Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Pháp luật về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh phú yên...

Tài liệu Pháp luật về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh phú yên

.PDF
124
464
65

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ............…/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÊ THỊ LANH PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ YÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HIẾN PHÁP - LUẬT HÀNH CHÍNH Mã số: 60 38 01 02 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ THỊ HƢƠNG THỪA THIÊN HUẾ-NĂM 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Học viên Lê Thị Lanh Lời Cảm Ơn Với lòng kính trọng và sự tri ån såu sắc, trước tiên tôi xin gửi lời câm ơn chån thành đến quý Thæy, Cô Học viện Hành chính Quốc gia đã trang bị cho tôi nhiều kiến thức quý báu trong suốt thời gian qua. Đặc biệt, tôi xin chån thành câm ơn PGS. TS. Lê Thị Hương đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn tận tình từ lúc định hướng chọn đề tài cũng như quá trình hoàn thiện nghiên cứu, cô luôn động viên và täo mọi điều kiện thuận lợi để giúp tôi có thể hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin câm ơn các bän bè, đồng nghiệp đã luôn quan tåm giúp đỡ, cung cçp rçt nhiều số liệu, chia sẻ nhiều kinh nghiệm thực tế để giúp tôi có thể hoàn thành nghiên cứu này. Trån trọng! Thừa Thiên Huế, tháng năm 2017 Học viên Lê Thị Lanh MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ........................................................................................ 7 1.1. Quan niệm về thi hành án dân sự ....................................................................... 7 1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự.................................................................7 1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự ........................................................11 1.1.3. Vai trò của thi hành án dân sự.............................................................13 1.1.4. Phân biệt thi hành án dân sự với thi hành án hình sự ......................15 1.2. Pháp luật về thi hành án dân sự ........................................................................16 1.2.1. Khái niệm pháp luật về thi hành án dân sự ........................................16 1.2.2. Nội dung của pháp luật về thi hành án dân sự ..................................18 Chương 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH PHÚ YÊN..................................... 40 2.1. Thực trạng thi hành án dân sự tại tỉnh phú yên ...............................................40 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên ......................................................................................................40 2.1.2. Kết quả thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên từ năm 2011 đến nay ..46 2.1.3. Nhận xét về tình hình thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên ................51 2.2. Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên ............................................................................................................................57 2.2.1. Thực trạng pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên............57 2.2.2. Thực trạng thi hành pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên ............................................................................................................................60 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................ 79 3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự ..................................79 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền con người của nhà nước pháp quyền ..........................79 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự phải phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về thi hành án dân sự ................80 3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự phải nhằm phát huy vai trò của cá nhân, tổ chức và nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự..........81 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam .........83 3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động thi hành án dân sự đạt hiệu quả ....................83 3.2.2. Kiện toàn tổ chức, bộ máy cơ quan thi hành án và nâng cao năng lực hoạt động của đội ngũ chấp hành viên ...................................................89 3.2.3. Tăng cường kiểm tra, thanh tra công tác thi hành án dân sự nhằm bảo đảm kỷ cương và nâng cao chất lượng hiệu quả công tác thi hành án dân sự .................................................................................................................94 3.2.4. Tăng cường các biện pháp giải quyết các vụ việc thi hành án dân sự tồn đọng ....................................................................................................................95 3.2.5. Tăng cường sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và phát huy vai trò của hệ thống chính trị trong công tác phối hợp thi hành án dân sự ............................................................................................97 3.2.6. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và chấp hành viên trong công tác tổ chức thi hành án dân sự ..................................................101 3.2.7. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, thông tin pháp luật về thi hành án dân sự cho các cá nhân, tổ chức, cơ quan có liên quan đến thi hành án dân sự .........................................................................103 3.2.8. Thực hiện xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự .......................106 KẾT LUẬN .................................................................................................. 110 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 112 DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Tổng số việc qua các năm............................................................... 47 Bảng 2.2. Kết quả thi hành án về việc ............................................................ 47 Bảng 2.3: Tổng số tiền và giá trị hiện vật qua các năm .................................. 49 Bảng 2.4: Kết quả thi hành án dân sự về tiền ................................................. 49 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Thi hành án dân sự là hoạt động quan trọng nhằm đưa bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án, quyết định của Trọng tài thương mại, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra thi hành trong thực tế, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Điều 106 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”[34 ]. Thi hành án dân sự là một bộ phận trong chế định về thi hành án ở nước ta, được thực hiện bởi cơ quan có thẩm quyền nhằm đưa các bản án, quyết định dân sự được thực hiện trong thực tiễn. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa IX ngày 06/10/1992 và Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 [49], công tác thi hành án dân sự được Tòa án chuyển giao cho Bộ Tư pháp thống nhất quản lý từ trung ương đến địa phương. Trải qua gần 25 năm, công tác thi hành án dân sự đã có nhiều chuyển biến tích cực, đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Thực hiện Luật Thi hành án dân sự, các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Tổng cục thi hành án dân sự- Bộ Tư Pháp, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Phú Yên thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả đáng kể về mặt tổ chức bộ máy và về việc. Năm 2015 đã thi hành xong hơn 5.014việc, đạt 85,5% về việc, hơn 82% về tiền (vượt 5% so với chỉ tiêu của Bộ Tư Pháp giao). Năm 2016 đã đạt tỷ lệ 79% về việc với 5.073 việc đã giải quyết xong trên số có điều kiện thi hành (vượt 7% so với chỉ tiêu giao), thi hành xong hơn 130 tỷ 1 đồng, đạt 48% (vượt 15% so với chỉ tiêu giao). Các cơ quan thi hành án đã ra quyết định cưỡng chế nhiều vụ việc, hầu hết đều đảm bảo an toàn, đúng pháp luật, đảm bảo tình hình an ninh trật tự xã hội[19],[20] thành quả trên có vai trò to lớn của quá trình thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Phú Yên thời gian qua. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thi hành án dân sự hiện nay vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế như: Hệ thống văn bản pháp luật về thi hành án dân sự còn nhiều bất cập, vướng mắc; việc kiện toàn tổ chức, bộ máy theo quy định còn chậm; cơ sở vật chất vẫn còn nhiều khó khăn; tình trạng khiếu nại, tố cáo ngày càng diễn biến phức tạp; hoạt động phối hợp trong thi hành án dân sự chưa được nhịp nhàng và đồng bộ, hiệu quả chưa cao; kết quả công tác thi hành án dân sự hàng năm tăng chậm, không bền vững, án tồn đọng chuyển sang năm sau còn nhiều. Những bất cập này đã và đang làm giảm hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự, chưa đáp ứng được yêu cầu của pháp luật về thi hành án dân sự từ thực tiễn thi hành. Tại tỉnh Phú Yên, pháp luật về thi hành án dân sự tại địa phương còn tồn tại nhiều vấn đề đang đòi hỏi cần được nghiên cứu, hoàn thiện. Bên cạnh các bất cập chung xuất phát từ hệ thống pháp luật, thực trạng pháp luật về Thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Phú Yên còn nhiều hạn chế: Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thi hành án dân sự chưa chủ động; đội ngũ cán bộ, công chức còn thiếu về số lượng, chưa đáp ứng về chất lượng; sự phối hợp trong hoạt động thi hành án với các cơ quan, tổ chức chưa hiệu quả, sự khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn tổ chức thi hành... Hơn nữa, trên thực tế công tác thi hành án cũng chưa được các cấp, các ngành quan tâm xứng tầm với nhiệm vụ đặt ra, dẫn đến việc tổ chức thực hiện pháp luật về Thi hành án dân sự cũng gặp rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến việc làm giảm đáng kể 2 hiệu quả hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự, cần có các giải pháp để giải quyết tổng thể. Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật về Thi hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Phú Yên” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu về lĩnh vực thi hành án dân sự như sau: - Đề tài nghiên cứu khoa học: Đề tài cấp Bộ "Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án", mã số 96-98-027/ĐT do Cục Thi hành án dân sự Bộ Tư pháp thực hiện[6]; Đề tài cấp Nhà nước "Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" do Bộ Tư pháp chủ trì [7]. - Luận văn thạc sỹ: Luận văn thạc sĩ luật học "Quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự" của tác giả Hoàng Kim Chiến[13]; Luận văn thạc sĩ Luật học "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự" của tác giả Nguyễn Thanh Thủy[48]; Luận văn thạc sĩ luật học "Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam" của tác giả Lê Xuân Hồng[30]; Luận văn thạc sĩ luật học "Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Quang Thái [47]; - Các bài viết, chuyên đề, giáo trình: Giáo trình môn Luật Thi hành án dân sự của trường Đại học Luật Hà Nội[27]; Những nội dung cơ bản của Luật Thi hành án dân sự - Tiến sỹ Nguyễn Thanh Thủy, Thạc sỹ luật học Lê Anh Tuấn Cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp[46]; các bài viết chuyên khảo đăng trên các tạp chí dân chủ pháp luật, sách báo chuyên ngành Luật…[11] Tuy nhiên, chủ đề pháp luật về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Phú Yên thì chưa có nghiên cứu nào đề cập. Do vậy, phạm vi, nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu của đề tài là không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào trước đây. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cơ sở lý luận về pháp luật về Thi hành án dân sự hiện nay; Luận văn đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật Thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Phú Yên, trong chương trình tổng thể về cải cách tư pháp đến năm 2020 và trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 3.2. Nhiệm vụ - Luận văn có nhiệm vụ làm rõ cơ sở lý luận của pháp luật về THADS, vai trò của THADS; phân tích nội dung của pháp luật về Thi hành án dân sự. - Phân tích thực trạng pháp luật về Thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên, đánh giá những kết quả đã đạt được, những tồn tại, hạn chế của thực trạng thi hành pháp luật về THADS tại tỉnh Phú Yên và làm rõ nguyên nhân của những hạn chế đó. - Trên cơ sở đó, đưa ra các quan điểmvà giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật Thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Phú Yên. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng pháp luật về Thi hành án dân sự tại tỉnh Phú Yên. - Về thời gian: Luận văn nghiên cứu pháp luật về Thi hành án dân sự từ trước đến nay, tham khảo số liệu từ năm 2011 đến nay. 4 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu một cách khách quan dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước Việt Nam về thi hành án dân sự. - Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận, luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê và một số phương pháp khác để tiếp cận, nghiên cứu những vấn đề thuộc nội dung của đề tài. Luận văn cũng kế thừa, tham khảo một số tài liệu, một số cuộc khảo sát, các báo cáo liên quan đến thi hành án dân sự của Tổng cục Thi hành án dân sự, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên từ năm 2011 đến nay. 6. Những điểm mới của luận văn Luận văn đã đúc kết một số vấn đề lý luận của pháp luật về Thi hành án dân sự; đánh giá thực tiễn hoạt động thực hiện pháp luật về Thi hành án dân tỉnh ở Phú Yên; đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự, góp phần vào tăng cường hiệu lực của pháp luật đối với lĩnh vực thi hành án dân sự, đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới và hội nhập quốc tế ngày nay. Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên liên quan đến pháp luật về thi hành án dân sự từ thực tiễn của tỉnh Phú Yên. Vì vậy, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho tất cả cán bộ, công chức làm việc trong hệ thống cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Phú Yên nói riêng và tổ chức thi hành án trên toàn quốc. Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học tập, nghiên cứu hoặc bất kỳ ai quan tâm đến lĩnh vực này. 5 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, kết cấu và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về thi hành án dân sự Chương 2: Thực trạng thi hành án dân sự và pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay 6 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. Quan niệm về thi hành án dân sự 1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự Khi các cá nhân, tổ chức phát sinh tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết, phán quyết của Tòa án chỉ là kết quả về mặt pháp lý. Để bảo vệ quyền lợi của mình trên thực tế, bên thắng kiện phải yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Việc tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án được gọi là thi hành án dân sự (THADS). THADS là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng dân sự, giai đoạn kết thúc quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự và người có quyền và lợi ích liên quan theo bản án, quyết định của Tòa án được tổ chức thi hành trên thực tế. Đó là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và theo các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm đưa bản án, quyết định của Toà án ra thi hành trên thực tế, bảo đảm tính hiệu lực của các bản án, quyết định dân sự của Tòa án bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, người có quyền và lợi ích liên quan. Trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án, hoạt động THADS còn góp phần phát hiện sai sót của các quá trình tố tụng dân sự của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật hoặc làm ảnh hưởng đến quyền lợi cho công dân, đương sự và không phù hợp với hiện trạng thực tế như lĩnh vực về đất đai, nhà ở, công trình kiến thúc xây dựng…, từ đó kiến nghị đến Tòa án có thẩm quyền kịp thời xét xử lại nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên đương sự, người có quyền và lợi ích liên quan; chỉ đạo công tác xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật và kiến nghị trong việc xây dựng pháp luật. Tuy nhiên, việc tổ 7 chức THADS không những chỉ đối với các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà còn phải tổ chức thi hành đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực nhưng phải thi hành ngay trong những trường hợp pháp luật quy định cụ thể tại Điều 2, Khoản 2 của Luật Thi hành án dân sự “Những bản án, quyết định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị: a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc;b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời” [ 37]. Do đó, THADS là hoạt động đặc thù và rất phức tạp, có nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau về tính chất của hoạt động THADS. Để xác định được là hoạt động tư pháp hay hoạt động hành chính, phân tích các quan điểm sau đây: Quan điểm thứ nhất cho rằng: hoạt động THADS là một hoạt động tư pháp vì nó là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn xét xử không thể thiếu trong quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, luôn gắn liền với các giai đoạn tố tụng và được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng Dân sự. Do đó THADS chính là một hoạt động tư pháp là giai đoạn cuối của tố tụng dân sự. Tuy nhiên, quan điểm này lại không lý giải được một vấn đề thực tiễn pháp lý đang thừa nhận đó là cơ quan THADS không phải là cơ quan tiến hành tố tụng, chấp hành viên (CHV) THADS không phải là người tiến hành tố tụng. Quan điểm thứ hai cho rằng: hoạt động THADS không phải là hoạt động tư pháp, bởi vì không những thi hành các vụ án dân sự, mà còn có trình tự, thủ tục thi hành phần dân sự trong các bản án hình sự, kinh doanh thương mại, hành chính, lao động…, trình tự tổ chức thi hành theo một trình tự thủ tục hành chính. Do đó nó là một loại hoạt động hành chính [3]vì bản chất, 8 mục đích của thi hành án dân sự khác hoàn toàn với tố tụng, không thể gắn nó với hoạt động tố tụng dân sự. Quan điểm này xuất phát từ bản chất và mục đích của tố tụng dân sự là xác định sự thật khách quan của các vụ án dân sự, vụ việc dân sự để đưa ra các phán quyết đúng theo quy định của pháp luật. Để có được các phán quyết đó, các cơ quan tiến hành tố tụng, các cá nhân tiến hành tố tụng tham gia theo một quy trình tố tụng chặt chẽ, công khai và minh bạch. Còn hoạt động THADS lại là một quy trình đi ngược lại với quy trình thủ tục, tố tụng. Cơ quan THADS thường phải đưa ra một quyết định mang tính hành chính dựa trên một văn bản cá biệt (văn bản áp dụng pháp luật) để điều chỉnh hoạt động của cá nhân, đối tượng phải có nghĩa vụ thi hành án và chủ thể được thi hành án. Ngoài ra, THADS còn có thể coi là hoạt động hành chính vì bản chất, hoạt động này là hoạt động chấp hành và điều hành, theo đó mà nó mang tính quản lý hành chính nhà nước rõ nét. Tuy nhiên, nếu xem THADS là hoạt động hành chính thì sẽ khó lý giải với những trường hợp người được THADS không làm đơn yêu cầu THADS thì cơ quan THADS không thể có cơ sơ để thực hiện (trừ trường hợp bắt buộc để bảo vệ những người không có khả năng tự mình thực hiện các quyền của họ) và qua đó có thể áp dụng các phương pháp hành chính như: mệnh lệnh, quyền uy để đưa ra các biện pháp cưỡng chế THADS được, do đó yếu tố hành chính không hoàn toàn được thỏa mãn. Ngoài ra, yếu tố hành chính cũng không hoàn toàn được thỏa mãn khi chế định Thừa phát lại được thí điểm áp dụng, khi việc THADS không chỉ do các cơ quan nhà nước (cơ quan thi hành án) thực hiện mà có thể do các tổ chức như thừa phát lại hoặc được chính các chủ thể phải thi hành án tự nguyện thực hiện trên cơ sở của những phương pháp có tính chất dân sự như thỏa thuận, tự định đoạt (trong những phạm vi nhất định). Quan điểm thứ ba cho rằng, THADS là hoạt động “lưỡng tính”, vừa mang tính chất hành chính, vừa mang tính chất tư pháp chứ không thể chỉ có 9 riêng tính chất hành chính, hoặc riêng tính chất tư pháp. THADS là một hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, do cơ quan THADS và CHV thực hiện nhằm đưa quyết định của các bản án, quyết định về dân sự của Toà án đi vào thực tiễn cuộc sống. Hoạt động THADS trên thực tế luôn gắn liền với quy trình tố tụng nói chung và quy trình tố tụng dân sự nói riêng, gắn với quyền lực hành pháp. Đồng thời, cũng qua hoạt động THADS, các cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ phải THADS phải thực hiện đầy đủ các trách nhiệm của mình. Trong trường hợp không thi hành quyết định thi hành án thì cá nhân, tổ chức đó phải chịu sự cưỡng chế của Nhà nước thông qua các cơ quan có chức năng, nhiệm vụ liên quan. Tuy nhiên, việc thi hành án không chỉ do các chủ thể có thẩm quyền thực hiện mà có khi nó được thực hiện một cách tự giác bởi người có nghĩa vụ thi hành án. Khi nào các bản án, phán quyết không được thi hành một cách tự nguyện bởi người có nghĩa vụ thì hoạt động cưỡng chế thi hành án của chủ thể có thẩm quyền mới cần phải thực hiện. Cả ba quan điểm trên đều có điểm hợp lý nhưng theo tác giả, quan điểm thứ ba là phù hợp hơn cả. Bởi vì, xuất phát từ các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở nước ta, có thể nói rằng, THADS là hoạt động đặc thù, vừa có tính chất của hoạt động hành chính, vừa có tính chất của hoạt động tư pháp. Từ những phân tích nêu trên, có thể hiểu: Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định để đưa bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật được thực hiện trên thực tế, là giai đoạn cuối cùng của quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong các quan hệ dân sự. 10 1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự THADS là hoạt động phức tạp với những đặc điểm sau: Thứ nhất, THADS là hoạt động liên quan đến quyền lực nhà nước. Nó bao gồm nhiều hoạt động của nhiều chủ thể khác nhau nên đòi hỏi sự tham gia của chủ thể không chỉ các cơ quan hành chính nhà nước mà cả các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp cũng như của chính người có nghĩa vụ thi hành án. Do đó, như đã phân tích, việc thực hiện quyền lực nhà nước trong THADS là sự ''lưỡng tính” giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp. Tuy nhiên, khác với THAHS, THADS không hoàn toàn mang tính quyền lực nhà nước do có sự tham gia của chủ thể không mang quyền lực nhà nước, có hoạt động thực hiện các phán quyết của các chủ thể được nhà nước trao quyền hoặc công nhận (phán quyết của trọng tài), cho phép tồn tại sự thỏa thuận giữa các bên. Vì vậy THADS không hoàn toàn dùng các biện pháp cứng nhắc của quyền lực nhà nước. Thứ hai, THADS là hoạt động có mục đích là để thực hiện lợi ích của người được thi hành án. Hoạt động THADS không chỉ nhằm mục đích giữ vững kỷ cương, phép nước, giữ vững giá trị của pháp luật mà còn nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức, nhà nước là đối tượng trực tiếp được thi hành án. Đồng thời THADS còn phải đảm bảo lợi ích hợp pháp của những người có liên quan đến tài sản là đối tượng trong các quyết định THADS. Thứ ba, THADS chủ yếu là hoạt động thi hành bản án, quyết định của Toà án về tài sản nên tính chất dân sự mà tài sản mang lại có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định tính chất của quan hệ pháp luật là quan hệ pháp luật dân sự. Tính tự nguyện, tự định đoạt từ phía người được THADS được tôn trọng. Do đó, trong quá trình THADS, cơ quan THADS luôn luôn bảo đảm quyền tự nguyện, tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm với sự lựa chọn thực hiện hay không thực hiện của đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến 11 thi hành án mà cơ quan này không được tự tiện can thiệp. Thứ tư, THADS là hoạt động có ý nghĩa trong việc góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của hiệu lực xét xử Quá trình xét xử phải tuân thủ chặt chẽ các qui định của pháp luật về trình tự thủ tục tố tụng. Chủ thể tiến hành tố tụng đều là những người có uy tín, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao nhưng xuất phát từ đặc điểm tính chất vụ án dân sự đa dạng, phức tạp. Trong khi đó qui định của pháp luật về nội dung cũng như qui định về thủ tục tố tụng nhiều khi còn chưa chặt chẽ, thiếu sót dẫn đến có những bản án, quyết định tuyên không rõ ràng, không khả thi ở thực tế. Cơ quan THADS, CHV không chỉ làm cho các bản án hoặc phán quyết được tôn trọng mà còn có thể phát hiện ra những sai lầm của bản án, quyết định của Toà án mà họ đang thi hành thì có quyền kiến nghị với người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng để bản án hay quyết định đó được xét xử lại theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Như vậy, THADS chính là giai đoạn kiểm nghiệm qua thực tiễn những bản án, quyết định của Tòa án, phản ảnh trung thực, chất lượng và hiệu quả của toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Từ thực tiễn thi hành án mà mỗi Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm nhân dân, thư ký Tòa án có thể rút ra bài học kinh nghiệm khắc phục những khiếm khuyết, nâng cao chất lượng xét xử, bảo đảm tính khả thi cao của bản án, quyết định của Tòa án. Thứ năm, THADS là hoạt động không mang tính áp đặt đơn phương thuần túy như thi hành án hình sự. THADS có thể có sự hợp tác của các chủ thể khác, điều này có thể thấy rất rõ khi các chủ thể có nghĩa vụ thi hành các bản án đã tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc khi có sự tham gia của Thừa phát lại. Mặt khác, THADS chỉ do cơ quan thi hành án thực hiện khi có sự yêu cầu của người được thi hành bản án hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và chủ động thi hành trong những trường hợp pháp luật quy định 12 như các khoản thi hành theo khoản 1, Điều 36 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014[37]. Ngay trong quá trình thi hành án, các chủ thể thi hành án còn có nghĩa vụ thuyết phục các bên thỏa thuận hoặc hòa giải với nhau để cho bản án được thực hiện một cách thuận lợi, đạt hiệu quả cao, đồng thời phải tôn trọng sự thỏa thuận ấy mà không cần phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án. Vì vậy, không phải bao giờ hoạt động thi hành án cũng chỉ là thực hiện quyền lực nhà nước một cách thuần túy để áp đặt cho các đương sự liên quan đến phán quyết. 1.1.3. Vai trò của thi hành án dân sự THADS có vai trò rất quan trọng trong hoạt động tố tụng nói chung và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Đó là công đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng, bảo đảm cho các bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành nghiêm chỉnh, góp phần tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, thể hiện ở các khía cạnh sau. Một là, hoạt động THADS bảo đảm cho bản án, quyết định của Toà án được chấp hành trong thực tế. Mọi quyết định, bản án của toà án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền chỉ thực sự có giá trị khi được thực hiện trong thực tế. Nếu không có “giai đoạn” thi hành án, rất khó trông chờ vào sự tự nguyện chấp hành của các chủ thể có liên quan, đặc biệt là đối với chủ thể bắt buộc phải chấp hành. Việc THADS được thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước sẽ bảo đảm tính hiệu lực cho bản án, quyết định của tòa án và các quyết định của cơ quan có thẩm quyền được thực hiện. Hai là, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội. Pháp luật là công cụ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Việc quyết định, bản án của Tòa án và quyết định khác của cơ quan 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan