Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật Việt Nam và các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển...

Tài liệu Pháp luật Việt Nam và các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển

.PDF
90
494
131

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN Chuyên ngành : Luật quốc tế Mã số : 60 38 60 Luận văn thạc sĩ luật học Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Đức Long HÀ NỘI - 2012 2 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU Chương 1: 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP 6 LUẬT VIỆT NAM VÀ CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN 1.1. Khái niệm môi trường biển, ô nhiễm môi trường biển và bảo vệ môi trường biển 6 1.2. Nguồn gây ô nhiễm môi trường biển 10 1.3. Các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển 15 1.4. Pháp luật bảo vệ môi trường biển một số nước trên thế giới 19 Chương 2: 27 THỰC TIỄN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN VÀ VIỆC THAM GIA, THỰC HIỆN CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN Ở VIỆT NAM 2.1. Các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường biển 27 2.1.1. Luật pháp về các vùng biển Việt Nam 27 2.1.2. Luật pháp Việt Nam về bảo vệ môi trường biển 29 2.1.2.1. Hệ thống chính sách bảo vệ môi trường 30 2.1.2.2. Các quy định về bảo vệ môi trường biển trong Luật Bảo vệ môi trường 2005 và các luật khác có liên quan 32 Quy định của một số Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường 40 2.2. 3 2.2.1. Công ước Luật biển 1982 40 2.2.2. Công ước Marpol 73/78 về ngăn ngừa ô nhiễm biển do dầu gây ra 44 2.2.3. Công ước về sẵn sàng ứng phó và hợp tác chống ô nhiễm dầu năm 1990 (OPRC) 45 2.2.4. Công ước về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới chất thải nguy hại và việc tiêu hủy chúng (Basel 1989) 46 2.3. Quá trình Việt Nam gia nhập các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển 48 2.3.1. Các Công ước Việt Nam đã gia nhập, ký kết 48 2.3.2. Các Công ước Việt Nam đang xem xét để tham gia 49 2.4. Thực trạng thực thi pháp luật và các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam 50 2.4.1. Tình hình thực thi các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường biển và nguyên nhân của thực trạng 43 2.4.2. Tình hình thực hiện các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam và nguyên nhân 55 Chương 3: 64 MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN VIỆT NAM VÀ VỀ VIỆC VIỆT NAM TIẾP TỤC THAM GIA CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường biển và một số kiến nghị 64 3.2. Tăng cường gia nhập các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển 69 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Khi nói đến tiềm năng của biển, người Việt Nam có câu " Rừng vàng biển bạc". Đúng thế! Biển không chỉ giàu có mà còn rất đẹp. Tài nguyên của biển vô cùng đa dạng và phong phú, đó là kho chứa hóa chất vô tận trong nước, dưới đáy biển, trong lòng đất; nước biển chứa một kho muối, nước… khổng lồ; biển còn là nguồn năng lượng sạch có thể khai thác như gió, nước, nhiệt độ, các dòng hải lưu… Là một đất nước có hơn 3260 km bờ biển, với một vị trí địa lý thuận lợi nên Việt Nam được coi là quốc gia có tiềm năng lớn để phát triển kinh tế biển như hàng hải, du lịch, dịch vụ, công nghiệp đóng tàu, khai thác hải sản, dầu khí… Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ra "Nghị quyết về Chiến lược biển đến năm 2020" là "Phấn đấu đưa kinh tế biển đóng góp khoảng 53% - 55% GDP và 55% - 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước" [27]. Những tiêu chí trên thể hiện rõ tầm quan trọng của biển Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Thế nhưng dưới sức ép của phát triển kinh tế, của sự gia tăng dân số… nên biển đang bị suy thoái và ô nhiễm nghiêm trọng từ những hoạt động ngày càng gia tăng của con người. Theo thống kê, mỗi ngày có hàng nghìn tấn rác từ các hoạt động khai thác, nuôi trồng thủy sản, du lịch, công nghiệp, nước thải sinh hoạt…đổ trực tiếp ra biển không qua xử lý, sự cố tràn dầu…đang khiến môi trường nước biển bị ô nhiễm nặng, khiến cho các nguồn thủy sản đang cạn kiệt dần, nhiều loài hải sản đã được đưa vào sách đỏ, các hệ san hô, hệ động thực vật biển và nguồn lợi hải sản, dầu khí đang có xu hướng giảm dần về trữ lượng, sản lượng, thiếu nước ngọt, xói lở, sa bồi bờ biển với mức độ ngày càng trầm trọng, nhiều bãi biển đẹp đang mất dần… Môi trường biển Việt Nam đang kêu cứu! Đến một lúc nào đó khi biển quá tải vì ô nhiễm môi trường nó sẽ quay lại hủy hoại chính chúng ta. 5 Nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường biển là do chúng ta chỉ chú trọng phát triển kinh tế biển mà chưa có sự quan tâm, hành động và đầu tư đúng mức đối với công tác bảo vệ môi trường biển, không chỉ là do kinh tế còn kém phát triển, lạc hậu, ý thức của người dân còn thấp, sự thiếu hiểu biết pháp luật về biển nhất là pháp luật bảo vệ môi trường biển của những người tham gia hoạt động khai thác sử dụng, quản lý biển… mà điều quan trọng nhất là các chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường biển của Việt Nam còn chưa đầy đủ, chưa cụ thể và thiếu thực tế, gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện. Vấn đề bảo vệ môi trường, nhất là môi trường biển không chỉ là vấn đề của riêng Việt Nam hay của riêng bất kỳ một quốc gia nào mà môi trường là vấn đề có tính liên ngành, liên vùng và toàn cầu. Môi trường biển mỗi nước đều chịu tác động bởi môi trường toàn cầu và môi trường xuyên biên giới với các quốc gia láng giềng. Vì vậy, để giải quyết vấn đề môi trường biển cần có sự hợp tác, chung tay góp sức của cả thế giới. Tuy nhiên, việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường biển cũng như việc tham gia ký kết và thực thi các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển của chúng ta còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa thực sự được quan tâm thích đáng. Chúng ta chưa có một hành lang pháp lý hoàn chỉnh để răn đe, giáo dục, xử phạt, xét xử các tội phạm về môi trường một cách nghiêm minh, triệt để và để thu hút nhiều hơn nữa sự đầu tư, hợp tác, giúp đỡ về công nghệ môi trường từ các nước phát triển cũng như chưa tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế cho hoạt động nghiên cứu giám sát quản lý về ô nhiễm biển, cùng bảo vệ môi trường biển… Xuất phát từ những trăn trở của cá nhân tác giả khi môi trường, đặc biệt là môi trường biển đang ngày càng bị hủy hoại nghiêm trọng, xuất phát từ nhận thức muốn phát triển bền vững nhất thiết phải gìn giữ, bảo vệ tốt môi trường, trong đó có môi trường biển, đây là vấn đề sống còn và cấp bách vì môi trường ảnh hưởng lâu dài, sâu sắc đến đời sống, sản xuất, sự phát triển tồn tại của từng quốc gia, dân tộc. Vì thế, tác giả cũng muốn góp tiếng nói nhỏ bé của mình vào tiếng chuông cảnh tỉnh chung về bảo vệ môi trường 6 biển. Hơn nữa, bản thân tác giả cũng đang hoạt động trong ngành tư pháp nên hiểu rõ pháp luật là một công cụ quan trọng, hiệu quả nhất trong việc bảo vệ môi trường và gắn bó pháp luật quốc gia với luật quốc tế để có được sức mạnh tập thể càng quan trọng hơn. Với mong muốn làm sáng tỏ các quy định của pháp luật Việt Nam cũng như luật quốc tế về vấn đề bảo vệ môi trường biển để từ đó có cái nhìn sâu sắc hơn về các quy định của pháp luật quốc gia cũng như quốc tế về vấn đề bảo vệ môi trường. Đồng thời, tìm ra những điểm thiếu sót, bất cập, còn hạn chế của pháp luật, có những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật quốc gia cho phù hợp với luật pháp quốc tế. Qua đó, góp phần bảo vệ môi trường biển nói riêng và môi trường nói chung, bởi bảo vệ cho môi trường chính là bảo vệ cho tương lai. Vì những lý do đó, tác giả quyết định chọn đề tài: "Pháp luật Việt Nam và các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển" làm đề tài luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Công ước quốc tế hay vấn đề bảo vệ môi trường biển là những vấn đề không mới. Thực tế đã có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu, khóa luận, luận văn… đề cập đến vấn đề này như cuốn sách Bảo vệ môi trường biển Việt Nam- Vấn đề và giải pháp của tiến sĩ Nguyễn Hồng Thao năm 2004; khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Hồng Ly năm 2009 về Pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường biển trong hoạt động dầu khí; bài viết "Ô nhiễm môi trường biển và vấn đề thực thi các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển tại Việt Nam", của Đỗ Văn Sen trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật năm 2008…Tuy nhiên, những bài viết, khóa luận chỉ đề cập đến một số khía cạnh về việc thực hiện các điều ước quốc tế hay đề cập đến vấn đề bảo vệ môi trường biển ở một số lĩnh vực, chủ yếu là ô nhiễm do dầu. Riêng cuốn sách của TS. Nguyễn Hồng Thao đã phân tích khá đầy đủ, toàn diện về vấn đề bảo vệ môi trường biển Việt Nam cũng như đưa ra giải pháp để cải thiện và bảo vệ môi trường biển. Trong đó, cuốn sách cũng dành một phần riêng để phân tích về vấn đề Việt Nam và các công ước quốc tế về môi trường biển. 7 Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đã đóng góp một phần vào việc bảo vệ môi trường biển, tạo ưu thế cho sự phát triển của các ngành kinh tế biển. Tuy vậy, do giới hạn của từng công trình, chúng đã không đề cập hoặc có đề cập đến vấn đề pháp luật Việt Nam và các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển nhưng ít nghiên cứu chuyên sâu về mặt khoa học pháp lý. Có thể khẳng định đây là công trình đầu tiên đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện và có hệ thống các vấn đề lí luận và thực tiễn về pháp luật Việt Nam và các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển với cấp độ luận án thạc sĩ luật học. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài Luận văn xác định mục đích, nhiệm vụ chính là: - Tìm hiểu và làm sáng tỏ các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường biển, tình hình tham gia và thực hiện các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam. - Tìm ra những điểm bất cập và hạn chế trong quy định của pháp luật trong nước cũng như các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển. - Làm nổi bật các nguyên nhân dẫn đến tình trạng pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường và việc thực thi kém hiệu quả các công ước quốc tế, đặc biệt là các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển. - Đưa ra được những giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia; định hướng cho vấn đề kí kết, đàm phán, gia nhập, thực thi các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã, đang và sẽ tham gia. 4. Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài Luận văn có đối tượng nghiên cứu như sau: - Luận văn tập trung nghiên cứu và phân tích các quy định của pháp luật trong nước và các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển mà Việt Nam đã tham gia để từ đó tìm ra những điểm còn bất cập, hạn chế và đưa ra giải pháp hoàn thiện. 8 - Nghiên cứu các quy định trong một số công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển mà Việt Nam đang xem xét để tham gia để từ đó đưa ra các định hướng và đề xuất cụ thể. - Nghiên cứu thực tiễn thực thi pháp luật và các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển tại Việt Nam, đưa ra kết luận và tìm ra giải pháp thực thi có hiệu quả. - Nghiên cứu pháp luật về bảo vệ môi trường biển và thực tiễn tham gia các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển ở một số nước để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam… 5. Phƣơng pháp tiếp cận vấn đề - Về phương pháp luận: Luận văn vận dụng cách tiếp cận truyền thống để nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật lịch sử; chủ nghĩa duy vật biện chứng, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. - Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê số liệu… 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về pháp luật Việt Nam và các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển Chương 2: Thực tiễn pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường biển và việc tham gia, thực hiện các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường biển 9 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN 1.1. KHÁI NIỆM MÔI TRƢỜNG BIỂN, Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG BIỂN VÀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN Hiện nay, vấn đề bảo vệ môi trường đang là một trong những vấn đề lớn và cấp bách mà thế giới cần phải giải quyết. Trong số các thành phần của môi trường, biển chiếm tới 3/4 bề mặt trái đất, vì thế môi trường biển và bảo vệ môi trường biển đóng một vai trò rất quan trọng. Môi trường biển được định nghĩa trên nhiều phương diện khác nhau, nếu xét về phương diện phạm vi địa lý môi trường biển là toàn bộ vùng nước biển của trái đất với tất cả những gì có trong đó. Theo Điều 1, khoản 4 Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, môi trường biển được hiểu bao gồm các tài nguyên sinh vật, các hệ sinh thái biển và chất lượng nước biển, cảnh quan biển. Như vậy, môi trường biển không chỉ bao gồm các vùng biển với các đặc trưng lý hóa của chúng mà còn bao gồm cả các nguồn tài nguyên sinh vật, tài nguyên không sinh vật của vùng cửa sông, các vùng ngập mặn bao gồm cả trầm tích, các vùng thủy triều lên xuống, các vùng đầm lầy và bầu khí quyển phía trên mặt biển. Bất kỳ một sự suy thoái nào hay phát triển không kiểm soát đều ảnh hưởng xấu đến môi trường biển. Tại chương 17 trong Chương trình hành động 21 định nghĩa: "Môi trường biển là vùng bao gồm các đại dương và các biển và các vùng ven biển tạo thành một tổng thể, một thành phần cơ bản của hệ thống duy trì cuộc sống toàn cầu và là tài sản hữu ích tạo cơ hội cho sự phát triển bền vững" [41]. Định nghĩa này nhấn mạnh mối liên kết giữa môi trường và con người đối với sự phát triển, nghĩa là môi trường tự nhiên của biển cả chịu sự tác động của các hoạt động của con người trong quá trình phát triển. 10 Pháp luật Việt Nam không có một định nghĩa riêng về từng thành phần của môi trường mà Luật bảo vệ môi trường năm 2005 chỉ đưa ra định nghĩa: "Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật" [62]. Các yếu tố vật chất tạo thành môi trường là đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái và các hình thái vật chất khác. Như vậy, môi trường biển được xem xét trong một tổng thể môi trường chung. Do đó, cũng không có khái niệm thế nào là ô nhiễm môi trường biển, ta chỉ có thể hiểu và suy diễn từ khái niệm ô nhiễm môi trường mà Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đã đưa ra: "Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật" [62]. Sự biến đổi các thành phần môi trường có thể do các hoạt động của con người và thiên nhiên mà chủ yếu là do các hoạt động có ý thức và vô ý thức của con người gây hại cho môi trường. Cụ thể hơn, đó là việc làm thay đổi một cách trực tiếp hoặc gián tiếp các tính chất vật lý (bao gồm cơ, nhiệt, âm, quang, điện tử, phóng xạ…), hóa học, sinh học của bất kỳ thành phần nào của môi trường dẫn đến sự nguy hại hoặc có khả năng nguy hại đến sức khỏe, đến sự an toàn hoặc sự hưng thịnh của bất kỳ giống loài sinh vật nào, trong đó quan trọng nhất là con người. Căn cứ vào định nghĩa ô nhiễm môi trường của Luật bảo vệ môi trường thì, ô nhiễm môi trường biển là sự biến đổi trạng thái lý- hóa- sinh học của môi trường biển khi thải vào môi trường biển những chất độc hại, vi phạm tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu tới con người và sinh vật. Định nghĩa trên không chỉ rõ được các tác nhân cũng như thành phần tài nguyên và môi trường bị tổn hại, không thể hiện hết được tính đặc thù của môi trường biển. Bởi sự tác động của các tác nhân gây ô nhiễm môi trường đối với môi trường nước biển, không khí hay đất liền là khác nhau; mức độ gây suy thoái đến môi trường cũng khác nhau. 11 Trong các văn bản chuyên ngành như Bộ luật Hàng hải 2005, Luật Thủy sản 2003, Luật Dầu khí năm 1993 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu khí năm 2000, 2008…cũng không đưa ra định nghĩa cụ thể về ô nhiễm môi trường biển. Rõ ràng Việt Nam đang rất cần có một nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này, cần có một định nghĩa cụ thể và thống nhất về vấn đề ô nhiễm môi trường biển. Về nguyên tắc, tất cả các quy định trong các văn bản chuyên ngành đều phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường và các điều khoản của các Điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường mà Việt Nam đã tham gia hoặc ký kết. Tuy nhiên, trong khi Việt Nam chưa có một văn bản pháp quy nào định nghĩa cụ thể về môi trường biển và ô nhiễm môi trường biển thì việc Việt Nam tham gia Công ước 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển là một đảm bảo pháp lý cho việc sử dụng định nghĩa của Công ước này về ô nhiễm môi trường biển, các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển, tạo cơ sở để thực thi và đưa ra một định nghĩa đặc thù cho môi trường biển Việt Nam. Công ước Luật biển 1982 đã đưa ra một khái niệm khá toàn diện về ô nhiễm môi trường biển. Ô nhiễm môi trường biển là: Việc con người trực tiếp hoặc gián tiếp đưa các chất liệu hoặc năng lượng vào môi trường biển, bao gồm cả các cửa sông, khi việc đó gây ra hoặc có thể gây ra những tác hại như gây nguy hiểm cho sức khỏe con người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển, kể cả việc đánh bắt hải sản và các việc sử dụng biển một cách hợp pháp khác, làm biến đổi chất lượng nước biển về phương tiện sử dụng nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển [36, Điều 1]. Theo Công ước Luật biển 1982, hành vi gây ô nhiễm môi trường biển là những hoạt động của con người gây hậu quả xấu cho môi trường. Định nghĩa này không đề cập đến các sự cố, tai biến thiên nhiên, sự ô nhiễm tự sinh, mà chỉ đề cập đến các sự cố môi trường do con người gây ra. Do đó, cần bổ sung 12 nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường biển từ tự nhiên để có một khái niệm hoàn chỉnh về ô nhiễm môi trường biển dưới góc độ khoa học và luật học. Theo tác giả, nên định nghĩa: Ô nhiễm môi trường biển việc con người trực tiếp hoặc gián tiếp đưa các chất liệu hoặc năng lượng vào môi trường biển, bao gồm từ các cửa sông, đất liền, trên không trung, đáy biển hoặc do những biến đổi bất thường của tự nhiên, từ đó gây ra hoặc có thể gây ra những tác hại như gây nguy hiểm cho sức khỏe con người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển, kể cả việc đánh bắt hải sản và các việc sử dụng biển một cách hợp pháp khác, làm biến đổi chất lượng nước biển về phương tiện sử dụng nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển. Xuất phát từ chức năng của môi trường biển đối với cuộc sống con người là đảm bảo điều kiện sống cho con người; cung cấp tài nguyên; đảm bảo các lợi ích cho sinh hoạt con người như du lịch, thể thao, nghỉ ngơi, giao thông; là nơi hấp thụ, đồng hóa các chất thải có nguồn gốc từ đất liền. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ thì nhận thức của con người đã thay đổi, con người hiểu ra rằng tài nguyên biển không phải là vô tận và biển không phải là bãi rác. Do đó, bảo vệ môi trường biển khỏi ô nhiễm đang trở thành một nhiệm vụ bức thiết. Dựa trên quan điểm bảo vệ và phát triển bền vững môi trường, bảo vệ môi trường biển là ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực của các hoạt động của con người và của tự nhiên đến môi trường biển, làm ô nhiễm và suy thoái môi trường biển. Theo Luật bảo vệ môi trường 2005: Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học [62, Điều 3]. 13 Ô nhiễm môi trường biển cũng như các loại ô nhiễm môi trường khác cần phải được kiểm soát. Kiểm soát ô nhiễm môi trường biển là sự tổng hợp tất cả các biện pháp về thể chế, chính sách, luật, kỹ thuật, công nghệ, tuyên truyền, giáo dục…nhằm ngăn ngừa, khống chế không cho ô nhiễm môi trường biển xảy ra, cũng như chủ động xử lý, đối phó làm giảm thiểu hậu quả khi ô nhiễm xảy ra, tiến đến phục hồi và nâng cao chất lượng môi trường biển. 1.2. NGUỒN GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG BIỂN Theo Công ước Luật biển 1982, ô nhiễm môi trường biển bao gồm 6 nguồn chính sau: - Ô nhiễm bắt nguồn từ đất liền kể cả các ô nhiễm xuất phát từ các dòng sông, ngòi, cửa sông, ống dẫn và các thiết bị thải đổ công nghiệp. - Ô nhiễm do các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài phán quốc gia ven biển, hay xuất phát từ các đảo nhân tạo, các công trình thiết bị thuộc quyền tài phán của họ. - Ô nhiễm do các hoạt động trong vùng (tức vùng đáy biển di sản chung của loài người) lan truyền tới. - Ô nhiễm do sự nhấn chìm và trút bỏ chất thải. - Ô nhiễm do hoạt động của các loại tàu thuyền và tai nạn tàu thuyền trên biển. - Ô nhiễm có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu khí quyển. Các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển luôn gắn liền với các lĩnh vực hoạt động của con người. Việc xác định nguồn gây ô nhiễm môi trường biển là cần thiết trong quá trình đấu tranh và bảo vệ môi trường biển. Tuy nhiên, mỗi nguồn gây ô nhiễm môi trường biển nêu trên lại có mức độ ảnh hưởng khác nhau đến môi trường biển. Đánh giá, phân loại nguồn gây ô nhiễm môi trường biển sẽ giúp bảo vệ môi trường biển hiệu quả hơn, tốt hơn. 14 * Ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền Đất liền là nơi con người thực hiện phần lớn các hoạt động của mình. Tuy nhiên, biển cả lại là bãi rác khổng lồ do thói quen xấu của con người gây nên. Có thể nói, ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền là nguồn ô nhiễm biển lớn nhất. Các chất thải công nghiệp, nông nghiệp, nước và rác thải sinh hoạt, các chất thải từ các hoạt động du lịch, nuôi trồng thủy sản, hoạt động phá rừng…đều gây ô nhiễm nghiêm trọng đối với môi trường biển. Các chất thải này đi theo các dòng sông, cửa sông, ống dẫn và các thiết bị thải ra biển. Tỷ lệ nguồn ô nhiễm biển xuất phát từ đất liền chiếm tỉ lệ lớn nhất so với các nguồn ô nhiễm khác. Tại Việt Nam, ô nhiễm dẫn đến sự cạn kiệt các tài nguyên cá, nhất là những loài cá ven bờ; tính đa dạng sinh học ngày càng bị đe dọa do phá hủy môi trường sống như rừng ngập mặn, rặng san hô; axít hóa đất do phát quang rừng ven biển trên các vùng đất phèn để làm nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản; ô nhiễm do nước thải đô thị không qua xử lý; sử dụng tràn lan và không kiểm soát hóa chất trong nông nghiệp và công nghiệp…Thêm vào đó, thiên tai như bão, lũ và xâm nhập mặn cũng tác động lớn tới môi trường biển và có xu hướng trầm trọng thêm bởi các hoạt động của con người. Các số liệu thống kê cho thấy, khoảng 70% ô nhiễm biển và đại dương có nguồn gốc từ đất liền, xuất phát từ những chất xả thải của các thành phố, thị xã, thị trấn, từ các ngành công nghiệp, xây dựng, y tế, hóa chất... Trong đó, đáng kể nhất và nguy hại nhất là chất thải từ các nhà máy thông qua hệ thống thoát nước xả thẳng ra biển và đại dương, trong đó có cả một lượng lớn các chất bồi lắng, hóa chất, kim loại, nhựa, cặn dầu và thậm chí cả các chất phóng xạ. "Tổng nguồn thải từ lục địa đưa ra vùng biển ven bờ mỗi năm ước tính đến 3 triệu tấn COD; 1,83 triệu tấn BOI); 1,11 triệu tấn N-T; 300 nghìn tấn P-T; 270 triệu tấn TSS; 1,6 triệu tấn dầu mỡ; 16 nghìn tấn hóa chất bảo vệ thực vật và khoảng 47 nghìn tấn kim loại nặng các loại" [70]. Nguồn thải 15 từ lục địa ra vùng biển ven bờ Việt Nam làm chất lượng nước biển bị suy giảm và ô nhiễm (một số nơi nước biển chuyển màu xanh hoặc đỏ), bị đục hóa; các hệ sinh thái biển và nguồn lợi thủy sản ven bờ bị suy thoái. Đặc biệt xuất hiện những điểm nóng ô nhiễm vùng biển ven bờ khu vực Quảng Ninh Hải Phòng, Đà Nẵng - Quảng Ngãi, Bà Rịa - Vũng Tàu - Thành phố Hồ Chí Minh. Các chất bẩn tích tụ trong biển làm thay đổi chất lượng nước biển, tính chất vật lý của môi trường biển, ảnh hưởng đến sự trong lành của môi trường, làm suy thoái và ô nhiễm môi trường biển, qua đó ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của con người. Việc xác định các thành phần ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền và đánh giá mức độ đe dọa tác động xấu tới môi trường biển của từng thành phần có vai trò quan trọng. Từ đó, đưa ra các giải pháp hiệu quả để phòng ngừa, giảm thiểu tác động đến môi trường của các thành phần này. Tuy vậy, việc xác định nguồn ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền hết sức phức tạp và các nguồn ô nhiễm này cũng rất khó kiểm soát. Việc hạn chế và tiến tới xóa bỏ nguồn ô nhiễm này là vô cùng khó khăn đối với các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia ven biển. * Ô nhiễm từ các hoạt động liên quan đến đáy biển Đây là một trong các nguồn gây ô nhiễm chính đến môi trường biển. Các hoạt động thăm dò, khai thác khoáng sản, đặc biệt là dầu khí, các hoạt động khoan, đào xây dựng đường hầm, lắp đặt ống dẫn, dây cáp, xây dựng các đảo nhân tạo…là nguy cơ tiềm tàng gây ô nhiễm môi trường biển. Quá trình tiến hành các hoạt động trên có thể gây ra các sự cố như rò rỉ, nổ dàn khoan, đâm va, tràn dầu, chất thải từ các hoạt động đó…đều ảnh hưởng tới chất lượng nước biển, làm hủy hoại các giống loài sinh vật biển, giảm sự đa dạng sinh học và các giá trị khác của biển. Trong đó, sự cố tràn dầu ngày càng diễn ra với mức độ nghiêm trọng. 16 Hiện nay, hàm lượng dầu trong nước biển của Việt Nam nhìn chung đều vượt giới hạn tiêu chuẩn Việt Nam và vượt rất xa tiêu chuẩn ASEAN. Đặc biệt, có những thời điểm vùng nước khu vực cảng Cái Lân có hàm lượng dầu ở mức 1,75 mg/lít, gấp 6 lần giới hạn cho phép; 1/3 diện tích mặt nước vịnh Hạ Long có hàm lượng dầu thường xuyên từ 1 đến 1,73 mg/lít. Bên cạnh đó, vùng biển nước ta có khoảng 340 giếng khoan thăm dò và khai thác dầu khí, ngoài việc thải nước lẫn dầu với khối lượng lớn, trung bình mỗi năm hoạt động này còn phát sinh khoảng 5.600 tấn rác thải dầu khí, trong đó 20 - 30% là chất thải rắn nguy hại chưa có bãi chứa và nơi xử lý. Các quốc gia cần có chính sách, biện pháp để đối phó với vấn đề suy thoái, ô nhiễm môi trường biển do các hoạt động liên quan đến đáy biển gây ra, nhất là đối với sự cố tràn dầu đang diễn ra ngày càng nhiều như hiện nay. * Ô nhiễm do sự nhấn chìm và trút bỏ chất thải Các chất thải đặc biệt là các hóa chất và các chất nguy hại khác thải ra biển từ các nhà máy, khu công nghiệp…có tác động rất xấu đến môi trường biển. Các vụ tai nạn tàu chuyên chở các chất nguy hại cũng là nguồn ô nhiễm do nhấn chìm lớn. Chỉ cần một lượng rất nhỏ các chất này, ví dụ như dioxin, các chất phóng xạ đã gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với môi trường biển và đối với sức khỏe, tính mạng con người. * Ô nhiễm do tàu thuyền gây ra Do các hoạt động của tàu thuyền như đốt cháy nhiên liệu, rửa tàu, rác và nước thải sinh hoạt, tràn dầu và các chất độc hại do các sự cố trên biển như đâm va, chìm đắm, nổ, cháy, do sơ xảy trong quá trình bốc, xếp, dỡ, vận chuyển…Phần lớn việc để xảy ra sự cố gây ô nhiễm môi trường biển là do con người, chỉ một phần nhỏ là do sự cố máy móc, do đó, để hạn chế được nguồn gây ô nhiễm này thì cần thiết phải đào tạo con người cả về trình độ và ý thức, nhận thức. 17 Ở Việt Nam, tình trạng ô nhiễm biển do hoạt động của tàu thuyền có xu hướng gia tăng, phức tạp hơn. Do số lượng tàu thuyền gắn máy loại nhỏ, công suất thấp, cũ kỹ và lạc hậu tăng nhanh, nên khả năng thải dầu và các chất thải khác vào môi trường biển nhiều hơn. Các tàu nhỏ chạy bằng xăng dầu đã thải ra biển khoảng 70% lượng dầu thải. Ngoài ra, hoạt động của tàu thương mại trên tuyến hàng hải quốc tế cũng thải vào biển Việt Nam một lượng lớn dầu rò rỉ, dầu thải và chất thải sinh hoạt mà đến nay chưa thể thống kê đầy đủ. Các vụ tai nạn tàu chở dầu và tai nạn hàng hải là một trong những nguồn chính gây nên tình trạng ô nhiễm biển tại Việt Nam. Theo thống kê của Cục Hàng hải Việt Nam, từ năm 1992-2004 xảy ra 928 vụ tai nạn tàu thủy, đồng nghĩa với nguy cơ tràn dầu ngày càng lớn. Dầu tràn gây hậu quả nặng nề về nhiều mặt. Đơn cử vụ tàu chở dầu Neptune Aries (Singapore) đâm vào cầu tàu cảng Cái Tiên trên sông Sài Gòn hồi tháng 10.1994, làm tràn 1.584 tấn dầu DO và hơn 150 tấn xăng dầu các loại từ đường ống dẫn dầu của cầu cảng… Hàng loạt các công ước như Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu thuyền 1973 (MARPOL 73/78), sửa đổi bổ sung năm 1978; công ước về an toàn tính mạng trên biển (SOLAS) 1974; Công ước tránh đâm va (COLREG) 1978…được các quốc gia gia nhập ngày càng nhiều do tính nghiêm trọng của nguồn ô nhiễm từ tàu thuyền gây ra. * Ô nhiễm từ khí quyển Đây là nguồn ô nhiễm biển riêng biệt, tự nó không làm ô nhiễm môi trường biển mà bầu khí quyển bị ô nhiễm do các nguồn khác gây nên và qua đó trở thành nguồn ô nhiễm môi trường biển. Bầu khí quyển bị ô nhiễm do khí thải từ các ngành công nghiệp, đốt rác thải, từ hoạt động nông nghiệp, bụi từ đất, từ núi lửa, cháy rừng, các chất phóng xạ từ các vụ thử hạt nhân…Các chất nhiễm bẩn được phát tán trong không khí làm bầu khí quyển bị ô nhiễm. Qua các cơn mưa, tuyết rơi các chất nhiễm bẩn này rơi xuống biển, làm ô 18 nhiễm môi trường biển. Do đó, hạn chế nguồn ô nhiễm này sẽ góp phần bảo vệ môi trường biển. Như vậy, các nguồn ô nhiễm biển rất đa dạng. Trong đó, ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền là nguồn ô nhiễm chính và chủ yếu. Vì thế, cần tập trung vào ngăn ngừa, hạn chế và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn nguồn ô nhiễm này. Tuy nhiên, nguồn ô nhiễm từ đất liền còn ít được quan tâm hoặc sự điều chỉnh trong các quy định của pháp luật còn có sự tách biệt, chưa có được một cái nhìn tổng thể về mối quan hệ chặt chẽ giữa đất liền và biển. Ngoài ra, do sự kém phát triển về khoa học kỹ thuật cho nên nhiều quốc gia cũng chưa nhận thức được mối đe dọa từ các nguồn ô nhiễm khác như ô nhiễm từ các hoạt động ở đáy biển, ô nhiễm khí quyển, ô nhiễm hạt nhân…đối với môi trường biển nước mình. 1.3. CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN Hiện nay, có khoảng 300 công ước quốc tế về bảo vệ môi trường, trong đó, có các công ước sau về bảo vệ môi trường biển: - Công ước năm 1982 của Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOS) là bộ luật hoàn chỉnh nhất về biển trong thời đại chúng ta, dành Phần XII qui định về việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển, gồm 11 mục và 46 điều khoản (từ Điều 192 đến Điều 237). Đó là cơ sở pháp lý giúp các quốc gia bảo vệ và giữ gìn môi trường biển, đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển chung. Điểm nổi bật của Công ước là xác định rõ ràng quyền hạn và nghĩa vụ của các quốc gia ven biển trong việc bảo vệ môi trường biển khỏi ô nhiễm. - Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu (MARPOL 73/78): Ra đời năm 1973, đây là bộ luật chuyên ngành hàng hải của thế giới, đã được thông qua tại Hội nghị quốc tế về ô nhiễm biển, do Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO) triệu tập từ ngày 8/10 đến 2/12/1973. Công ước đưa ra những qui định 19 nhằm ngăn chặn ô nhiễm gây ra do tai nạn hoặc do vận chuyển hàng hóa là dầu mỏ, hàng nguy hiểm, độc hại bằng tàu, cũng như do nước, rác và khí thải ra từ tàu. Năm 1978, Công ước 1973 được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định thư 1978 kèm thêm 5 phụ lục mới, được gọi tắt là MARPOL 73/78. Năm 1997, Marpol 73/78 được bổ sung bằng Nghị định thư 1997 có thêm phụ lục thứ 6. Như vậy, đến nay Marpol 73/78 đang được thực thi nghiêm ngặt trong ngành hàng hải thế giới. - Công ước quốc tế về an toàn sinh mạng con người trên biển 1974 (SOLAS). - Công ước quốc tế sẵn sàng ứng phó và hợp tác đối với việc xử lý ô nhiễm dầu năm 1990 (OPRC). - Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm biển do chất thải và những vật liệu khác (London 1972). - Công ước về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới chất thải nguy hại và việc tiêu hủy chúng (Basel 1989). - Công ước về can thiệp ngoài Biển cả trong các trường hợp sự cố ô nhiễm dầu năm 1969 và Nghị định thư liên quan đến việc can thiệp ngoài biển cả trong các trường hợp ô nhiễm do các chất khác không phải dầu năm 1973 (Công ước can thiệp). - Công ước về cứu hộ năm 1989 - Công ước về trách nhiệm dân sự đối với các tổn thất ô nhiễm biển do dầu năm 1969 (CLC 1969), Công ước quốc tế về thiết lập quỹ quốc tế đền bù các tổn thất ô nhiễm biển do dầu năm 1971 (FUND 1971), các Công ước sửa đổi CLC 1992 và FC 1992. - Công ước về trách nhiệm và bồi thường thiệt hại gắn liền với việc vận chuyển bằng đường biển các chất nguy hiểm và độc hại 1996 (HNS). 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan