cảnh, tuyệt cả thời gian, không gian, đến lúc sức cục công thuần, ngày nơi đƣơng niệm trần vọng bỗng thoạt tiêu tan, tâm thể bừng sáng chứng vào cảnh giới “vô niệm vô bất niệm”. Cảnh ấy nhƣ hƣ không, mây tan, trời xanh một vẻ, niệm mà không niệm, không niệm mà niệm, không thấy biết mới là sự thấy biết chân thật, có thấy biết tức lạc theo trần cảnh. Đến đây thì nƣớc bạc non xanh đều là chân đế, suối đế, suối reo, 15 chim hót, tâm quang bao hàm muôn tƣợng mà không trụ một pháp, tịch mà chiếu, chiếu mà tịch, đều còn đều mất, tuyệt đối viên dung. Cảnh giới tam muội đại để là nhƣ thế, khó mà tả nên lời, duy chứng mới thể nghiệm đƣợc. Niệm Phật tam muội vẫn là một thể, nhƣng đi vào cảnh định ấy ngƣời xƣa đã căn cứ theo kinh, y nơi ý nghĩa và oai nghi hành trì mà chia làm bốn môn nhƣ sau: Thứ nhất: Ban chu tam muội. Ban chu có nghĩa là “Phật lập” hành trì môn tâm muội này có 3 oai lực phù trợ; oai lực của Phật, oai lực của Pháp tam muội và oai lực công đức của ngƣời tu. Khi thành công trong tam muội hành giả thấy đức ADiĐà và chƣ Phật mƣời phƣơng hiện ra đứng trƣớc mình khuyến tấn khen ngợi. Thứ hai: Nhất hạnh tam muội, nghĩa là chuyên nhất về một hạnh. Khi tu môn tam muội này, hành giả thƣờng ngồi và chỉ chuyên nhất quán tƣởng, hoặc niệm danh hiệu Đức ADiĐà. Lại tuy chỉ tu một hạnh mà đƣợc dung thông tròn đủ tất cả các hạnh, cho nên “Nhất hạnh” cũng là “Viên hạnh”. Thứ ba: Pháp Hoa tam muội. Đây là một trong mƣời sáu tam muội mà kinh Pháp hoa phẩm Diệu Âm Bồ tát đã trần thuật. Theo ý chỉ của thiên thai tông thì ba đế viên dung là “Pháp”, quyền thực không hai là “hoa”. Ví nhƣ hoa sen khi cánh hoa (quyền) chƣa nở, mà gƣơng sen (thực) đã thành, gƣơng với cánh đồng thời, nơi một đóa hoa gồm đủ ý nghĩa quyền và thực. Nói theo tông Tịnh Độ thì tức niệm Phật, tức sắc là tâm, một câu niệm Phật bao gồm cả ba đế, nhiếp cả thật quyền. Nếu tỏ ngộ lý này niệm Phật gọi là tu hạnh Pháp hoa tam muội. Khi tu môn tam muội này hành giả dùng hai oai nghi ngồi và đi mà thay đổi để quán Phật hoặc niệm Phật cho đến khi nào chứng nhận chánh định. Pháp nghi tu tập này lại có phần dễ hơn nhất hạnh tam muội. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan