Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật việt nam về thủ tục tố tụng của trọng tài thương mại...

Tài liệu Pháp luật việt nam về thủ tục tố tụng của trọng tài thương mại

.PDF
111
468
132

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THANH MINH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2011. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THANH MINH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Như Phát Viện Nhà nước và Pháp luật Hà nội – 2011 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Ý nghĩa của đề tài Trọng tài thương mại là cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án thuận lợi cho các bên, đặc biệt là các bên tham gia các hoạt động thương mại, đầu tư. Trong giao dịch dân sự thường ngày, nhất là giao dịch kinh tế thương mại, việc phát sinh tranh chấp là không thể tránh khỏi; và giải quyết nhanh chóng, hiệu quả, công bằng các tranh chấp này sẽ góp phần thúc đẩy các hoạt động kinh tế, thương mại, đầu tư; tạo sự yên tâm cho các bên ngay từ khi mới hình thành quan hệ và cả khi có phát sinh tranh chấp. Tuy nhiên trên thực tế, trọng tài tại Việt Nam rất ít được sử dụng để giải quyết các tranh chấp đầu tư và thương mại; các hợp đồng với các bên nước ngoài nhất là hợp đồng có trị giá lớn hầu như không lựa chọn trọng tài tại Việt Nam để giải quyết tranh chấp. Các tranh chấp ở Việt nam hiện vẫn chủ yếu được giải quyết thông qua hệ thống toà án hoặc trọng tài nước ngoài. Nguyên nhân xuất phát từ việc hệ thống quy định hiện hành về trọng tài thương mại vẫn còn những bất cập, làm cho hệ thống trọng tài chưa trở thành phương thức hấp dẫn và hiệu quả để các bên lựa chọn giải quyết các tranh chấp liên quan. Một trong những bất cập đó là thủ tục tố tụng trọng tài còn chưa phù hợp với thực tiễn giải quyết tranh chấp, đặc biệt với các tranh chấp quốc tế và hình thức trọng tài vụ việc. Chính vì vậy đã làm cho các bên e dè trong việc sử dụng trọng tài để giải quyết tranh chấp; trọng tài chưa phải là phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả và tin cậy so với toà án. Ngược lại, có khi lại gặp nhiều rủi ro, tốn kém và có thể kéo dài hơn so với Tòa án. Do đó, thủ tục tố tụng trọng tài nhanh chóng, hiệu quả, tiết kiệm chi phí là hết sức cần thiết. Xuất phát từ lý do này, tác giả đã chọn vấn đề: “Pháp luật Việt Nam về thủ tục tố tụng của trọng tài thương mại” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện đã có một số công trình nghiên cứu các vấn đề về trọng tài thương mại 3 với tư cách là bài bình luận, bài báo hoặc luận văn như: Về thẩm quyền của trọng tài thương mại và những lưu ý trong hoạt động thụ lý các tranh chấp có thỏa thuận trọng tài; Pháp luật trọng tài ở Việt Nam: Quá trình phát triển và vấn đề đặt ra; Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại v.v…Tuy nhiên chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và thỏa đáng về thủ tục tố tụng về trọng tài thương mại. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, Luật trọng tài thương mại đã được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ 7 ngày 17 tháng 6 năm 2010 thay thế cho Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 bị đánh giá là còn nhiều điểm chưa hợp lý, chưa hấp dẫn các doanh nghiệp tìm đến con đường giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, một phương thức tỏ ra có ưu thế hơn hẳn Tòa án được thừa nhận ở hầu hết các nước trên thế giới. Trong đó, thủ tục tố tụng trọng tài là một trong những vấn đề cần phải bàn tới nhiều nhất. Do vậy, tác giả đã mạnh dạn nghiên cứu về vấn đề này, đồng thời so sánh với pháp luật của một số nước trên thế giới để làm sáng tỏ sự khác biệt của tố tụng trọng tài so với tố tụng Tòa án và các ưu điểm nổi bật của tố tụng trọng tài. Tuy nhiên cho đến thời điểm Luận văn này được hoàn thành thì Luật Trọng tài mới có hiệu lực được một thời gian ngắn. Do đó, phần thực trạng sẽ chỉ chủ yếu trình bày tình hình thực tế quá trình thi hành Pháp lệnh Trọng tài trước đây. Để từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá và so sánh với những điểm mới trong Luật Trọng tài để có phương hướng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng trọng tài tại Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn: Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là đưa đến cho người đọc một cái nhìn khái quát về bản chất của trọng tài và để giải thích tại sao tố tụng trọng tài lại khác biệt so với tố tụng Tòa án. Phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục tố tụng trọng tài và so sánh với những quy định của pháp luật một số nước về vấn đề này. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thủ tục tố tụng trọng tài thương mại. Với mục đích như trên nhiệm vụ của đề tài là: (i) Nghiên cứu cơ sở lý luận về bản chất của trọng tài thương mại và thủ tục tố tụng trọng tài thương mại. 4 (ii) Phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục tố tụng trọng tài thương mại. (iii) Đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thủ tục tố tụng trọng tài thương mại; giúp cho phương thức này phát huy đúng những ưu việt của nó. 4. Phương pháp tiếp cận đề tài: Để triển khai những nội dung cơ bản của luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp như: (i) Phương pháp phân tích, tổng hợp được dùng để khái quát, đánh giá và đưa ra nhận xét về các vấn đề pháp lý có liên quan đến thủ tục tố trọng tài thương mại, sự khác nhau cơ bản giữa tố tụng trọng tài và tố tụng Tòa án; (ii) Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được dùng để mô tả về quá trình phát triển của các vấn đề về trọng tài và thủ tục tố tụng trọng tài tại Việt Nam; (iii) Phương pháp so sánh được sử dụng để đối chiếu với pháp luật trọng tài của một số nước trên thế giới, tìm ra điểm chung và điểm riêng của pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nước trong lĩnh vực này. 5. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, bản luận văn gồm 3 chương với kết cấu như sau: Chương 1. Những vấn đề lý luận về trọng tài thương mại và thủ tục tố tụng của trọng tài thương mại. Chương 2. Các quy định pháp luật Việt Nam về thủ tục tố tụng của trọng tài thương mại. Chương 3. Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thủ tục tố tụng của trọng tài thương mại. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ THỦ TỤC TỐ TỤNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 1.1 KHÁI QUÁT VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI Hiện nay, trong khoa học pháp lý có nhiều cách định nghĩa về trọng tài do các cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên có hai cách tiếp cận phổ biến nhất: (i) trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp và (ii) trọng tài là cơ quan giải quyết tranh chấp. Dưới góc độ là một phương thức giải quyết tranh chấp, theo đại từ điển kinh tế thị trường, trọng tài được hiểu là phương pháp giải quyết hòa bình các vụ tranh chấp. Ở đó, chỉ đôi bên đương sự tự nguyện đem những sự việc, những vấn đề tranh chấp giao cho người thứ ba có tư cách công bằng, chính trực xét xử, lời phán quyết do người này đưa ra có hiệu lực ràng buộc với cả hai bên. Hoặc theo Hội đồng trọng tài Mỹ AAA (American Arbitration Association), trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một hoặc một số người khách quan xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải thi hành. Ở Việt Nam, trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật trọng tài thương mại. Dưới góc độ là cơ quan giải quyết tranh chấp, trọng tài bao gồm những cá nhân được các bên lựa chọn để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các vụ việc dân sự của họ [22, tr.348] hay là một cơ quan trung gian được các bên đương sự giao tranh chấp cho để xét xử [24]. Dù được tiếp cận dưới góc độ nào, xét về mặt bản chất, trọng tài nói chung và trọng tài thương mại nói riêng là một phương thức giải quyết tranh chấp do các bên tự thỏa thuận lập ra nhằm giải quyết dứt điểm các vụ tranh chấp. Nói cách khác, trọng tài là cơ quan xét xử mang tính chất “tư” do các bên đương sự thỏa thuận lựa chọn để giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại của chính họ. 6 Có thể nói rằng trọng tài thương mại là hình thức giải quyết tranh chấp thương mại hiện đại nhất trong các hình thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án vì nó đã kết hợp được cả hai yếu tố: thoả thuận và tài phán. Yếu tố thỏa thuận giúp Trọng tài mang dáng dấp của việc giải quyết tranh chấp bằng tự thương lượng, hòa giải và yếu tố tài phán lại giúp trọng tài mang dáng dấp của việc giải quyết tranh chấp bằng Tòa án. Tuy nhiên xuất phát từ bản chất vốn có, so với Toà án và hòa giải, Trọng tài vẫn có những đặc trưng riêng khác hẳn. Trọng tài và Hòa giải Điểm giống nhau ở hai phương thức này là đều có sự thỏa thuận việc tham gia của bên trung gian thứ ba. Trong đó, các bên đương sự sẽ thỏa thuận chọn một (một số) người thứ ba trung gian, có nghĩa vụ trung lập tạo điều kiện giúp đỡ các bên tranh chấp đạt được một giải pháp để khắc phục mâu thuẫn, bất đồng đã phát sinh. Điểm khác nhau cơ bản là ở chỗ, trong quá trình dàn xếp hòa giải bất cứ bên nào cũng có quyền đơn phương tuyên bố chấm dứt hòa giải hoặc tước bỏ vai trò của hòa giải viên và hòa giải viên không có quyền hạn gì để ra quyết định ràng buộc đối với các bên. Hòa giải viên, bằng nỗ lực của mình một cách độc lập, vô tư và khách quan đưa ra đề xuất hoặc những khuyến nghị để giúp cuộc hòa giải đạt được mục đích. Các đề xuất và khuyến nghị này không có giá trị bắt buộc mà chỉ có tính chất tham khảo đối với các bên. Trong khi đó, trọng tài viên được các bên lựa chọn có quyền xét xử và ra các quyết định xét xử một cách hoàn toàn độc lập trên cơ sở những chứng cứ, tài liệu mà các bên cung cấp hoặc có được thông qua việc tự điều tra, xem xét của trọng tài viên hoặc do giám định viên, nhân chứng cung cấp trên cơ sở pháp luật. Các quyết định của trọng tài nếu được ban hành phù hợp với các điều kiện theo luật định sẽ có hiệu lực pháp luật, các bên có nghĩa vụ thi hành và không có quyền kháng cáo [16, tr.13-15]. Trọng tài và Tòa án Một là, trọng tài không có thẩm quyền đương nhiên mà xuất phát từ sự thỏa thuận của các chủ thể tranh chấp đối với trọng tài. Nếu muốn một tranh chấp được đưa ra trọng tài giải quyết thì các bên tranh chấp phải có thỏa thuận lựa chọn trọng 7 tài giải quyết vào thời điểm trước hoặc kể cả sau khi tranh chấp xảy ra. Nếu không có thỏa thuận trọng tài hoặc có nhưng thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì trọng tài cũng không có thẩm quyền giải quyết. Với việc lựa chọn trọng tài giải quyết các bên tranh chấp đã trao quyền lực xét xử cho trọng tài. Do đó việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài không nhân danh quyền lực tư pháp của nhà nước như Tòa án mà Trọng tài nhân danh ý chí tối cao của các bên đương sự. Hai là, xét về mặt hình thức, khác với Tòa án là cơ quan tài phán nhà nước, do nhà nước thành lập và trao quyền thay mặt nhà nước xét xử, giải quyết tranh chấp bất đồng giữa các cá nhân tổ chức trong xã hội thì Trọng tài là một tổ chức xã hội nghề nghiệp do các trọng tài viên tự thành lập để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Trọng tài không phải là một cơ quan nhà nước và cũng không hoạt động bằng ngân sách nhà nước như Tòa án. Các trọng tài viên cũng không phải là viên chức nhà nước, không do nhà nước bổ nhiệm và không được hưởng lương từ ngân sách nhà nước như các Thẩm phán. Ba là, khi xét xử trọng tài không nhân danh Nhà nước để ra các phán quyết nên các phán quyết trọng tài không mang tính quyền lực nhà nước. Hay nói cách khác phán quyết trọng tài không có tính cưỡng chế thi hành như bản án của Tòa. Các phán quyết trọng tài sẽ do các đương sự tự nguyện thi hành hoặc phải nhờ đến sự hỗ trợ của cơ quan nhà nước để cưỡng chế thi hành. Trong khi đó quyết định, bản án của Tòa án được đưa ra nhân danh quyền lực nhà nước, bảo đảm thi hành bởi sức mạnh cưỡng chế của nhà nước, không những đương sự mà các bên có liên quan đều có nghĩa vụ thi hành. Nếu không sẽ có một loạt các biện pháp cưỡng chế do cơ quan thi hành án đảm nhiệm trên cơ sở pháp luật về thi hành án. Bốn là, nếu như giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài các bên được quyền lựa chọn và chỉ định trọng tài viên thì trong giải quyết tranh chấp bằng Tòa án, các bên tham gia tố tụng không có quyền lựa chọn thẩm phán. Hơn nữa, khi khởi kiện ra Tòa án, việc xác định Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ kiện cho mình không hoàn toàn dựa vào ý chí của các bên đương sự nghĩa là các bên đương sự không có quyền tự do lựa chọn Tòa án xét xử vì Tòa án có thẩm quyền xét xử theo vụ việc và lãnh thổ do pháp luật quy định. Chỉ có một số ít trường hợp cụ thể được pháp luật quy định thẩm quyền Tòa án có thể được xác định theo sự lựa chọn của nguyên đơn. Còn nếu vụ việc được thỏa thuận giải quyết bằng trọng tài thì các bên lại hoàn toàn 8 có quyền lựa chọn cơ quan Trọng tài mà không phụ thuộc vào nơi đặt trụ sở hoặc nơi cư trú của các bên. Qua những điểm khác biệt trên, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng, Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp độc lập bên cạnh Tòa án. Về hình thức trọng tài, trọng tài ở các nước nói chung và ở Việt Nam nói riêng được tổ chức dưới các dạng khác nhau với các tên gọi khác nhau nhưng chủ yếu tồn tại dưới hai loại hình là: (i) Trọng tài vụ việc và (ii) Trọng tài thường trực. Trọng tài vụ việc được thành lập cho từng vụ tranh chấp với các trọng tài được lựa chọn một lần để giải quyết tranh chấp cụ thể và hội đồng trọng tài này sẽ tự giải thể khi tranh chấp đã được giải quyết. Nói cách khác, trọng tài vụ việc là trọng tài tự tiến hành (do it yourself arbitration). Trọng tài vụ việc là loại hình trọng tài chỉ có tính chất lâm thời, không có trụ sở và bộ máy cố định. Tính chất của Trọng tài vụ việc là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các bên đương sự, do vậy Trọng tài vụ việc có một số đặc điểm sau: Một là, các bên có quyền lựa chọn Trọng tài viên không bị giới hạn vào một danh sách trọng tài có sẵn như ở hình thức Trọng tài thường trực. Trọng tài viên có thể là bất cứ ai mà các bên tín nhiệm. “Thông thường đó là các luật gia, luật sư, giáo sư các trường đại học, các thương gia có uy tín, chuyên gia hàng đầu trong nhiều lĩnh vực như ngoại thương, đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, xây dựng, công nghệ thông tin, sở hữu công nghiệp...,.” [20, tr.134]. Họ là những người vừa có kiến thức về pháp lí lại vừa có kinh nghiệm trong hoạt động thương mại. Hai là, các bên cũng có toàn quyền trong việc xác lập quy chế tố tụng như cách thiết lập Hội đồng trọng tài và thủ tục giải quyết thích hợp với từng vụ tranh chấp. Các bên sẽ tự tổ chức Hội đồng trọng tài, tự thỏa thuận quá trình tố tụng. Hoạt động trọng tài không lệ thuộc vào bất cứ quy tắc xét xử nào miễn là bảo đảm được nguyên tắc xét xử khách quan, vô tư và đúng pháp luật. Nhưng, trên thực tế, đây là một quá trình tốn thời gian nhằm thảo ra những quy định đặc biệt dành riêng cho trọng tài vụ việc. Thông thường hình thức này được áp dụng với trọng tài thương mại quốc tế, phù hợp với những trường hợp mà thiệt hại lớn, đặc biệt trong những vụ việc có liên quan tới chủ thể là một quốc gia 9 hay một tổ chức quốc gia có liên quan và các vấn đề thuộc chính sách và quyền lực công có thể phát sinh. Thông qua trọng tài vụ việc, có thể tạo ra thủ tục về tố tụng có lợi cho cả hai bên, mà vẫn đạt được những yêu cầu đặt ra trong những vụ việc nhạy cảm có liên quan đến một bên chủ thể là quốc gia [1, tr.58-59]. Trước khi pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 ra đời, ở Việt Nam, Trọng tài vụ việc chỉ được thừa nhận để giải quyết các tranh chấp quốc tế. Điều này được quy định trong nhiều văn bản pháp lý khác nhau như: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật hàng không dân dụng, Pháp lệnh chuyển giao công nghệ…Pháp lệnh trọng tài 2003 lần đầu tiên quy định tương đối cụ thể về Trọng tài vụ việc, cho phép Trọng tài vụ việc giải quyết tất cả các tranh chấp phát sinh kể cả tranh chấp quốc tế và trong nước miễn là các bên đương sự thỏa thuận lựa chọn. Pháp lệnh quy định về việc chọn trọng tài viên để thành lập Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng, việc hủy quyết định trọng tài, việc thi hành quyết định của Trọng tài vụ việc tương tự như Trọng tài thường trực. Hiện nay, Luật Trọng tài được ban hành trên cơ sở kế thừa những quy định của Pháp lệnh Trọng tài và bổ sung thêm một số quy định mới về Trọng tài vụ việc như việc đăng ký phán quyết Trọng tài vụ việc. Những quy định này là cơ sở vững chắc để Trọng tài vụ việc hoạt động song song với Trọng tài thường trực và Tòa án. Trọng tài thường trực là trung tâm trọng tài có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có trụ sở cố định, có danh sách trọng tài viên và hoạt động theo điều lệ riêng, được thành lập để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Trên thế giới Trọng tài thường trực tồn tại dưới nhiều tên gọi và hình thức khác nhau như: Các Trung tâm trọng tài (Trung tâm Trọng tài Quốc tế Singapo (SIAC), Trung tâm Trọng tài Thương mại Quốc tế của Australia, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Hồng Kông…), các Hiệp hội trọng tài (Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ (AAA), Hiệp hội Trọng tài Thương mại Nhật Bản) hay các Viện trọng tài (Viện Trọng tài Stockhom của Thụy Điển, Viện Trọng tài Singapo, Viện trọng tài Luân Đôn). Các tổ chức này tồn tại độc lập, không nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước và hoạt động một cách thường xuyên, sẵn sàng giải quyết các tranh chấp khi các đương sự yêu cầu. Tuy nhiên cũng có một số ngoại lệ tồn tại trong pháp luật trọng tài ở một số nước Châu Á như Trung Quốc và Thái Lan. Ở Trung Quốc, các Ủy ban 10 Trọng tài Hợp đồng Kinh tế là cơ quan nhà nước thuộc Cục Quản lý Hành chính Công thương các cấp. Ở Thái Lan, Viện trọng tài trực thuộc Bộ Tư pháp, có quy tắc tố tụng riêng nhằm hỗ trợ, phát triển các hoạt động hòa giải và Trọng tài [6, tr.12]. Như vậy, sự khác biệt giữa trọng tài vụ việc và trọng tài thường trực giống như sự khác biệt giữa một chiếc áo do thợ may riêng và những chiếc áo được may đại trà [1, tr. 58-59]. “Lợi thế lớn nhất của Trọng tài thường trực so với trọng tài vụ việc là có sẵn các bộ quy tắc tố tụng trọng tài và các bên đương sự chỉ cần thỏa thuận áp dụng các bộ quy tắc đó là đủ mà không cần mất công tạo lập ra các bộ quy tắc mới” [16]. Các bộ quy tắc này thường xuyên được các Trung tâm trọng tài nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với nhu cầu của các khách hàng. Điều này rất thuận lợi cho các nhà doanh nghiệp mới bước vào nghề đã phát sinh các tranh chấp cần giải quyết, nếu họ không muốn có điều gì bất lợi cho mình thì họ sẽ chọn trọng tài thường trực với bộ quy tắc có sẵn. Hơn nữa các trung tâm trọng tài lại có một bộ máy thường trực hoạt động thường xuyên nên sẽ hỗ trợ các bên rất hiệu quả trong quá trình tố tụng như: chọn trọng tài viên, thông tin liên lạc, phiên dịch viên trong các vụ tranh chấp quốc tế, giám sát tố tụng khi một bên vắng mặt, ấn định và giám sát thời hạn ban hành phán quyết. Một số trung tâm trọng tài còn cung cấp phòng xét xử, phòng cho các trọng tài viên, thư ký và các dịch vụ khác. Ở Việt Nam, Trọng tài thường trực là hình thức được pháp luật ghi nhận trước. Ngay từ năm 1963, trọng tài thường trực đã ra đời. Đó là Hội đồng trọng tài ngoại thương được tổ chức theo NĐ 59/CP ngày 30/04/1963 và Hội đồng trọng tài hàng hải được tổ chức theo NĐ 153 ngày 05/10/1964 của Hội đồng chính phủ. Đến năm 1993, theo Quyết định 204/QĐ-TTg ngày 28/04/1993 của thủ tướng chính phủ, cho phép thành lập Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở hợp nhất Hội đồng Trọng tài Ngoại thương và Hội đồng Trọng tài Hàng hải. Đồng thời với việc ban hành nghị định 116/NĐ-CP ngày 05/09/1994 về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế cũng cho ra đời các trung tâm trọng tài là những tổ chức trọng tài thường trực. Các Trung tâm trọng tài kinh tế đã mang dáng dấp của một tổ chức phi chính phủ, có Điều lệ và con dấu nhưng vẫn chưa có tư cách pháp nhân. Điều lệ của các Trung tâm trọng tài kinh tế cần được sự chuẩn y của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các trọng tài 11 viên trong danh sách trọng tài viên phải do Hội đồng xét chọn trọng tài viên do Bộ Tư pháp thành lập, xét duyệt và được Bộ trưởng Bộ tư pháp công nhận và cấp thẻ Trọng tài viên có thời hạn 02 năm. Đến Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, trọng tài thương mại được chính thức thừa nhận là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, danh sách trọng tài viên do Tổ chức trọng tài tự lựa chọn. Quy định này tiếp tục được ghi nhận trong Luật trọng tài thương mại số 54/2010/QH12 có hiệu lực ngày 01/01/2011. Tóm lại, với những lợi thế của mình trong việc giải quyết tranh chấp, Trọng tài ngày càng được áp dụng ở nhiều nước, nhất là những nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì trọng tài hầu như là lựa chọn tối ưu nhất khi các bên không thể thương lượng và hòa giải được. Còn ở Việt Nam vì nhiều lí do khác nhau mà Trọng tài vẫn chưa phải là hình thức giải quyết tranh chấp mà các nhà kinh doanh ưa chuộng như “các quy định pháp luật chưa phù hợp, tâm lý xã hội chưa quen với các tổ chức giải quyết tranh chấp ngoài Nhà nước và ngay cả hoạt động của các trọng tài vẫn còn nhiều điểm chưa thuyết phục” [5] trong đó có những quy định về tố tụng trọng tài tỏ ra chưa phù hợp với thực tiễn. Với sự phát triển kinh tế thị trường ngày càng đi vào chiều sâu thì chắc chắn hình thức trọng tài thương mại sẽ được ưa chuộng và phát triển. 1.2 KHÁI QUÁT VỀ TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI Tố tụng trọng tài thương mại được hiểu là trình tự, thủ tục khởi kiện và thành lập Hội đồng trọng tài để giải quyết các vụ tranh chấp về thương mại; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Hội đồng trọng tài; quyền và nghĩa vụ của các đương sự nhằm bảo đảm cho việc giải quyết các tranh chấp thương mại được nhanh chóng và chính xác. Xuất phát từ tính chất của trọng tài là tổ chức phi chính phủ được hình thành trên cơ sở sáng kiến và tự nguyện tham gia của các trọng tài viên, theo quy định của pháp luật, hoặc trên cơ sở sự lựa chọn của các bên đương sự. Trong tố tụng trọng tài không tồn tại quy tắc tố tụng thống nhất, áp dụng chung cho tất cả các loại hình trọng tài và các loại tranh chấp. Những gì là phù hợp cho một vụ việc về mua bán hàng hóa, hoặc giải thích một điều khoản đối với hợp đồng thuê tàu do các bên thỏa thuận trên cơ sở thực tế, sẽ không phù hợp cho một tranh chấp dự án cơ sở hạ tầng 12 phức tạp mà phải cần rất nhiều năm để lập kế hoạch, cấp vốn, xây dựng và vận hành. Hơn nữa những vụ việc khẩn cấp cũng cần được giải quyết một cách khẩn cấp, hay nói cách khác là “xử nhanh” [2, tr.122]. Do đó, quy tắc tố tụng trọng tài sẽ được các tổ chức trọng tài quy định tùy theo điều lệ của mình hoặc do các bên đương sự thỏa thuận xây dựng, áp dụng. Tuy nhiên, quy tắc tố tụng chính là khung pháp lý mà Hội đồng trọng tài xét xử vụ tranh chấp và các bên đương sự phải tuân theo. Nếu làm trái các quy định trong quy tắc tố tụng sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý hết sức phức tạp. Phán quyết của Hội đồng trọng tài có thể bị Tòa án tuyên hủy hoặc không được công nhận và cho thi hành. Do đó hầu hết các nước đều chú trọng việc xây dựng Quy tắc tố tụng của trọng tài, đảm bảo cho việc giải quyết bằng trọng tài được thuận tiện, nhanh chóng, hấp dẫn, có khả năng thu hút các doanh nghiệp, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên được tôn trọng. Như đã phân tích ở trên, Trọng tài mang yếu tố thỏa thuận nhưng đây lại là hình thức giải quyết tranh chấp tài phán thông qua một thủ tục tố tụng chặt chẽ theo quy định của pháp luật trọng tài và Quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài. Cụ thể: Thứ nhất là thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Theo quy định của pháp luật trọng tài Việt Nam (Điều 2 và 5 Luật Trọng tài), trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nếu (i) tranh chấp đó phát sinh từ hoạt động thương mại hoặc ít nhất một bên có hoạt động thương mại và (ii) giữa các bên có thỏa thuận về việc đưa vụ tranh chấp ra Trọng tài giải quyết. Tức là thẩm quyền của trọng tài được xác định dựa trên hai yếu tố là tranh chấp có phát sinh từ hoạt động thương mại hay không và trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên đã có thỏa thuận trọng tài chưa. Hiện nay, hoạt động thương mại được định nghĩa rõ ràng nhất trong Luật Thương mại 2005, Khoản 1 Điều 3 “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.” Nghĩa là tất cả các tranh chấp phát sinh trong các hoạt động kể trên hoặc một trong các bên tranh chấp có thực hiện các hoạt động trên mới được yêu cầu trọng tài giải quyết. 13 Tuy nhiên về vấn đề này, pháp luật các nước cũng có những quy định khác nhau. Thông thường có hai xu hướng, một là tương tự như Việt Nam, trọng tài chỉ được giải quyết các tranh chấp thuộc hoạt động thương mại, hai là ngoài lĩnh vực thương mại, trọng tài được giải quyết cả các tranh chấp thuộc lĩnh vực dân sự nói chung. Với xu hướng thứ nhất, đạo luật về trọng tài thường sẽ gắn với chữ “thương mại” tương tự như Việt Nam và Luật mẫu về trọng tài thương mại kinh tế của Ủy ban Liên Hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế thông qua ngày 21/06/1985 (sau đây viết tắt là “Luật mẫu UNCITRAL 1985”). Ngược lại, xu hướng thứ hai, đạo luật về trọng tài sẽ không có chữ “thương mai” như Trung Quốc, Singapore, Thái-lan, Hoa Kỳ, Anh…) hoặc quyển luật trong các bộ luật tố tụng dân sự (Đức, Nhật, Pháp) với tên gọi là Luật trọng tài, không phân biệt tranh chấp dân sự và thương mại [10]. Ví dụ: Điều 2 và Điều 3 Luật Trọng tài Trung Quốc quy định: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng và các tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu và lợi ích phát sinh giữa các chủ thể dân sự có địa vị pháp lý ngang nhau, như giữa các công dân, pháp nhân hoặc tổ chức khác có thể được giải quyết bằng trọng tài trừ các tranh chấp sau: (i) tranh chấp liên quan đến hôn nhân, nhận con nuôi, giám hộ và thừa kế; và (ii) các tranh chấp hành chính được giải quyết bởi cơ quan có thẩm quyền về hành chính theo quy định của pháp luật”. Đối với yêu cầu bắt buộc về sự tồn tại của thỏa thuận trọng tài đều được tìm thấy trong hầu hết pháp luật các nước. Đây trở thành một nguyên tắc cơ bản trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài “không có thỏa thuận trọng tài thì không có việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài” [8, tr.60]. Chẳng hạn Điều 4, Luật Trọng tài Trung Quốc: “Phương thức trọng tài được áp dụng để giải quyết tranh chấp phải dựa trên ký kết thỏa thuận trọng tài được ký kết một cách tự nguyện giữa các bên. Nếu một bên đưa vụ kiện ra trọng tài mà không có thỏa thuận trọng tài, hội đồng trọng tài sẽ không thụ lý vụ kiện”. Thứ hai là nguyên tắc giải quyết tranh chấp. Hội đồng trọng tài được thành lập sẽ giải quyết vụ tranh chấp theo các nguyên tắc cơ bản như: các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư, phải căn cứ vào pháp luật và tôn trọng thỏa thuận các bên, xét xử một lần, giải quyết tranh chấp được tiến hành 14 không công khai. Các nguyên tắc này được quy định cụ thể trong hầu hết luật trọng tài của các nước trên thế giới. Điều 18 Luật mẫu UNCITRAL quy định: “Các bên phải được đối xử trên một cơ sở bình đẳng và mỗi bên đều phải có khả năng đòi được hưởng quyền của mình”. Điều 40 Luật Trọng tài Trung Quốc có quy định: “Trọng tài sẽ mở phiên xét xử kín. Nếu các bên đồng ý, Hội đồng Trọng tài sẽ mở phiên xét xử công khai trừ trường hợp liên quan đến an ninh quốc gia”… Nếu trong quá trình tố tụng, một trong những nguyên tắc trên bị vi phạm hoặc không được đảm bảo thì trọng tài viên vi phạm có thể bị yêu cầu thay thế hoặc phán quyết của Hội đồng trọng tài có thể sẽ bị hủy. “Bất kỳ Trọng tài viên nào cũng có thể bị bãi miễn nếu có các vấn đề gây nên sự nghi ngờ về tính vô tư và độc lập của người đó” (Điều 10 Bản Quy tắc trọng tài UNCITRAL áp dụng với Trọng tài vụ việc được UNCITRAL thông qua ngày 28/04/1976 và Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 15/12/1976 (“Quy tắc Trọng tài UNCITRAL 1976”). Phán quyết trọng tài có thể bị hủy nếu “một bên không được thông báo một cách hợp thức về việc chỉ định một trọng tài viên hoặc về tiến trình tố tụng trọng tài, hoặc vì một lý do khác mà họ không thể phát huy được các quyền của mình” (Điểm a Khoản 2 Điều 34 Luật mẫu UNCITRAL 1985) hoặc “trọng tài viên trong quá trình giải quyết tranh chấp đã yêu cầu hoặc nhận hối lộ, thể hiện sự thiên vị, có hành vi gian lận hoặc lập phán quyết trái với luật” (Khoản 6 Điều 58 Luật trọng tài Trung Quốc). Chính vì vậy giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có thể bảo đảm bí mật và uy tín của các đương sự đồng thời làm cho quá trình giải quyết tranh chấp được nhanh gọn, dứt điểm, bảo đảm quyền tự định đoạt của các bên. Thứ ba là thủ tục tố tụng. Đối với Trọng tài thường trực, mỗi trung tâm trọng tài đều có riêng một bản quy tắc tố tụng trên cơ sở quy định của pháp luật nhưng đều rất linh hoạt, mềm dẻo, có khả năng đáp ứng tốt các đòi hỏi của các nhà kinh doanh trong việc giải quyết tranh chấp. Đối với Trọng tài vụ việc, các bên có hoàn toàn tự do trong việc quy định thủ tục tố tụng. Thông thường với hình thức này, các bên có thể lựa chọn một bộ quy tắc tố tụng có sẵn của một trong các Trung tâm trọng tài lớn, có uy tín hoặc tham khảo Quy tắc Trọng tài UNCITRAL 1976 để quy định một bộ quy tắc riêng áp 15 dụng đối với tranh chấp của mình. Ở Việt Nam về thủ tục thi hành phán quyết của trọng tài theo quy định của Luật Trọng tài thì phán quyết của trọng tài thường trực trong nước có giá trị tương đương với bản án, quyết định của Tòa án. Những phán quyết này không cần thông qua thủ tục công nhận của Tòa án mà có thể bị cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành ngay theo yêu cầu của bên được thi hành trong trường hợp hết thời hạn mà một bên không tự nguyện thi hành. Riêng đối với phán quyết của Trọng tài vụ việc sẽ được yêu cầu thi hành sau khi đã tiến hành đăng ký tại Tòa án có thẩm quyền (Điều 66 Luật Trọng tài). Quy định này giúp cho thủ tục tố tụng trọng tài đơn giản và hiệu quả hơn rất nhiều. Tóm lại, với những lợi thế của mình trong việc giải quyết tranh chấp, Trọng tài ngày càng được áp dụng ở nhiều nước, nhất là những nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì trọng tài hầu như là lựa chọn tối ưu nhất khi các bên không thể thương lượng và hòa giải được. Còn ở Việt Nam vì nhiều lí do khác nhau mà Trọng tài vẫn chưa phải là hình thức giải quyết tranh chấp mà các nhà kinh doanh ưa chuộng như “các quy định pháp luật chưa phù hợp, tâm lý xã hội chưa quen với các tổ chức giải quyết tranh chấp ngoài Nhà nước và ngay cả hoạt động của các trọng tài vẫn còn nhiều điểm chưa thuyết phục” [5]. Với sự phát triển kinh tế thị trường ngày càng đi vào chiều sâu thì chắc chắn hình thức trọng tài thương mại sẽ được ưa chuộng và phát triển. 16 Chương 2 CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, thủ tục tố tụng trọng tài được tính bắt đầu từ khi Trung tâm trọng tài hoặc bị đơn nhận được đơn kiện của nguyên đơn và kết thúc khi phán quyết của trọng tài được ban hành và có hiệu lực thi hành. Ở Việt Nam, văn bản mới nhất quy định về thủ tục tố tụng trọng tài thương mại là Luật Trọng tài Thương mại số 54/2010/QH12 ngày 17/06/2010 (“Luật Trọng tài”). Trước khi Luật Trọng tài có hiệu lực (01/01/2011), quy định tố tụng trọng tài được quy định trong Pháp lệnh trọng tài thương mại số 08/2003/PLUBTVQH11 ngày 25 tháng 02 năm 2003 (“Pháp lệnh Trọng tài”) và Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP ngày 31 tháng 7 năm 2003 hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại. Có thể nói so với thủ tục tố tụng tại Toà án thì thủ tục tố tụng trọng tài thương mại ở Việt Nam còn rất mới mẻ đối với các doanh nghiệp và người dân. 2.1 CÁC NGUYÊN TẮC TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI Nguyên tắc trong tố tụng trọng tài là những tư tưởng có giá trị chỉ đạo và chi phối toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài nhằm đảm bảo việc giải quyết tranh chấp chính xác, nhanh chóng, đúng pháp luật, phù hợp với sự thật khách quan để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp. 2.1.1 Nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận và quyền tự định đoạt của các bên. Tranh chấp thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài phát sinh từ những quan hệ xã hội được thiết lập trên cơ sở bình đẳng, thỏa thuận giữa các bên tham gia. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong tố tụng trọng tài. Nguyên tắc này được thể hiện qua nhiều nội dung khác nhau. Thứ nhất là trọng tài chỉ có thể giải quyết tranh chấp khi các bên có thỏa thuận về Trọng tài. Trước đây theo Pháp lệnh Trọng tài, nội dung này được thể hiện là một nguyên tắc trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài (Điều 3 Pháp lệnh 17 Trọng tài) nhưng trong Luật Trọng tài, nó đã được ghi nhận là điều kiện tiên quyết để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Như vậy, trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử nếu giữa các bên tồn tại một thỏa thuận chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp. Nếu có thỏa thuận trọng tài nhưng thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý thì Trọng tài cũng không có thẩm quyền. Thứ hai là sự thỏa thuận của các bên được tôn trọng tối đa. Trong tố tụng trọng tài, các bên có quyền quyết định hoặc thay đổi thủ tục theo mong muốn và yêu cầu của mình trong giới hạn pháp luật cho phép. Các bên có quyền quyết định luật áp dụng cho nội dung và luật áp dụng cho thủ tục trọng tài. Các bên cũng tự do xác định hình thức trọng tài, địa điểm giải quyết tranh chấp, ngôn ngữ trong xét xử trọng tài, thời hạn thực hiện các thủ tục cần thiết cho việc giải quyết tranh chấp, thời gian mở phiên họp giải quyết tranh chấp… Thông thường, hội đồng trọng tài sẽ phải tính đến mong muốn và nguyện vọng của các bên khi tiến hành tố tụng. Vì nếu thủ tục tố tụng trọng tài được tiến hành không phù hợp với thỏa thuận của các bên thì phán quyết cuối cùng đưa ra sẽ có khả năng bị hủy. Nguyên tắc này phù hợp với bản chất của phương thức giải quyết bằng trọng tài cũng như mong muốn của các bên khi lựa chọn trọng tài. 2.1.2 Nguyên tắc Trọng tài viên độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật Để giải quyết tranh chấp một cách công bằng các trọng tài viên phải độc lập, khách quan và vô tư đối với cả hai bên tranh chấp. Vì điều đó có thể ảnh hưởng đến tính đúng đắn, chính xác và khả năng thi hành của phán quyết trọng tài. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, giống như các thẩm phán, các trọng tài viên chỉ căn cứ theo pháp luật. Không ai có quyền can thiệp vào hoạt động của trọng tài viên. Luật Trọng tài đã có những quy định để quá trình tố tụng trọng tài sẽ đảm bảo được nguyên tắc này. Đó là trong trường hợp được chọn hoặc chỉ định, các trọng tài viên vẫn buộc phải từ chối giải quyết tranh chấp nếu họ là người thân thích hoặc là người đại diện của một bên, người có lợi ích liên quan trong vụ tranh chấp, hòa giải viên, người đại diện, luật sư của bất cứ bên nào trước khi đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại trọng tài, trừ trường hợp được các bên chấp thuận bằng văn bản; 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan