BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
---o0o---
NINH THỊ HIỀN
PHÁP LUẬT VỀ TRAO QUYỀN SỬ DỤNGĐẤT TỪ NHÀ NƯỚC CHO CÁC
CHỦ THỂ KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số
: 62.38.01.07
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017
Công trình được hoàn thành tại
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. Phạm Duy Nghĩa
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng luận án cấp Trường họp tại phòng
….. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, địa chỉ: số 2 đường
Nguyễn Tất Thành,Phường 12, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh, vào hồi
….giờ….ngày…..tháng…năm….
Có thể tìm hiểu Luận án tại thư viện trường đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh, số 2 Nguyễn Tất Thành, Phường 12, Quận 4, Thành phố Hồ Chí
Minh hoặc Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
1
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Từ năm 1986, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới với mục tiêu “kiên
quyết xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chấp nhận nền kinh tế vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế
hoạch, chính sách và các công cụ khác”1 nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình
trạng nghèo nàn lạc hậu. Pháp luật Việt Nam là thể chế hóa đường lối, chủ
trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân. Đảng lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. C. Mác cho
rằng “đất đai là nguồn của mọi sản xuất và của mọi tồn tại”2. “Để đảm bảo
sự công bằng trong phân phối giá trị thặng dư, thì đất đai phải thuộc công
hữu, sở hữu Nhà nước, Nhà nước vừa bảo vệ chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất, vừa bảo vệ bình đẳng về lao động và bình đẳng trong việc phân chia
các sản phẩm”3.
Theo ý thức hệ tư tưởng đó, đất đai ở Việt Nam thuộc sở hữu toàn dân
do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, đặc biệt trong hoạt động điều phối quyền
sử dụng đất từ Nhà nước cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Báo cáo Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa IX khẳng định phát triển thị trường bất
động sản phải “làm cho quyền sử dụng đất chuyển thành hàng hoá một
cách thuận lợi, đất đai trở thành nguồn vốn quan trọng cho phát triển. Giá bất
động sản được hình thành theo nguyên tắc thị trường. Nhà nước tác động
đến giá đất trên thị trường bằng các chính sách kinh tế vĩ mô trên cơ sở quan
4
hệ cung - cầu về đất đai” , bảo đảm hài hoà các lợi ích của Nhà nước, của
người sử dụng đất, của người giao lại quyền sử dụng đất và của nhà đầu tư.
Để quyền sử dụng đất thuộc sở hữu toàn dân được trao cho người sử
dụng đất phải trải qua ba quy trình. Quy trình chính trị là quá trình hình
thành thị trường quyền sử dụng đất thông qua bản quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất, các ưu tiên về chính sách sử dụng đất. Trong quy trình hành chính,
1
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI ngày
15/12/1986, truy cập ngày 15/8/2016 từ http://dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/van-kiendang/van-kien-dai-hoi/khoa-vi.html
2
C.Mác và Ph. Ăng-Ghen toàn tập, tập 46 phần 1, NXB Chính trị quốc gia sự thật- Hà Nội, tr.
73.
3
C.Mác, Ph.Ăng-Ghen, V.I.Lê-Nin, Về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, NXB Sự thật,
Hà Nội – 1986.tr.267.
4
Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ngày 10/4/2006 về phương hướng,
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm năm 2006 - 2010, Văn kiện đại hội khóa X.
2
các cơ quan nhà nước thiết lập cơ chế điều tiết thị trường quyền sử dụng đất.
Thông qua quy trình dân sự, Nhà nước chuyển quyền sử dụng đất đến tay
người sử dụng đất thuộc mọi thành phần kinh tế.
Theo Quyết định số 455/QĐ-BTNMT ngày 21/3/2017 về phê duyệt và
công bố kết quả thống kê diện tích đất năm 2015 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường, tính đến ngày 31/12/2015 tổng diện tích đất tự nhiên cả nước là
33.123.077 ha gồm diện tích đất phi nông nghiệp là 27.302.206 ha, diện tích
nhóm đất phi nông nghiệp là 3.697.829 ha, nhóm đất chưa sử dụng là
2.123.042 ha. Trong nhóm đất phi nông nghiệp thì diện tích đất theo đối
tượng sử dụng là 1.829.724 ha và diện tích theo đối tượng quản lý là
1.868.087 ha. Báo cáo công tác quản lý nhà nước về đất đai của Bộ Tài
nguyên và Môi trường cho biết tính đến ngày 20/7/2015 cả nước đã cấp được
41.757.000 Giấy chứng nhận với diện tích 22.963.000 ha, đạt 94,9% diện
tích cần cấp các loại đất chính. Tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương đều cơ bản hoàn thành mục tiêu cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Ngoài ra, theo Ông Lê Thanh Khuyến – Tổng Cục trưởng Tổng cục
Quản lý đất đai thì công tác xác định giá đất được thực hiện có hiệu quả, góp
phần minh bạch trong xác định giá đất, trong đấu giá quyền sử dụng đất,
tăng nguồn thu từ đất đai cho ngân sách Nhà nước, nếu năm 2013 là 54.313
tỷ đồng, năm 2014 là 55.563 tỷ đồng, năm 2015 là 83.530 tỷ đồng, đến năm
5
2016, con số này đã là 122.603 tỷ đồng .
Bên cạnh những thành công đã đạt được, theo Báo cáo "Công khai
thông tin quản lý đất đai ở Việt Nam" ngày 12/12/2014 của Ngân hàng Thế
giới thì hoạt động trao quyền sử dụng đất tại Việt Nam trong thời gian qua
đã bộc lộ nhiều bất cập như “tham nhũng”, bị thao túng bởi lợi ích nhóm,góp
phần tạo ra bất bình đẳng và mất ổn định xã hội. Nguyên nhân cho các bất
cập này gồm hai nhóm:
Thứ nhất, cấu trúc quyền sở hữu đất đai của Việt Nam chưa phân biệt
quyền sử dụng đất đã trao cho người sử dụng đất với quyền sử dụng đất chưa
trao cho người sử dụng đất “đất công” nhằm xác định cơ chế điều tiết riêng
biệt cho từng loại đất. Khái niệm sở hữu toàn dân về đất đai là một “một
khái niệm trừu tượng, chưa chỉ ra được chủ thể sở hữu cũng như đối tượng
sở hữu trên thực tế và việc thực hiện quyền đối với đất đai của mỗi người
5
Lê Thanh Khuyến (2017), Ngành Quản lý đất đai – Những thành tích nổi bật trong năm
2017. Truy cập lần cuối ngày 8/10/2017 từhttp://www.gdla.gov.vn/index.php/news/Hoatdong-trong-nganh/Nganh-Quan-ly-dat-dai-Nhung-thanh-tich-noi-bat-trong-nam-20171926.html
3
dân được hiện thực hóa như thế nào”6 dẫn đến tình trạng "chính quyền đang
7
có quyền lực độc quyền đáng kể trong việc giao và cho thuê đất” , có quá
nhiều cơ quan có quyền quyết định đối với sử dụng và chiếm hữu đất đai,
8
“Nhà nước không quan tâm đến quyền hưởng dụng của mình” , “không biết
cách hưởng lợi, không được hưởng lợi, hoặc có được hưởng lợi nhưng
9
không đáng kể” nên “một phần địa tô chênh lệch từ đất chưa được tập
trung vào ngân sách Nhà nước”10.
Thứ hai, quy trình chính trị chưa tập hợp được thông tin từ các chuyên
gia, thông tin dự báo thị trường từ các nhà đầu tư, các nhóm lợi ích liên quan
và nhận được sự đồng thuận từ phía người dân. Hoạt động trao quyền sử
dụng đất tập trung chủ yếu vào cơ chế điều phối hành chính quan liêu
(bureaucratic coordination)11, với hệ thống các cơ quan thẩm quyền có chức
năng bị phân mảnh, thủ tục hành chính kém minh bạch. Quy trình hành
chính giúp cụ thể hóa quyết định chính trị. Cuối cùng quy trình dân sự là
bước cụ thể hóa quyết định hành chính, các nguyên tắc thị trường chưa kích
thích được sự phát triển “việc giao quyền quản lý, khai thác, sử dụng đất đai
chưa phù hợp với kinh tế thị trường và hiệu quả chưa cao”12. Suy cho cùng,
phân bổ đất công trước hết là một quyết định chính trị, được thông qua bởi
một quy trình chính trị.
Sau hơn 30 năm thực hiện chính sách đổi mới, “kinh tế phục hồi còn
6
Đinh Dũng Sĩ (2003), “Bảo vệ quyền sở hữu toàn dân về đất đai và quyền sử dụng đất của người sử
dụng đất: Thực trạng và kiến nghị”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 10/2003, tr.57.
7
Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, Đại sứ quán Đan Mạch, Đại sứ quán Thụy điển
(2011).Nhận diện và giảm thiểu các rủi ro dẫn đến tham nhũng trong quản lý đất đai ở Việt
Nam, NXB Chính trị Quốc Gia- Sự thật, tr.37.
8
Trần Quang Huy (2008), Pháp luật về hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, Luận án
tiến sĩ Luật học, Viện nhà nước và pháp luật, Viện khoa học xã hội Việt Nam, tr.20.
9
Phạm Hữu Nghị (2005), “Vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện quyền sở hữu toàn dân
về đất đai” Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 1.
10
Phát biểu của bà Tô Quỳnh Thảo, Phó Trưởng phòng, Cục Quản lý công sản (Bộ Tài
chính), Tổng thu NSNN từ đất ước đạt gần 50.000 tỷ đồng năm 2015,
http://vietnamfinance.vn truy cập ngày 10/2/2017.
11
Tác giả Konai János là giáo sư kinh tế đại học Havard và Viện sĩ viện hàn lâm Khoa học
Hungary. Konai János (1991), Socialist system the political economy of communism,
Princeton University Press Oxford University Press, Dịch giả Nguyễn Quang A (2002), Hệ
thống Xã hội chủ nghĩa chính trị kinh tế học phê phán, NXB Văn Hóa- Thông tin, Hội khoa
học kinh tế Việt Nam, Tr. 96.
12
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - Xã hội 5 năm 2011-2015
và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - Xã hội 5 năm 2016-2020, truy cập ngày
12/2/2017 từ http://dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/van-kien-dang/van-kien-dai-hoi/khoaxii.html
4
chậm, tăng trưởng chưa đạt chỉ tiêu đề ra; chất lượng tăng trưởng một số mặt
còn thấp, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều
vướng mắc, chưa tạo được đột phá thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”13.
Đất đai là “nguồn gốc giàu có cho chủ sở hữu”14 vẫn chưa đem lại cho Việt
Nam sự phát triển kinh tế.
Vậy câu hỏi đặt ra là trong điều kiện đất đai thuộc sở hữu toàn dân thì
bản chất của trao quyền sử dụng đất từ Nhà nước cho người sử dụng đất, đặc
biệt là các chủ thể kinh doanh bất động sản là gì? Hoạt động này diễn ra theo
những quy trình, hình thức và trình tự, thủ tục nào? Các quy trình, hình thức
và trình tự thủ tục này tác động như thế nào đến thị trường đất đai và hiệu
quả của việc phân phối nguồn lực đất đai? Trong bối cảnh nêu trên tác giả đã
chọn đề tài “Pháp luật về trao quyền sử dụng đất từ Nhà nước cho các
chủ thể kinh doanh bất động sản tại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho
luận án tiến sĩ của mình.
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
(i) Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận ánnhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận, các khía cạnh pháp lý của hoạt động trao QSDĐtừ Nhà nước cho các
chủ thể kinh doanh bất động sản một cách có hệ thống.
Luận án cũng nhận diện các nhân tố và mối quan hệ nhân quả của các
sự kiện đang diễn ra trong hoạt động trao QSDĐ thuộc sở hữu toàn dân tại
Việt Nam. Sau khi phân tích và đánh giá những hạn chế của pháp luật, luận
án góp phần hoàn thiện lý luận về hoạt động trao QSDĐ cho các chủ thể
kinh doanh bất động sản, luận án đề xuất kiến nghị các giải pháp nhằm tiếp
tục hoàn thiện pháp luật về hoạt động trao QSDĐ từ Nhà nước cho các chủ
thể kinh doanh bất động sản tại Việt Nam.
(ii) Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nói trên luận án có bốn nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu, phân tích, so sánh và đánh giá cũng như rút ra những kết
luận từ tài liệu nghiên cứu từ nhiều nguồn khác nhau về hoạt động trao QSDĐ từ
nhà nước cho các chủ thể kinh doanh bất động sản.
- Nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận về cấu trúc QSDĐ, bản chất của hoạt
động trao QSDĐtừNhà nước cho chủ thể kinh doanh bất động sản. Nhận diện
QSDĐ mà Nhà nước chưa trao cho NSDĐ.
13
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011 – 2015
và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 – 2020, Đại hội Đảng
khóa XII.
14
Các Mác, Tư bản phê phán khoa kinh tế chính trị, quyển thứ 3, tập III, toàn bộ quá trình của
sản xuất tư bản chủ nghĩa, NXB. Sự thật, Hà Nội – 1963. tr.81.
5
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật, từ văn bản đến thực tiễn triển khai để
làm rõ cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật đất đai. Tác giả
chọn lọc những nội dung quan trọng nhất trong hệ thống các quy phạm pháp luật
liên quan đến đề tài để nghiên cứu.
- Kết hợp với việc so sánh đối chiếu pháp luật Việt Nam với pháp luật các
nước mà pháp luật đất đai của Việt Nam có nhiều điểm tương đồng cũng như các
nước có nền kinh tế thị trường phát triển nhằm rút ra bài học kinh nghiệm trong
việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực trao QSDĐ từ Nhà nước cho các chủ thể
KDBĐS tại Việt Nam.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
(i) Đối tượng nghiên cứu của luận án gồm:
- Các lý thuyết, các quan điểm khoa học, đặc biệt là những quan điểm
về của Chủ nghĩa Mác – Lênin và các quan điểm đã được thừa nhận rộng rãi
ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển về hoạt động trao QSDĐcủa
Nhà nước.
- Các nhận xét, đánh giá của các nhà khoa học về hoạt động trao
QSDĐ từ Nhà nước cho các chủ thể KDBĐStừ các sách, tạp chí chuyên
ngành luật trên thế giới và Việt Nam, các báo cáo do các cơ quan chính phủ
hoặc các tổ chức phi chính phủ công bố vàcác luận án tiến sĩ;
- Các quy định của pháp luật về trao QSDĐtại Việt Nam và một số nước
trên thế giới thể hiện tại Hiến pháp, các đạo luật, các nghị định, thông tư.
- Thực tiễn áp dụng pháp luật trao QSDĐ ở Việt Nam và một số quốc
gia nghiên cứu thể hiện tại các bản án, các quyết định hành chính và các hợp
đồng thỏa thuận.
(ii) Phạm vi nghiên cứu
Với tên đề tài nghiên cứu “Pháp luật về trao quyền sử dụng đất từ Nhà
nước cho các chủ thể kinh doanh bất động sảntại Việt Nam”, từ mục đích và
nhiệm vụ đặt ra, phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở những nội dung
như sau:
- Cấu trúc quyền sở hữu đất đai, phân biệt QSDĐ chưa trao cho
NSDĐ với QSDĐ đã trao cho NSDĐ;
- Quy trình và thẩm quyền phân phối đất đai của các cơ quan có thẩm
quyền trao QSDĐ.
- Trình tự thủ tục trao QSDĐ, hình thức pháp lý của hoạt động trao QSDĐ.
Hoạt động trao QSDĐ từ Nhà nước cho các chủ thể KDBĐS là một
hoạt động phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh vực như cơ chế phân cấp, phân
quyền của hoạt động quản lý nhà nước, chính sách quản lý tài sản và đầu tư
công, tác giả không thể đề cập đến tất cả các vấn đề liên quan mà chỉ tập
trung vào các vấn đề mang tính trọng tâm như; Cấu trúc quyền sở hữu đất
6
đai; quy trình, trình tự thủ tục trao QSDĐ; chủ thể trao QSDĐ, các hình thức
trao QSDĐ và giám sát hoạt động trao QSDĐ. Những nội dung có liên quan
khác tác giả lồng ghép vào những phần có liên quan trong luận án hoặc xin
được tiếp tục thực hiện trong các công trình nghiên cứu khác.
Về phạm vi không gian: tác giả chọn Việt Nam là trọng tâm nghiên
cứu, kết hợp với việc so sánh cách thức mà đất đai được nắm giữ và chuyển
giao vào thị trường BĐS ở các nước khác gồm Hoa Kỳ, Pháp và Trung
Quốc, nhằm có những đánh giá toàn diện cho vấn đề nghiên cứu.
IV. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng và
Nhà nước về chính sách đất đai và phát triển thị trường đất đai.
Để đạt được kết quả nghiên cứu, Luận án đã sử dụng phương pháp
tổng hợp và phân tích;Phương pháp so sánh;Phương pháp khảo sát; Phương
pháp nghiên cứu lịch sử và Phương pháp kinh tế và luật.
V. Ý nghĩa khoa học của Luận án
Kết quả nghiên cứu của Luận án đóng góp những quan điểm khoa học
về cơ sở lý luận trong cấu trúc quyền sở hữu đất đai, quy trình trao quyền
SDĐ, phân quyền trong quyền đại diện sở hữu toàn dân về đất đai. Luận án
cũng phân tích thực trạng pháp luật chỉ rõ những bất cập về phân quyền và
hình thức trao QSDĐ hiện hành tại Việt Nam. Luận án là tài liệu tham khảo
có giá trị đối với sinh viên, những người làm công tác nghiên cứu và những
người làm công tác thực tiễn trong lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng như
mọi đối tượng của quản lý nhà nước về đất đai.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, NHỮNG
VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Cho đến thời điểm này tại Việt Nam và trên thế giới có rất nhiều công
trình nghiên cứu đến liên quan đến đề tài luận án đã được công bố, có thể
khái quát thành các nhóm chính sau:
i) Bàn về sở hữu đất đai; có các công trình nghiên cứu“Sự bí ẩn của vốn”
(The Mystery of capital) của tác giả Hernando de Soto. Tác giả Robin Rajack
trong bài viết “Quyền sở hữu và quản lý công về vấn đề đất đai có mang lại hiệu
quả cho thị trường đất đai?” (Does Public Ownership and Management of land
Matter for Land Market Outcomes?). Công trình nghiên cứu “Chế độ pháp lý về
sở hữu và quyền tài sản đối với đất đai”của tác giả Phạm Văn Võ;Tác giả Đặng
Hùng Võ, Nguyễn Văn Thắng, T&C Consulting trong nghiên cứu “Về vấn đề
cải thiện quản trị đất đai ở Việt Nam”.
7
ii) Nghiên cứu quy trình chính trị trong phân bổ đất đaicó công trình
của hai tác giả Jeffrey Pome, Jody W. Lipford trong bài viết “Việc phân bổ
mang tính chính trị của quyền sở hữu: Một áp dụng cho quy định sử dụng
đấttừ cấp tiểu bang” (The Political Allocation of Property Rights: An
Application to State Land Use Regulation);
iii) Nghiên cứu về vai trò của cơ quan quản lý hành chính về đất đai
có các tác giả: Gary D.Libecap với công trình “Quyền tài sản trong lịch sử
kinh tế, gợi ý cho nghiên cứu” (Property Rights in Economic History:
Implications for Research). Tác giả Arthur C. Nelson, trong tác phẩm “Nền
tảng cho việc tài trợ phát triển bất động sản” (Foundation of Real Estate
Development Financing);
iv) Nghiên cứu cơ quan nhà nước với vai trò là một bên trong hoạt
động trao quyền sử dụng đất có các công trình:Tác giả Nhiêu Hội Lâm với
“Kinh tế học đô thị” và công trình “Cơ chế nhà nước thu hồi đất và chuyển
dịch đất đai tự nguyện tạiViệt Nam” của Ngân hàng Thế giới.
v) Bàn về thị trường bất động sản công có các tác giả: Nhóm tác giả
James W.Kolari, Jian Yang, và Guozhong Zhu trong bài viết “Hội nhập thị
trường bất động sản công châu Âu (European Public real estate market
integration); Bài viết “Đất của ai? Kinh tế chính trị về quyền sở hữu đất
trong nền kinh tế chuyển đổi” (Whose Land? The Political Economy of Land
Titling in Transitional Economies) của tác giả Peter Ho, Max Spoor; Công
trình nghiên cứu “Những cấptrung gian củaquyền sở hữuvàthị trường nhà
đấtđang nổi lêntại thành phố HồChí Minh, Việt Nam” (Intermediate Levels
of Property Rights and the Emerging Housing Market in Ho Chi Minh City,
Vietnam) của tác giả Truong Thien Thu và Perera; Tác giả Thái Bá Cẩn tại
công trình “Thị trường bất động sản những vấn đề lý luận và thực tiễn tại
Việt Nam”;
vi) Bàn về hình thức trao quyền sử dụng đất có: Ngân hàng Thế giới
tại Việt Nam, Đại sứ quán Đan Mạch, Đại sứ quán Thụy Điển (2011) tại
công trình “Nhận diện và giảm thiểu các rủi ro dẫn đến tham nhũng trong
quản lý đất đai ở Việt Nam”; Tác giả Lưu Quốc Thái trong 3 bài viết “Yếu tố
thị trường trong quan hệ đất đai giữa nhà nước và NSDĐ trong thị trường
QSDĐsơ cấp”; công trình nghiên cứu “Pháp luật về thị trường quyền sử
dụng đất – thực trạng và hướng hoàn thiện” và bài viết “Quá trình thị trường
hóa đất đai ở Trung Quốc một số đánh giá và bài học kinh nghiệm”;Công
trình nghiên cứu “Vốn hóa đất đai trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của tác giả Trần Thị Minh Châu.
vii) Bàn về hình thức quản lý mang tính pháp lý trong hoạt động trao
quyền sử dụng đất,Tác giả Daniel P.Selmi trong nghiên cứu về “Sự chuyển
8
hóa hợp đồng trong quy định sử dụng đất” (The Contract Transformation in
Land Use Regulation); Tác giả Zhenhuan Yuan trong bài viết “Các quyền sử
dụng đất tại Trung Quốc” (Land Use Rights in China).
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu
Từ các nghiên cứu trêncó thể đưa đến những nhận thức cơ bản sau:
Thứ nhất, cấu trúc quyền sở hữu đất đai được chia thành đất công và
đất tư. Nhà nước chuyển đất công vào khu vực tư và cũng là bên nhận
chuyển nhượng QSDĐ tư thành đấtcông, thuộc sở hữu nhà nước. Có những
thành phố quản lý đất công kém làm thất bại thị trường đất đai.
Thứ hai,để một diện tích đất chuyển từ nhà nước đến người sử dụng
thường trải qua ba quy trình gồm: quy trình chính trị, quy trình hành chính
và quy trình dân sự. Trong quy trình chính trị, Nhà nước sử dụng quyền lực
để bảo vệ lợi ích chung của cả cộng đồng, bảo vệ môi trường và các mục tiêu
về phát triển kinh tế xã hội. Trong quy trình hành chính, Nhà nước tổ chức
điều tiết đất đai. Quy trình dân sự, nhà nước kích thích và hướng dẫn thị
trường đất đai phát triển.
Thứ ba,nguồn thu từ kinh doanh đất đai đô thị là trụ cột quan trọng
của ngân sách nhà nước. Việc nhà nước trao QSDĐ cho NSDĐđể thu về một
giá trị bằng tiền là việc kinh doanh, đồng thời sử dụng nguồn lực đất đai
nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
Thứtư, cơ chế điều phối thị trường về đất đai đã phát triển tại các nước
nghiên cứu. Hình thức quản lý mang tính pháp lý trong hoạt động trao
QSDĐbằng hợp đồng thỏa thuận đã được áp dụng rộng rãi và thành công ở
các quốc gia nghiên cứu.
Thứnăm, một số quốc gia đã tổ chức thành công thị trường đất công
(thị trường sơ cấp),thị trường đã được vận hành theo các nguyên tắc thị
trường có sự điều tiết của nhà nước, việc trao QSDĐ từ nhà nước cho các
chủ thể KDBĐS được điều tiết theo nguyên tắc thị trường.
So sánh các công trình nghiên cứu về pháp luật đất đai của các nước
có nền kinh tế thị trường phát triển và các công trình liên quan đến hoạt động
trao QSDĐ từ Nhà nước vào hoạt động KDBĐSở Việt Nam có thể rút ra một
số nhận xét về tổng quan tình hình nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, do tính đặc thù của đất đai, dù đất đai thuộc sở hữu công
hay sở hữu tư nhân, thì nhà nước vẫn giữ vai trò là người quản lý và điều tiết
tài nguyên đất đai cho việc phát triển kinh tế xã hội. Thị trường đất đai ở bất
kỳ quốc gia nào cũng bị điều tiết rất chặt chẽ bởi nhà nước.
Thứ hai, quyền sở hữu đất đai được tách bạch giữa QSDĐ đã trao cho
NSDĐ (đất tư) và QSDĐ chưa trao cho NSDĐ vẫn là tài sản công (gọi là đất
công). Các nước có nền KTTT phát triển đã có các quy định pháp luật riêng để
9
quản lý cũng như điều tiết đất công khi chuyển đất công tham gia vào hoạt
động KDBĐS, đảm bảo hiệu quả SDĐcho việc phát triển kinh tế xã hội.
Thứ ba, Việt Nam cần nghiên cứu và có chính sách phù hợp nhằm
quản lý khối công sản này, theo cơ chế thị trường để đất đai trở thành một
trong những nguồn lực tạo ra của cải cho xã hội.
Đề tài luận án được thực hiện trong bối cảnh trên, khi hoàn thành đề
tài có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật đất
đai trong lĩnh vực chuyển QSDĐ từ Nhà nước vào hoạt động KDBĐS tại
Việt Nam trong thời gian đến.
1.3. Cơ sở lý thuyết
Luận án tuân thủ lý thuyết địa tô của Karl Marx; Quan điểm của Marx về
công bằng xã hội;Lý thuyết về chế độ sở hữu và quyền tài sản; Lý thuyết về chế
độ sở hữu toàn dân về đất đai tại Việt Nam; Lý thuyết về vai trò của Nhà nước
trong tạo lập thị trường BĐS;Lý thuyết về thị trường BĐS sơ cấp; Lý thuyết
cạnh tranh;Lý thuyết nhóm lợi ích; Lý thuyết lợi ích nhóm;Quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về công bằng trong phân phối nguồn lực đất đai;
1.4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
1.4.1. Câu hỏi nghiên cứu
Đề tài được tiến hành để trả lời 03 câu hỏi nghiên cứu sau:
Thứ nhất, bản chất của trao QSDĐ từ nhà nước cho các chủ thể
KDBĐS tại Việt Nam là gì? Hoạt động này diễn ra với các quy trình chính trị,
hành chính và dân sự như thế nào? Hoạt động này giống và khác với việc bán
đất công cho tư nhân nhằm phát triển đất ở các quốc gia khác như thế nào?
Thứ hai, pháp luật đất đai hiện hành tại Việt Nam quy định như thế
nào về việc trao QSDĐ từ Nhà nước cho các chủ thể KDBĐS? Quy định này
tác động như thế nào đến hiệu quả của việc phân bổ nguồn lực đất đai?
Thứ ba, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm và thực tiễn trong
việc bán đất công cho tư nhân phát triển kinh doanh BĐS ở các quốc gia
khác là gì? Những bài học kinh nghiệm nào có thể áp dụng để hoàn thiện
pháp luật về trao QSDĐtừ nhà nước cho các chủ thể KDBĐStại Việt Nam?
1.4.2. Giả thuyết nghiên cứu
Trên cơ sở nền tảng khung lý thuyết, khung pháp lý quy định tại Luật
Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở, Bộ Luật dân sự, Luật
Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật Đầu tư, các quy định pháp luật liên
quan đến chuyển QSDĐ, các tài liệu tham khảo, để trả lời 3 câu hỏi nghiên
cứu kể trên, luận án dựa vào ba giả thuyết khoa học sau đây:
Thứ nhất, QSDĐnhà nước trao cho các chủ thể KDBĐS bao gồm
quyền sử dụng một diện tích đất nhất định và quyền phát triển trên diện tích
đất đó. Việc chuyển QSDĐtừ nhà nước vào hoạt động kinh doanh bất động
10
sản chủ yếu ở quy trình hành chính như hiện nay, ngoài một số thành tựu đã
đạt được, vẫn còn gây ra nhiều bất cập và thiệt hại cho nền kinh tế xã hội.
Thứ hai, việc chuyển QSDĐtừ nhà nước vào hoạt động KDBĐS có thể
diễn ra theo hai cơ chế, điều phối hành chính hoặc kinh tế thị trường. Hoạt
động trao QSDĐvận hành theo cơ chế và nguyên tắc thị trường, chấp nhận
cạnh tranh và có sự quản lý của nhà nước sẽ làm cho việc phân bổ tài nguyên
đất đai vào hoạt động sản xuất kinh doanh trở thành nguồn lực thúc đẩy phát
triển nền kinh tế đất nước.
Thứ ba, các quốc gia phát triển đã có kinh nghiệm lập pháp và thực thi
hiệu quả lĩnh vực pháp luật này, các kinh nghiệm này cần được khái quát
hóa. Việt Nam cần tham khảo những kinh nghiệm và bài học từ các quốc gia
này nhằm hoàn thiện pháp luật về chuyển QSDĐ từ nhà nước vào hoạt động
KDBĐS trong thời gian đến.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA VIỆC TRAO QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT TỪ NHÀ NƯỚC CHO CÁC CHỦ THỂ KINH DOANH
BẤT ĐỘNG SẢN
2.1. Lý luận chung về quyền sở hữu đất đai
Quyền sở hữu đất đai là quyền sở hữu bị hạn chế bởi nhà nước. Tùy
từng thời kỳ phát triển, Nhà nước thiết lập cấu trúc quyền sở hữu đất đai cho
phù hợp với sự phát triển. Việc phân chia đất đai thành đất công, đất chưa trao
cho NSDĐ với đất tư, QSDĐ đã trao cho NSDĐ nhằm có những cơ chế điều
tiết khác nhau cho từng loại đất, từng chủ sở hữu QSDĐ. Việc phân biệt này
nhằm có những cơ chế điều tiết phù hợp khi Nhà nước điều tiết đất đai từ mục
đích sử dụng này sang mục đích sử dụng khác, hay chuyển QSDĐ từ tư nhân
về cho Nhà nước hoặc từ nhà nước trao cho NSDĐ thuộc khu vực tư.
Dù khái niệm sở hữu toàn dân có tính đặc thù, song cấu trúc quyền sở
hữu đất đai của Việt Nam, xét về khía cạnh các quyền tài sản, thực ra cũng
tương tự với một số quốc gia Hoa Kỳ, Pháp và Trung Quốc. Việc trao
QSDĐ từ Nhà nước phần lớn có đối tượng là QSDĐ mà Nhà nước chưa trao
cho NSDĐ (đất công). Tại Việt Nam QSDĐ chưa trao cho NSDĐ chưa được
nhận diện trong hệ thống văn bản pháp luật. Hạn chế này đã gây khó khăn
trong quá trình quản lý của cơ quan có thẩm quyền cũng như buông lỏng
việc quản lý, sử dụng có thể dẫn đến nguy cơ thất thoát tài sản thuộc sở hữu
toàn dân vì nhiều lý do khác nhau.
Quyền phát triển trên đất được kết hợp với QSDĐ mà Nhà nước sẽ
trao cho NSDĐ dưới dạng giấy phép quy hoạch. Pháp luật Việt Nam chưa
quy định quyền phát triển này là tài sản, do đó NĐT có được quyền này
thông qua thủ tục hành chính “xin-cho”. Do cơ chế phân mảnh của các cơ
11
quan quản lý nhà nước, quản lý đất đai được trao quyền cho Bộ TN & MT,
liên quan đến vấn đề quy hoạch, quyết định quyền phát triển trên đất được
trao quyền cho Bộ Xây dựng, liên quan đến chấp thuận chủ trương đầu tư
trao cho Bộ kế hoạch và Đầu tư, ba cơ quan thiếu sự kết hợp trong hoạt động
trao QSDĐ cho các chủ thể kinh doanh BĐS nên phát sinh nhiều bất cập.
2.2. Lý thuyết về kinh doanh bất động sản
Kinh doanh BĐS là sự kết hợp giữa Nhà nước và các chủ thể kinh
doanh sao cho NĐT đạt được mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Nhà nước là chủ
thể cung cấp hàng hóa công về QSDĐ nhằm thu địa tô về cho ngân sách nhà
nước, đồng thời đảm bảo cung cấp hàng hóa là QSDĐ cho các chủ thể
KDBĐS nhằm đạt được mục đích về phát triển kinh tế xã hội.
Chủ thể KDBĐS tồn tại dưới hình thức là doanh nghiệp, hợp tác xã,
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp hoặc giấy chứng nhận đầu tư đồng thời tiến hành kinh doanh một
cách độc lập hoặc thường xuyên. Các chủ thể kinh doanh phải đáp ứng
những điều kiện về chủ thể, phạm vi đầu tư KDBĐS, nguồn vốn và có khả
năng tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
2.3. Các phương thức và đặc điểm xác lập quyền sử dụng đất của
các chủ thể kinh doanh bất động sản
Các phương thức xác lập QSDĐ của các chủ thể KDBĐS gồm: Xác
lập bằng hình thức giao đất, cho thuê đất; Xác lập bằng hình thức nhận
chuyển quyền SDĐ và được Nhà nước công nhận QSDĐ; Thông qua các
phương thức xác lập QSDĐ được pháp luật đất đai quy định, các tổ chức
kinh doanh có quyền tiếp cận QSDĐ cho hoạt động kinh doanh của mình.
Đặc điểm của hoạt động xác lập quyền sử dụng đất gồm: Mục đích chính của
hoạt động KDBĐS của các chủ thể là tìm kiếm giá trị thặng dư, lợi nhuận,
hoạt động này cần sự điều tiết công bằng của nhà nước trong việc phân bổ
lợi nhuận;Việc xác lập QSDĐ cần phải nhanh chóng và có đủ thông tin và
minh bạch làm cơ sở tính toán cho chi phí đầu tư nhằm bảo đảm cho yếu tố
sinh lợi của hoạt động kinh doanh; Hoạt động cần có sự hỗ trợ từ phía nhà
nước dưới các hình thức khác nhau. Nhu cầu đòi hỏi QSDĐ mà NĐT xác lập
luôn luôn ở dưới dạng hàng hóa sẵn sàng trao đổi trên thị trường.
2.4. Lý thuyết về hoạt động trao quyền sử dụng đất từ nhà nước
cho các chủ thể kinh doanh bất động sản
Pháp luật đất đai Việt Nam và một số nước trên thế giới xem hoạt
động “Trao QSDĐ từ nhà nước cho các chủ thể kinh doanh BĐS là một giao
dịch trong đó Nhà nước thông qua cơ quan đại diện về bản chất là bán cho
NSDĐ một quyền tài sản đối với một diện tích đất trong một thời hạn và điều
kiện sử dụng đất nhất định để thu về một khoản tiền, hoặc một lợi ích tương
12
ứng”.Thông qua hoạt động trao QSDĐ nhà nước khẳng định quyền lực nhà
nước trong vai trò điều phối tài sản thuộc sở hữu toàn dân về đất đai.
Hoạt động trao QSDĐ từ Nhà nước cho các chủ thể KDBĐS có sự
khác nhau so với hoạt động trao QSDĐ cho các đối tượng khác. Do đối
tượng SDĐ trong hoạt động KDBĐS là tìm kiếm lợi nhuận, còn đối tượng
khác nhận trao QSDĐ cho nhu cầu sử dụng của chính các chủ thể hoặc mục
đích chính không nhằm mục đích kinh doanh. Từ sự phân biệt này Nhà nước
có những chính sách điều tiết khác nhau cho từng chủ thể nhận trao QSDĐ.
2.5. Tiêu chí đánh giá sự hoàn thiện pháp luật về hoạt động trao
quyền sử dụng đất từ nhà nước cho các chủ thể kinh doanh bất động sản
Có bốn tiêu chí mà Pháp luật đất đai phải đạt được nhằm đảm bảo
mục đích phát triển kinh tế xã hội là: phát triển, công bằng, dân chủ và văn
minh. Việc xác định những tiêu chí này sẽ tác động đến quy trình, hình thức
và trình tự, thủ tục trao QSDĐtừ Nhà nước cho các chủ thể kinh doanh bất
động sản tại Việt Nam.
CHƯƠNG 3: QUY TRÌNH, CHỦ THỂ VÀ CĂN CỨ TRAO QUYỀN
SỬ DỤNG ĐẤT TỪ NHÀ NƯỚC CHO CÁC CHỦ THỂ KINH
DOANH BẤT ĐỘNG SẢN
3.1. Quy trình trao quyền sử dụng đất từ nhà nước cho các chủ
thể kinh doanh bất động sản
Để một thửa đất thuộc sở hữu toàn dân được trao cho các tổ chức kinh
doanh BĐS sẽ trải qua baquy trình gồm: quy trình chính trị, quy trình hành
chính và quy trình dân sự.
3.1.1. Quy trình chính trị
Trước hết chính trị là quá trình bao gồm tranh luận, quyết định, xung
đột và/hoặc hợp tác giữa các cá nhân, nhóm và tổ chức đối với chi phối,
kiểm soát, phân phối và sử dụng các nguồn tài nguyên cũng như các giá trị
và tư tưởng làm nền tảng cho các hoạt động đó. Hoạt động phân bổ đất đai là
hành vi phân bổ lợi ích kinh tế của Nhà nước cho các thành phần kinh tế,
thông qua đó Nhà nước đạt được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Tại Việt
Nam, quy trình chính trị đã được luật hóa thành quy trình ban hành đồ án
quy hoạch và kế hoạch SDĐ làm căn cứ cho hoạt động trao QSDĐ giữa Nhà
nước và NSDĐ trong kỳ quy hoạch.Hoạt động lập quy hoạch, kế hoạch
thường diễn ra dưới quyền lập pháp.
Việc lập kế hoạch có thể được định nghĩa là việc triển khai các công cụ
chính sách khác nhau,mục đích để định hình, quy định và kích thích hành vi
của chủ thể thị trường và nâng cao năng lực của họ. Chính sách SDĐcó thể
được xem như một loại quy định của chính phủ về thị trường đất đai. Theo tác
13
gải David Adams và Craig Watkinsquy hoạch SDĐ hình thành bốn bộ chính
sách khác nhau gồm:Thứ nhất, định hình thị trường (Shaping markets). Thứ
hai, quy định thị trường (Regulating markets). Thứ ba, khuyến khích thị
trường (Market stimulus). Thứ tư, xây dựng năng lực (Capacity building).
Với những chức năng trên, quy hoạch SDĐ sẽ tác động đến các nhóm
lợi ích với nhiều giá trị đa dạng. Các nhóm bị ảnh hưởng sẽ tác động đến quá
trình tổ chức lập quy hoạch kế hoạch SDĐcủa cơ quan hoặc các quan chức
có thẩm quyền theo nhiều cách và ở từng giai đoạn khác nhau. Lập quy
hoạch không thể thoát khỏi mối quan hệ của nó với các quyền tài sản.
Đặc trưng của việc lập đồ án quy hoạch và kế hoạch SDĐ cần phải
đáp ứng các điều kiện sau:Thứ nhất, nhà nước đại diện lợi ích của toàn thể
nhân dân, nhà nước phải bảo đảm quyền lợi cho tất cả các nhóm lợi ích.Thứ
hai, Nhà nước bảo đảm sự minh bạch và công bằng trong quy hoạch
SDĐLợi ích của các nhóm phải được nhận ra trong bản đồ án quy hoạch khi
có sự tham gia của các nhóm khi hình thành nên bản quy hoạch SDĐ. Thứ
ba, bảo đảm sự giám sát đối với việc thực hiện đồ án quy hoạch SDĐ.
Quy trình chính trị trong hoạt động trao QSDĐ tại Việt Nam có
những hạn chế sau: Thứ nhất, quy hoạch kế hoạch SDĐ là hoạt động định
hình thị trường BĐS nhưng không có sự tham gia của các chủ thể thị trường,
dẫn đến nhà nước có những quyết định không phù hợp với thị trường, không
tạo động lực cho sự phát triển thị trường BĐS. Thứ hai, vắng bóng sự tham
gia của các tổ chức dân sự trong quá trình lập quy hoạch, như các hiệp hội
KDBĐS, hiệp hội ngân hàng trong hoạt động tài trợ vốn cho các dự án và các
tổ chức dân sự khác liên quan đến sự phát triển bền vững, bảo vệ tài nguyên
môi trường, cảnh quan thiên nhiên. Thứ ba: đồ án quy hoạch lấy để ý kiến
nhân dân không chi tiết vẫn còn ở tầm vĩ mô nên người dân không thể hiểu
để đóng góp ý kiến một cách hiệu quả. Thứ tư, không có căn cứ thể hiện các
chuyên gia lập tư vấn thật sự vô tư khách quan, không thiên vị trong việc lập
quy hoạch với các nhà chính trị hoặc các NĐT. Thứ năm, không có sự tham
gia của cơ quan tư pháp với tư cách giám sát việc thực hiện pháp luật của cơ
quan hành pháp trong quá trình lập quy hoạch kế hoạch SDĐ.
Một trong những hạn chế trên bắt nguồn từ nguyên nhân về điều kiện
kinh tế xã hội. Theo GS Marchenco thì “Đây là những hiện tượng quá trình
xã hội mang nội dung kinh tế, phát sinh trong hoạt động sản xuất, phân phối
và lưu thông, bao gồm cả việc đề ra, tổ chức và thực hiện các chính sách
nhằm phát triển kinh tế xã hội”15.
15
Dẫn theo Phan Anh Tuấn (7/2017), “Vi phạm pháp luật”, Tài liệu hội thảo Những vấn đề lý
luận về Nhà nước và Pháp luật, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.107.
14
3.1.2. Quy trình hành chính, chủ thể và căn cứ trao quyền sử dụng đất
Quy trình hành chính là giai đoạn tổ chức thực hiện đồ án quy hoạch
và kế hoạch SDĐ đã được phê duyệt trong quy trình chính trị. Đây là giai
đoạn quy hoạch và kế hoạch SDĐ tác động đến xã hội nhằm đạt được mục
tiêu đã đặt ra.Ở các nước cũng như Việt Nam quy trình này được thực hiện
bởi cơ quan quản lý hành chính, đứng đầu là Chính phủ (Điều 49 LĐĐ
2013). Chính phủ được chia thành các cấp hành chính là cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, cấp quận, huyện và cấp xã. Mỗi cấp hành chính sẽ
được phân cấp chức năng riêng. Sự thành công của đồ án quy hoạch, kế
hoạch SDĐ của địa phương phụ thuộc một phần vào việc tổ chức hệ thống
phân phối QSDĐ.Hệ thống các cơ quan phân phối QSDĐ được tổ chức theo
mô hình phân quyền, phân cấp.
Hệ thống giám sát, kiểm soát việc thực hiện quy hoạch kế hoạch nhằm
đảm bảo các lợi ích công cộng, hạn chế sự lạm dụng quyền lực của các quan
chức, thúc đẩy nền tảng dân chủ. Sự tham gia của công chúng nhằm giữ
người ra quyết định có trách nhiệm bằng cách yêu cầu họ giải trình cho
những quyết định của mình.
Công cụ thực hiện quy hoạch kế hoạch SDĐ là những quyết định hành
chính, nhưng mỗi quốc gia có mức độ giới hạn khác nhau trong quyết định
hành chính của mình. Quyết định hành chính phải đảm bảo tính hợp pháp và
hợp lý. Để bảo đảm cho quyết định hành chính được thi hành, các nước xây
dựng một khuôn khổ pháp lý nhằm hỗ trợ và bảo vệ những người tôn trọng
các cam kết cũng như ngăn ngừa và chế tài sự vi phạm các quy định trong việc
SDĐ. Ngoài thẩm quyền xét xử được trao cho tòa án theo cách truyền thống,
một số quốc gia trên thế giới đã tổ chức tòa chuyên trách cho lĩnh vực đất đai.
3.1.2.1.Chủ thể trao quyền sử dụng đất tại Việt Nam
Tại Việt Nam đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhưng “toàn dân là một
khái niệm chính trị mà không phải là một khái niệm pháp lý, điều đó có
nghĩa toàn dân là một cộng đồng người bao gồm 90 triệu người Việt Nam
không thể là chủ thể của một quan hệ pháp luật chủ sở hữu đất đai”16. Luật
Tổ chức chính phủ trao quyền cho Chính phủ Việt Nam thực hiện chức năng
đại diện chủ sở hữu đối với các tài sản công thuộc sở hữu toàn dân. Thẩm
quyền giao đất và cho thuê đất tại Việt Nam được phân quyền theo hạn mức
diện tích đất, quy mô của dự án có SDĐvà đối tượng SDĐ. Hiện nay, trên
phạm vi cả nước tổng số cơ quan có thẩm quyền trao quyền SDĐ tại Việt Nam là
11.940 cơ quan, từ Trung ương đến địa phương.Thẩm quyền trao QSDĐ còn
16
Nguyễn Quang Tuyến, Hà Văn Hòa, “Cấu trúc quyền sở hữu toàn dân về đât đai và vấn đề
giám sát quyền của đại diện chủ sở hữu về đất đai ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật số 6/2016, tr.70.
15
được giao cho các cơ quan chuyên môn thuộc chính phủ như các bộ và cơ
quan ngang bộ.Theo thống kê hiện nay, Việt Nam có 18 bộ và 4 cơ quan ngang
bộ.Như vậy, cấu trúc phân quyền đại diện sở hữu toàn dân để định đoạt về
đất đai được phân tán cho nhiều cơ quan nhà nước khác nhau.
Việt Nam thực hiện chính sách phân quyền phân cấp giữa Trung ương
và chính quyền địa phương, thực hiện quy hoạch vùng, chính sách vùng và
chính sách cạnh tranh giữa các vùng là hướng đi đúng. Mô hình phân quyền,
phân cấp về kinh tế, quản lý hành chính theo mô hình chính quyền cấp trung
ương và cấp chính quyền địa phương là phù hợp với xu hướng và mô hình tổ
chức của các nước trên thế giới. Điều này sẽ giúp cho quyền đại diện về sở
hữu đất đai sẽ được phân định rõ ràng giữa QSDĐ chưa trao cho NSDĐ và
QSDĐ vẫn còn thuộc quyền đại diện của chính quyền địa phương nhằm
chuyển QSDĐ chưa trao vào hoạt động KDBĐS được hiệu quả.
Trong phạm vi thẩm quyền được trao, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy
ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm xây dựng tổ chức bộ máy quản lý
đất đai tại địa phương (Điều 4 Nghị định 43/NĐ-CP). Theo đó, cơ quan có
thẩm quyền được phép thành lập đơn vị sự nghiệp công lập nhằm cung cấp
dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước (Điều 9 Luật Viên chức năm 2010),
theo đó đơn vị sự nghiệp công lập và các cơ quan chuyên môn có liên quan
trực tiếp đến hoạt động trao QSDĐ gồm:Thứ nhất, Tổ chức phát triển quỹ
đất; Thứ hai, Sở Tài nguyên và Môi trường; Thứ ba, Phòng Tài nguyên và
Môi trường; Thứ tư, Sở Xây dựng; Thứ năm, Sở Kế hoạch và Đầu tư;
Thứsáu, Ban quản lý khu kinh tế.Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan có
thẩm quyền chung có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn, phối hợp, kiểm tra và
tổ chức thực hiện việc “đóng gói” hàng hóa để chuyển QSDĐ vào lưu thông
trong quy trình dân sự.
Thẩm quyền trao QSDĐ từ nhà nước cho các chủ thể KDBĐS được
phân quyền, phân cấp từ chính quyền trung ương đến chính quyền địa
phương, nhưng chính quyền địa phương chỉ có vai trò quản lý hành chính tài
sản là QSDĐ thuộc lãnh thổ của mình mà không có thẩm quyền điều phối
cho hoạt động phát triển kinh tế.
3.1.2.2.Căn cứ trao quyền sử dụng đất tại Việt Nam
Với quy định về thẩm quyền trao QSDĐ gắn liền với trình tự thủ tục
trong trao QSDĐ là các cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Do đó, khi
thực hiện hoạt động trao QSDĐ cho các NĐT các cơ quan có thẩm quyền
căn cứ vào các quy định đã được xác định trong văn bản pháp luật để làm
chuẩn mực, nhằm khẳng định rằng quyết định được ban hành là hợp pháp và
có giá trị thi hành. Hoạt động trao QSDĐ căn cứ vào kế hoạch SDĐhàng
năm của cấp huyệnđã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và
16
nhu cầu SDĐthể hiện trong dự án đầu tư, đơn xin giao đất, thuê đất, chuyển
mục đích SDĐ.
3.1.3. Quy trình dân sự
Quy trình dân sự là quy trình lưu thông hàng hóa, là quá trình lưu thông
những giá trị trao đổi, được xác định dưới hình thức giá cả. Ở quy trình này
nhà nước chuyển QSDĐ đã được đóng góitừ quy trình hành chính vào lưu
thông qua cơ chế thị trường.Chính phủ đóng vai trò điều tiết nền kinh tế thông
qua nhiệm vụ xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế kinh tế thị trường. Ba
nguyên tắc thị trường trong quy trình dân sự gồm:nguyên tắc bình đẳng,
nguyên tắc cạnh tranh và nguyên tắc minh bạch.Hình thức quản lý mang tính
pháp lý của hoạt động trao QSDĐ từ nhà nước cho các chủ thể KDBĐS tại
quy trình dân sự là hợp đồng thỏa thuận hay quyết định hành chính.
Quá trình chuyển QSDĐ từ nhà nước vào trong giao lưu dân sự của
Việt Nam qua ba hình thức là giao đất, cho thuê đất và công nhận QSDĐ là
cơ sở hình thành thị trường QSDĐ sơ cấp.
Giao đất và cho thuê đất thông qua hình thức đấu giá QSDĐ và hình
thức không đấu giá QSDĐ, chỉ định NĐT. Theo đó, hình thức đấu giá
QSDĐ mang đặc trưng của quy trình dân sự, là quá trình đưa hàng hóa vào
lưu thông QSDĐ đã được đóng gói và định giá bằng quyết định bán đấu giá
QSDĐ, giá trị sử dụng đã được chuyển thành giá trị trao đổi trên thị trường,
đồng thời phải tuân theo các nguyên tắc của thị trường.
Những bất cập và nguyên nhân cơ bản của quy trình trao quyền sử
dụng đất tại Việt Nam:
Thứ nhất, nhà nước chưa quản lý tốt diện tích đất chưa trao cho
NSDĐ “đất công” do chưa có cơ chế phân biệt đất chưa trao cho người sử
dụng đất đi kèm với thẩm quyền quản lý loại đất này.
Thứ hai, Nhà nước mất kiểm soát về hoạt động trao quyền đối với
QSDĐ chưa trao cho NSDĐ vào khu vực tư nhân do thẩm quyền trao QSDĐ
bị phân tán cho nhiều cơ quan khác nhau.
Thứ ba, cơ chế phân quyền phân mảnh chức năng của các cơ quan có
thẩm quyền chuyên môn dẫn đến nhiều cơ quan cùng chịu trách nhiệm,
nhưng không có cơ quan nào chịu trách nhiệm chính. Từ đó, quyền và nghĩa
vụ của NSDĐ không được tích hợp vào chung một văn bản quản lý mang
tính pháp lý của cơ quan có thẩm quyền.
Thứ tư, Nhà nước chưa sẵn sàngchuyển QSDĐ vào lưu thông trong
quy trình dân sự, hàng hóa là QSDĐ không có sẵn trên thị trường hoặc
không cung cấp kịp thời trên thị trường. Không tồn tại sự cạnh tranh giữa
những người mua với nhau. Thực trạng này bắt nguồn từ hai nguyên nhân
sau: Thứ nhất, cơ chế thị trường chưa được xem trọng trong hoạt động trao
17
QSDĐ. Thứ hai, thị trường đất đaisơ cấp đã được hình thành trên văn bản
pháp luật nhưng trên thực tế kém phát triển và kém hoàn thiện, “gần như
chưa có thị trường đất đai sơ cấp”17.
Tác giả W. Zimmermann cho rằng, trong các nền kinh tế kế hoạch tập
trung trước đây quản lý đất công là sai lầm và gây tranh cãi vì nó bị chi phối bởi
một quy trình từ trên xuống mà khuyến khích ủng hộ cho lợi ích đặc biệt và thúc
đẩy phân cực để có được ân huệ đó, QSDĐcông thường được chuyển giao
thông qua quy tắc của quá trình quyền lực chứ không phải là một cơ chế thị
trường minh bạch18.
Trong quy trình dân sự bên cạnh những bất cập nêu trên thì những thành
công ban đầu cần được nhìn nhận, mặc dù việc ký kết hợp đồng cho thuê đất
không thể hiện việc thương lượng giữa hai bên nhưng đây là cơ sở để bên trao
và bên nhận căn cứ thực hiện việc quản lý và SDĐ. Sự tiến bộ của việc ký kết
hợp đồng là hai bên đã khá độc lập khỏi bộ máy hành chính nhà nước.
Đánh giá ba quy trình trên, có thể kết luận toàn bộ quy trình trao
QSDĐ từ nhà nước cho các chủ thể KDBĐS tại Việt Nam tập trung chủ yếu
ở quy trình hành chính là những hoạt động thuộc cơ quan hành pháp. Quy
trình dân sự chưa được chú trọng, nên QSDĐ ít được đưa vào lưu thông
trong quy trình dân sự.
3.2. Hoạt động phân phối đất công của một số quốc gia trên thế giới
Nghiên cứu hoạt động phân phối đất đai của Hoa Kỳ, Pháp và Trung
Quốc rút ra những bài học kinh nghiệm sau:
Thứ nhất, Hoa Kỳ và Pháp là hai quốc gia có bộ máy tổ chức chính
quyền với mô hình là pháp nhân công. Một đặc điểm nổi bật của pháp nhân
công là toàn bộ tài sản thuộc khu vực công đều được hạch toán vào tài khoản
của pháp nhân công. Việc thực thi các quyền liên quan đến tài sản thuộc sở
hữu của pháp nhân công do các đại biểu dân cử thực hiện dưới sự giám sát
trực tiếp hoặc gián tiếp của cử tri.Quy trình chính trị đã huy động được các
nhóm lợi ích, các tổ chức xã hội và nhân dân tham gia vào quy trình xây
dựng quy hoạch kế hoạch SDĐ.
Thứ hai, Trung Quốc là quốc gia thuộc khối XHCN nhưng chính sách
tái cơ cấu bộ máy chính quyền địa phương cũng theo mô hình doanh nghiệp
địa phương nhằm kiểm soát thị trường thay thế cách thức kiểm soát theo kế
hoạch trước đây.
17
Nhóm ngân hàng Thế giới, Bộ kế hoạch và đầu tư (2014), Việt Nam 2035 hướng tới thịnh
vượng, sáng tạo, Công bằng và Dân chủ, báo cáo tổng quan. Tr.39 www.worldbank.org.
18
W. Zimmermann (2007), cố vấn chính sách đất đai của tổ chức Lương thực và Nông nghiệp
Liên Hiệp Quốc FAO (Food and Agriculture Organization of the United Nations), Good
governance in public land management, http://www.fao.org truy cập ngày 17/2/2017, tr.32.
18
Thứ ba, cả ba nước nghiên cứu đều phân cấp kinh tế khá mạnh mẽ cho
chính quyền địa phương là cấp tiểu Bang tại Hoa Kỳ, cấp tỉnh tại Pháp và
Trung Quốc. Chính quyền địa phương được sở hữu một số lượng đất đai nhất
định và có nhiều quyền tự chủ trong những quyết định SDĐdựa trên quy
hoạch chung ở cấp quốc gia. Các chính quyền địa phương được giữ nguồn thu
từ đất đai được phân cấp phục vụ cho việc phát triển kinh tế địa phương. Đây
cũng chính là động lực giúp ba nước nghiên cứu SDĐhiệu quả cho việc phát
triển kinh tế trong thời gian vừa qua.
Thứ tư, ở quy trình dân sự, cảba nước Hoa Kỳ, Pháp và Trung Quốc
đã thành công trong việc “phân cấp thị trường”19, nhà nước đã chuyển giao
một số chức năng từ khu vực công sang khu vực tư và từ Nhà nước sang thị
trường, dưới hình thức kết hợp với các tổ chức thuộc khu vực tư nhân theo
mô hình đối tác công tư (PPP) trong phạm vi quản trị hợp đồng SDĐ.
Thứ năm, cả ba nước Hoa Kỳ, Pháp và Trung Quốc đều tạo ra cơ chế
thỏa thuận đàm phán với mô hình hợp đồng khi trao QSDĐ đây là mô hình
cơ bản trong cơ chế điều phối thị trường. Mô hình này tạo ra sự bình đẳng
giữa cơ quan nhà nước và các chủ thể nhận QSDĐ cũng như các bên nhận
chuyển nhượng QSDĐ với nhau.
Thứ sáu, hoạt động trao quyền sử dụng đất từ các nước nghiên cứu thể
hiện ba nguyên tắc khung mà các nước áp dụng trong hoạt động trao
quyền sử dụng đất là nguyên tắc phát triển bền vững, nguyên tắc quản
trị hiệu quả và nguyên tắc công bằng.
3.3. Định hướng và kiến nghị về quy trình, chủ thể và căn cứ trao
quyền sử dụng đất tại Việt Nam
Các định hướng về quy trình, chủ thể và căn cứ trao quyền sử dụng
đất thể hiện trong các Báo cáo chính trị, Nghị quyết của Đảng và các văn bản
pháp luật như: đổi mới cơ chế, phân cấp, phân quyền gắn với phân định và
nâng cao trách nhiệm của Trung ương và địa phương; Thực hiện quy hoạch
vùng, chính sách vùng; tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ
chính trị; tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thị
trường BĐS vận hành thông suốt, phù hợp với quy luật cung – cầu nhằm
khai thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn lực từ đất đai và tài sản ngăn
ngừa đầu cơ, lãng phí; đổi mới công tác lập quy hoạch, kế hoạch SDĐ, xây
dựng cơ sở dữ liệu về đất đai, thúc đẩy SDĐ tiết kiệm, hợp lý và hiệu quả.
Hoàn thiện quy trình trao QSDĐ, trong đó quy trình chính trị thể hiện
vai trò nhà nước tạo lập và quản lý thị trường bất động sản và chủ động tham
19
Vũ Thành Tự Anh (Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright), “Phân cấp quản lí kinh tế ở
Việt Nam: Nhìn từ góc độ thể chế”, tr. 4. truy cập ngày 4/10/2016 từ www.fetp.edu.vn,
- Xem thêm -