Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật về quảng cáo thương mại qua mạng internet ở việt nam...

Tài liệu Pháp luật về quảng cáo thương mại qua mạng internet ở việt nam

.PDF
93
401
130

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................................ 1 1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................................ 1 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài .................................................................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................... 2 3.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................... 2 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................... 2 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 2 4.1 Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................... 2 4.2 Phạm vi nghiên cứu .................................................................................................. 3 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .................................................................... 3 6. Kết quả mới của luận văn ..................................................................................................... 3 7. Kết cấu của luận văn ............................................................................................................ 3 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI QUA MẠNG INTERNET VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI QUA MẠNG INTERNET4 1.1 Khái niệm quảng cáo và quảng cáo thương mại ............................................................ 4 1.1.1 Khái niệm, đặc điểm quảng cáo ............................................................................. 4 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm quảng cáo thương mại ........................................................... 6 1.1.3 Phân loại hoạt động quảng cáo theo phương tiện quảng cáo ................................... 9 1.2 Khái quát, đặc điểm quảng cáo thương mại qua mạng Internet ................................... 10 1.2.1 Khái niệm về mạng Internet ................................................................................. 10 1.2.2 Khái niệm quảng cáo thương mại qua mạng Internet ........................................... 10 1.2.3 Đặc điểm của quảng cáo thương mại qua mạng Internet ..................................... 11 1.2.4 Sự cần thiết của việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động quảng cáo thương mại qua mạng Internet ....................................................................................... 13 1.2.5 Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về quảng cáo và quảng cáo thương mại qua mạng Internet ở Việt Nam ..................................................................... 15 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI QUA MẠNG INTERNET Ở VIỆT NAM .................................................................................................... 19 2.1. Quy định pháp luật hiện hành về quảng cáo thương mại qua mạng Internet ở Việt Nam .. 19 2.1.1 Chủ thể của quan hệ pháp luật quảng cáo thương mại qua mạng Internet. .......... 19 2.1.2 Các hình thức quảng cáo thương mại qua mạng Internet ....................................... 34 2.1.3 Đối tượng quảng cáo thương mại qua mạng Internet ............................................. 36 4 2.1.4 Phương tiện quảng cáo thương mại qua mạng Internet ......................................... 40 2.1.5. Điều kiện kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại qua mạng Internet .............. 44 2.1.6 Quản lý nhà nước đối với hoạt động quảng cáo thương mại qua mạng Internet..... 49 2.2 Thực trạng thực hiện pháp luật quảng cáo thương mại qua mạng Internet ở Việt Nam 59 2.2.1 Những thành tựu đạt được ................................................................................... 59 2.2.2 Những hạn chế, bất cập ....................................................................................... 64 2.2.3. Nguyên nhân những hạn chế, bất cập ................................................................... 71 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI QUA MẠNG INTETNET Ở VIỆT NAM 73 3.1 Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại qua mạng Internet ... 73 3.1.1 Phương hướng chung về hoàn thiện pháp luật quảng cáo thương mại qua mạng Internet .......................................................................................................................... 73 3.1.2 Một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại qua mạng Internet ................................................................................................... 75 3.2 Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật quảng cáo thương mại qua mạng Internet ở Việt Nam ........................................................................................................... 81 3.2.1 Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quảng cáo thương mại tới các chủ thể thực hiện hoạt động quảng cáo thương mại qua mạng Internet. ............................................. 81 3.2.2 Nghiêm chỉnh chấp hành các quy định pháp luật quảng cáo thương mại qua mạng Internet .......................................................................................................................... 82 3.2.3 Đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao ........................................................... 82 3.2.4 Phát huy vai trò của Hiệp hội Quảng cáo .............................................................. 83 3.2.5 Tăng cường hợp tác quốc tế .................................................................................. 83 KẾT LUẬN ........................................................................................................................... 85 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 87 5 6 4 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trước năm 1986, với nền kinh tế hóa tập trung và sự phát triển về công nghệ thông tin còn nhiều hạn chế, thì sự sáng tạo và tính cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh gần như bị triệt tiêu. Tuy nhiên, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam trong tư tưởng và hành động của Đảng và nhà nước ta đã có chuyển biến với sự xóa bỏ nền kinh tế hóa tập trung, từng bước thiết lập và hoàn thiện các yếu tố cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội, cơ hội cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh đã được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Do đó, hoạt động quảng cáo thương mại cũng có những bước phát triển nhanh chóng, mang lại những lợi ích tích cực cho nền kinh tế nước ta trong thời kỳ đổi mới. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội, hoạt động quảng cáo ở nước ta đã có bước phát triển mạnh với sự gia tăng về số lượng doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ quảng cáo, sự mở rộng về hình thức, quy mô và công nghệ. Thế giới “quảng cáo” đã trở thành một hoạt động ngày càng sôi động và là một chủ thể được tranh luận sôi nổi. Với việc sử dụng các công nghệ cao, hoạt động quảng cáo nhằm thuyết phục người tiêu dung về giá cả và chất lượng hàng hóa hoặc dịch vụ được đưa ra quảng cáo; khuyến khích họ nên sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ đó trong cuộc sống hàng ngày. Từ những ý nghĩa tích cực từ hoạt động quảng cáo, việc đầu tư kinh phí cho hoạt động quảng cáo hàng hoá, dịch vụ được các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hóa và dịch vụ quan tâm. Do nhu cầu quảng cáo ngày càng tăng nên nhiều loại hình quảng cáo mới xuất hiện và phát triển mạnh, đặc biệt là quảng cáo thương mại qua mạng Internet. Song, hoạt động quảng cáo thương mại qua mạng Internet cần đòi hỏi hệ thống pháp luật phải hoàn thiện nhằm tạo môi trường pháp lý minh bạch, góp phần thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh, an toàn trong lĩnh vực quảng cáo nói chung và quảng cáo thương mại qua mạng Internet nói riêng. Với mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại qua mạng Internet ở nước ta, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài: “Pháp luật về quảng cáo thương mại qua mạng Internet ở Việt Nam” cho luận văn tốt nghiệp của mình. 1 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Các vấn đề về pháp luật quảng cáo thương mại nói chung và pháp luật quảng cáo thương mại qua mạng Internet đất đã có một số tác giả nghiên cứu. Có thể kể đến như: Đề tài “Quảng cáo trực tuyến liệu có trong tương lai” của nhà báo Mai Hồng tại Thời báo Kinh tế Việt Nam; đề tài “Quảng cáo trực tuyến Việt Nam-xuất phát điểm quá thấp”. Luận văn thạc sỹ của Hà Thu Trang “Pháp luật quảng cáo Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn” (2004), Khóa luận tốt nghiệp của Trần Thu Thủy “Một số vấn đề pháp lý cơ bản về quảng cáo qua mạng máy tính ở Việt Nam” (2012). Các công trình nghiên cứu về các quy định pháp luật về quảng cáo thương mại ở Việt Nam đã được thực hiện nêu trên là nguồn tư liệu quý báu để chúng tôi nghiên cứu và kế thừa. Tuy nhiên, những nghiên cứu đi sâu vào vấn đề các quy định pháp luật về quảng cáo thương mại qua mạng Internet ở Việt Nam thì chưa có. Do đó, việc chọn đề tài của tác giả càng mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài có mục đích nghiên cứu nhằm tìm ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về quảng cáo thương mại qua mạng Internet ở Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Giải quyết một số vấn đề lý luận về quảng cáo thương mại qua mạng Internet; - Phân tích và làm sáng tỏ các quy định của pháp luật hiện hành về quảng cáo thương mại qua mạng Internet; - Tìm hiểu thực tiễn về quảng cáo thương mại qua mạng Internet ở Việt Nam. Từ đó có những đề xuất, kiến nghị góp phần hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật về vấn đề này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn: là những vấn đề lí luận và pháp luật, thực tiễn về hoạt động quảng cáo thương mại qua mạng Intetnet ở Việt Nam 2 4.2 Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn là phân tích, đánh giá các quy định của các văn bản hiện hành về quảng cáo thương mại qua mạng Internet như: Luật Thương mại 2005, Luật Quảng cáo 2012 và các văn bản pháp luật có liên quan. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Với mục đích triển khai những nội dung cơ bản của đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; Dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ chuyển đổi quyền sử dụng đất và cải cách thủ tục hành chính trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong quá trình hội nhập. Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp điều tra, khảo sát, tổng hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu được sử dụng để làm sáng tỏ các vấn đề. 6. Kết quả mới của luận văn Luận văn đã tìm hiểu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động quảng cáo thương mại qua mạng Internet, cũng như pháp luật hiện hành về quảng cáo thương mại qua mạng Internet. Trên cơ sở đó, đề xuất những định hướng cơ bản và kiến nghị các giải pháp cụ thể cho quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện chế định pháp lý về hoạt động quảng cáo thương mại qua mạng Internet ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương với kết cấu như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về quảng cáo thương mại qua mạng Internet và pháp luật về quảng cáo thương mại qua mạng Internet . Chương 2: Thực trạng pháp luật về quảng cáo thương mại qua mạng Internet ở Việt Nam. Chương 3: Một số đề xuất kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quảng cáo thương mại qua mạng Internet Chương 1 3 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI QUA MẠNG INTERNET VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI QUA MẠNG INTERNET 1.1 Khái niệm quảng cáo và quảng cáo thương mại 1.1.1 Khái niệm, đặc điểm quảng cáo 1.1.1.1 Khái niệm quảng cáo Quảng cáo xuất hiện từ rất sớm trong đời sống kinh tế xã hội của nhân loại. Từ khi có thành thị và buôn bán thì quảng cáo đã xuất hiện. Quảng cáo phát triển gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thị trường cũng như nền sản xuất hàng hóa dịch vụ. Xét dưới khía cạnh ngôn ngữ, nếu dịch theo nghĩa triết tự chữ Hán Việt, “ quảng” có nghĩa là “rộng rãi”, còn “cáo” có nghĩa là “ báo cho biết”. Như vậy, hiểu theo một cách nôm na thì “quảng cáo” nghĩa là “ thông báo thông tin một cách rộng rãi”. Theo từ điển quảng cáo được định nghĩa: “Quảng cáo là một loại thông tin phải trả tiền, có tính đơn phương, không dành riêng cho ai, có vận dụng mọi biện pháp và thông tin đại chúng nhằm hỗ trợ một sản phẩm, một nhãn hiệu, một mục đích, một ứng cử viên hoặc một tổ chức nào đó được nêu danh trong quảng cáo”. Xét dưới khía cạnh kinh tế, quảng cáo được hiểu: “Quảng cáo là hình thức tuyên truyền được trả tiền để thực hiện việc giới thiệu thông tin về sản phẩm, dịch vụ, công ty hay ý tưởng, quảng cáo là hoạt động truyền thông phi trực tiếp giữa người với người mà trong đó người muốn truyền thông phải trả tiền cho các phương tiện truyền thông đại chúng để đưa thông tin đến thuyết phục hay tác động đến người nhận thông tin”. Xét về góc độ luật học, Theo quy định của pháp luật Việt Nam, quảng cáo được định nghĩa và quy định tại khoản 1 điều 2 Luật Quảng cáo 2012: “Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thông tin cá nhân”. Qua định nghĩa trên ta hiểu rằng chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của quảng cáo chính là nhằm giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ, kích thích việc mua sắm. Như vậy, theo quan điểm của các nhà lập pháp Việt Nam thì quảng cáo có thể 4 nhằm mục đích sinh lời hoặc không sinh lời. Còn ở trên thế giới thì mục đích chủ yếu và quan trọng nhất là lợi nhuận. Điển hình là khái niệm quảng cáo tại khoản 1 điều 2 Nghị quyết hội đồng bộ trưởng liên minh Châu Âu số 84/450: “ Quảng cáo là bất kỳ sự giới thiệu nào trong quá trình thực hiện hoạt động kinh tế, thu lợi nhuận nhằm mục đích tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ”[5]. Hay theo pháp luật của Hoa Kỳ, tại Bộ quy tắc của NAD định nghĩa “quảng cáo quốc gia (national advertising) bao gồm bất kỳ thông điệp thương mại trả tiền nào, trên bất kỳ phương tiện nào (bao gồm cả nhãn hàng), nếu thông điệp đó có mục đích thúc đẩy việc bán hàng hoặc trao đổi thương mại khác hoặc thuyết phục khán giả về các giá trị hoặc tính hữu dụng của một công ty, sản phẩm hoặc dịch vụ; và nếu thống điệp đó được phổ biến trên toàn quốc hoặc một phần đáng kể của lãnh thổ Hoa Kỳ, hoặc là quảng cáo thử nghiệm chuẩn bị cho chiến dịch quốc gia và nếu nội dung của chúng được kiểm soát bởi các nhà quảng cáo”[11] . Có thể thấy đây là một khái niệm rất rộng, bởi, theo khái niệm này, quảng cáo bao gồm bất kỳ một thông điệp thương mại trả tiền nào được đưa ra nhằm mục đích thúc đẩy việc bán hàng hoặc giao dịch thương mại hoặc thuyết phục người nghe về các đặc tính của sản phẩm. Với cách hiểu rộng như vậy, quảng cáo sẽ bao gồm cả các thông điệp được đưa ra trong hoạt động khuyến mại, hay triển lãm, trưng bày giới thiệu hàng hóa dịch vụ, để chỉ rõ cho người tiêu dùng biết được các lợi ích mà người tiêu dùng có thể đạt được khi mua hàng hóa hoặc dịch vụ, từ đó thúc đẩy việc mua hàng và sử dụng dịch vụ. Tuy vậy, quảng cáo dù có mục đích sinh lời hay không sinh lời thì chúng ta cũng không thể phủ nhận được vai trò quan trọng của quảng cáo, đặc biệt là quảng cáo thương mại bởi theo nhà xã hội học Edgr Morin thì: “Quảng cáo thương mại không sáng tạo ra thế giới tiêu dùng nhưng thế giới này sẽ vô nghĩa nếu không có quảng cáo”[4]. 1.1.1.2 Đặc điểm hoạt động quảng cáo Từ việc nghiên cứu một số khái niệm quảng cáo ở phần trên ta nhận thấy quảng cáo có những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, quảng cáo là một loại thông tin phải trả tiền: Quảng cáo cũng là một loại hình dịch vụ. Khi tổ chức, cá nhân muốn giới thiệu hàng hóa, dịch vụ hay hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình ra công chúng thì thông thường họ sẽ sử dụng 5 dịch vụ quảng cáo và cũng đồng nghĩa với việc họ phải trả một khoản tiền cho việc truyền thông báo đó. Thứ hai, quảng cáo mang tính đơn phương: Quảng cáo chỉ có thông tin một chiều, từ phía người ra quảng cáo. Họ có thể sử dụng rất nhiều loại phương tiện quảng cáo khác nhau (qua đài truyền hình, đài phát thanh, báo chí, mạng Internet, băng rôn, tờ rơi.v.v…). Càng sử dụng nhiều loại hình quảng cáo thì mức độ gây ảnh hưởng tới quần chúng càng rộng rãi. Nhưng không có nghĩa là những người tiếp nhận được các thông tin đó phải bày tỏ một hành vi nào đó. Như vậy, quảng cáo là hành vi đơn phương của người quảng cáo nhằm đề cao mình trước công chúng. Các hành vi đơn phương đó sẽ là tín hiệu theo hướng ngược lại dưới dạng ứng xử cuối cùng của những khách hàng tiềm năng - những người có tiền và có nhu cầu [13]. Thứ ba, quảng cáo không chỉ dành riêng cho cá nhân: Quảng cáo hướng tới toàn thể mọi người nhằm mục tiêu đã định của người quảng cáo. Bản chất “đại chúng” của quảng cáo là ở chỗ đó. Các thông tin quảng cáo được phát đi không nhằm vào một cá nhân cụ thể nào cả. Ưu điểm của quảng cáo là làm cho nhiều người biết đến, giúp người tiêu dùng dễ dàng mua được hàng hóa, dịch vụ họ cần. Bên cạnh đó, những quảng cáo không phù hợp được phát đi một cách rộng rãi cũng làm ảnh hưởng không nhỏ tới nhiều đối tượng mà pháp luật đang bảo vệ [15]. Chính vì vậy, trong pháp luật quảng cáo ở các nước cần phải được liệt kê một số hành vi cấm quảng cáo, hàng hóa, dịch vụ hạn chế quảng cáo. Thứ tư, quảng cáo phải trải qua phương tiện trung gian: Khác với các hành vi xúc tiến thương mại khác (khuyến mại, hội chợ triển lãm, trưng bày giới thiệu sản phẩm.v.v…) quảng cáo chủ yếu thực hiện qua các phương tiện trung gian để truyền tin tới quần chúng như đài phát thanh, đài truyền hình, báo chí, mạng Internet.v.v… hay qua các phương tiện, biện pháp đơn giản như qua tờ rơi, băng rôn, pano.v.v… Có thể thấy phương tiện trung gian của quảng cáo rất đa dạng và phong phú, đây là ưu điểm giúp doanh nghiệp tiếp cận được khách hàng một cách nhanh chóng và có hiệu quả hơn các loại hình xúc tiến thương mại khác. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm quảng cáo thương mại 1.1.2.1 Khái niệm quảng cáo thương mại 6 Quảng cáo là một biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh để thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp; giúp doanh nghiệp giới thiệu, khuếch trương về hàng hóa, dịch vụ của mình một cách nhanh chóng. Đối với người tiêu dùng, hoạt động quảng cáo cung cấp cho người tiêu dùng những thông tin cơ bản về tình hình thị trường, về hàng hóa, dịch vụ nhằm nâng cao khả năng lựa chọn các sản phẩm trên thị trường. Với ý nghĩa đó hoạt động quảng cáo thực sự có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế và của các doanh nghiệp. Tại điều 102 Luật Thương mại 2005 quy định: " Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình." Như vậy, đối tượng của hoạt động quảng cáo có thể là hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có khả năng mang lại lợi nhuận cho tổ chức, cá nhân hoặc các dịch vụ, thông tin nhằm thực hiện một mục tiêu chính trị, văn hóa, xã hội nào đó. Trong đó, hoạt động quảng cáo về hoạt động kinh doanh, về hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lời của thương nhân, hoạt động quảng cáo cho thương nhân khác để thu phí dịch vụ chính là hoạt động quảng cáo thương mại. 1.1.2.2 Đặc điểm của quảng cáo thương mại Quảng cáo thương là một bộ phận của hoạt động quảng cáo nói chung. Phân biệt với quảng cáo nói chung và với các hoạt động xúc tiến thương mại khác, quảng cáo thương mại có một số đặc điểm cơ bản sau: Về chủ thể thực hiện: Chủ thể của hoạt động quảng cáo thương mại là thương nhân (bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh). Với tư cách là người kinh doanh, thương nhân thực hiện quyền quảng cáo thương mại để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của mình hoặc thực hiện dịch vụ quảng cáo cho thương nhân khác theo hợp đồng để tìm kiếm lợi nhuận. Bên cạnh đó, chủ thể của Luật Cạnh tranh còn có thể là các nhóm doanh nghiệp liên kết với nhau dưới hình thức hiệp hội doanh nghiệp, các nghiệp đoàn... và các cá nhân hành nghề tự do. Đây là đặc điểm cho phép phân biệt quảng cáo thương mại với các hoạt động thông tin, cổ động do cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội ... thực hiện nhằm mục đích phi lợi nhuận như tuyên truyền về đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước. 7 Về phương thức thực hiện: Điều 103 Luật Thương mại quy định cụ thể về quyền quảng cáo thương mại: “Thương nhân Việt Nam, Chi nhánh của thương nhân Việt Nam, Chi nhánh của thương nhân nước ngoài được phép hoạt động thương mại tại Việt Nam có quyền quảng cáo về hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình hoặc thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo thực hiện việc quảng cáo thương mại cho mình. Thương nhân có thể tự mình thực hiện các công việc cần thiết để quảng cáo hoặc thuê dịch vụ quảng cáo của thương nhân khác thông qua hợp đồng dịch vụ. Trong nền kinh tế thị trường, dịch vụ quảng cáo được pháp luật thừa nhận là một dịch vụ thương mại mà thông qua phí dịch vụ, thương nhân thu được lợi nhuận một cách trực tiếp. Trong trường hợp tự mình quảng cáo không đạt được hiệu quả mong muốn, thương nhân có quyền thuê thương nhân khác thực hiện việc quảng cáo cho mình và phải chi trả phí dịch vụ vì việc đó. Về cách thức xúc tiến thương mại: Trong hoạt động quảng cáo thương mại, thương nhân sử dụng sản phẩm và phuơng tiện quảng cáo thương mại để thông tin về hàng hóa dịch vụ đến khách hàng. Các doanh nghiệp thực hiện việc quảng cáo thông qua sản phẩm quảng cáo (gồm những thông tin bằng hình ảnh, hành động, âm thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc, ánh sáng chứa đựng nội dung quảng cáo thương mại) và những phương tiện rất đa dạng để đưa sản phẩm quảng cáo đến với khách hàng (phương tiện thông tin đại chúng, phương tiện truyền tin, các ấn phẩm...) Về mục đích của quảng cáo thương mại: Mục đích trực tiếp của quảng cáo thương mại là giới thiệu về hàng hoá dịch vụ để xúc tiến thương mại, đáp ứng nhu cầu cạnh tranh và mục tiêu lợi nhuận của thương nhân. Thông qua các hình thức truyền đạt thông tin, thương nhân giới thiệu về một loại hàng hóa, dịch vụ mới, tính ưu việt về chất lượng giá cả, khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng... Như vậy, thương nhân có thể tạo sự nhận biết và kiến thức về hàng hóa dịch vụ; có thể thu hút khách hàng đang sử dụng hàng hóa, dịch vụ của công ty khác thông qua việc nhấn mạnh đặc điểm và những lợi ích của một nhãn hiệu cụ thể hoặc thông qua việc so sánh tính ưu việt của sản phẩm với các sản phẩm cùng loại. Đây thực sự là những lợi thế mà thương nhân có thể khai thác vì nó có ý nghĩa rất lớn trong việc định hướng nhu cầu tiêu dùng xã hội, bao gồm cả tiêu dùng cho cá nhân và tiêu dùng cho sản xuất. 1.1.2.3 Vai trò của quảng cáo thương mại 8 Quảng cáo nói chung và hoạt động quảng cáo thương mại nói nhằm tuyên truyền giới thiệu hàng hóa, dịch vụ, hay hoạt động của hãng kinh doanh về hàng hóa dịch vụ đó, nhằm tạo sự hứng thú của khách hàng đối với sản phẩm. Do đó, quảng cáo thương mại ngày càng giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội: Đối với thương nhân : Quảng cáo thương mại là một công cụ hữu hiệu để xúc tiến thương mại. Đối với sản phẩm mới xuất hiện hoặc sắp tung ra thị trường thì giúp giới thiệu thông tin đến người tiêu dùng gây được chú ý của họ, tìm kiếm cơ hội phi lợi nhuận. Đối với các sản phẩm đã có mặt và quen thuộc thì duy trì sự tín nhiệm, lòng trung thành của người tiêu dùng đối với sản phẩm, thúc đẩy việc bán sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường, thu lợi nhuận, tăng doanh số bán hàng. Đối với người tiêu dùng: Vai trò đầu tiên mà quảng cáo thương mại mang lại đó là thông tin về hàng hóa, sản phẩm dịch vụ đồng thời mang tới cho họ sự lựa chọn và quyết định mua hay sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đó. Tùy từng lứa tuổi, sở thích, giới tính, nhu cầu khách hàng có thể dễ dàng tìm thấy cho mình loại mặt hàng phù hợp nhất... Đối với nền kinh tế: Đặc biệt trong giai đoạn cạnh tranh thương mại mạnh mẽ như hiện nay, vai trò của quảng cáo thương mại là không thể phủ định. Quảng cáo thương mại là một hình thức xúc tiến thương mại, đóng vai trò là cầu nối giữa người bán hàng và người mua, người sản xuất với người tiêu dùng. Góp phần thúc đẩy lưu thông, tiêu thụ hàng hóa dịch vụ trên thị trường, gián tiếp thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao tính cạnh tranh và tạo động lực phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế, góp phần không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế thị trường của quốc gia đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. 1.1.3 Phân loại hoạt động quảng cáo theo phương tiện quảng cáo Hoạt động quảng cáo là hoạt động tuyên truyền, giới thiệu thông tin về sản phẩm, dịch vụ. Việc phân loại hoạt động quảng cáo dựa trên các tiêu chí khác nhau như mục đích quảng cáo (quảng cáo thương hiệu, quảng cáo chính trị, quảng cáo hướng dẫn, quảng cáo dịch vụ công ích.v.v…), cách thực hiện quảng cáo (Quảng cáo phản hồi trực tiếp, quảng cáo phản hồi gián tiếp). Còn phân loại hoạt động quảng cáo theo phương tiện quảng cáo, tại điều 17 Luật quảng cáo năm 2012 phân loại cụ thể bao gồm: 9 - Quảng cáo qua phương tiện báo chí (Báo nói, báo hình, báo điện tử) - Quảng cáo qua phương tiện trang thông tin điện tử, thiết bị điện tử, thiết bị đầu cuối và các thiết bị viễn thông; - Các sản phẩm in, bản ghi âm, ghi hình và các thiết bị công nghệ; - Bảng quảng cáo; băng rôn, biển hiệu, hộp đèn, màn hình chuyên quảng cáo; - Phương tiện giao thông; - Hội chợ, hội thảo, hội nghị, tổ chức sự kiện, triển lãm, chương trình văn hóa, thể thao; - Người chuyển tải sản phẩm quảng cáo; vật thể quảng cáo. 1.2 Khái quát, đặc điểm quảng cáo thương mại qua mạng Internet 1.2.1 Khái niệm về mạng Internet Hiện nay, Việt Nam có tỷ lệ sử dụng mạng Internet tương đối cao. Việc sử dụng mạng Internet đã mang đến nhiều lợi ích cho người sử dụng. Có nhiều khái niệm khác nhau về mạng Internet. Như: “mạng Internet là một hệ thống các Internet tự trị (Autonomous Computer) được kết nối với nhau bởi các đường truyền vật lý và theo một cấu trúc nào đó”[31]. Theo một khái niệm khác “mạng Internet là một nhóm các Internet và thiết bị ngoại vi kết nối với nhau thông qua các phương tiện truyền dẫn như cáp xoăn, cáp quang, sóng điện từ, tia hồng ngoại để chia sẻ dữ liệu cho nhau”[31]. Hay tại từ điển bách khoa toàn thư “vi.wikipedia” định nghĩa: “ Mạng Internet là một hệ thống thông tin toàn cầu có thể được truy nhập công cộng gồm các mạng Internet được liên kết với nhau. Hệ thống này truyền thông tin theo kiểu nối chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa trên một giao thức liên mạng đã được chuẩn hóa (giao thức IP). Hệ thống này bao gồm hàng ngàn mạng Internet nhỏ hơn của các doanh nghiệp, của các viện nghiên cứu và các trường đại học, của người dùng cá nhân và các chính phủ trên toàn cầu”. Mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau về mạng Internet, nhưng tựu chung lại mạng Internet (hay thống mạng- computer network- netswwork system) được thiết lập khi có hai máy vi tính trở lên kết nối với nhau để chia sẻ nguồn tài nguyên, bằng các phương tiện truyền dẫn. 1.2.2 Khái niệm quảng cáo thương mại qua mạng Internet 10 Quảng cáo thương mại nói chung là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của mình. Hoạt động quảng cáo thương mại qua mạng Internet là một hình thức quảng cáo không còn mới với rất nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là đối với những quốc gia phát triển, có bề dày lịch sử và công nghệ tiên tiến. Tại Việt Nam, hoạt động quảng cáo thương mại qua mạng Internet được thực hiện từ khi Việt Nam được hòa mạng Internet toàn cầu (19/11/1997). Kể từ thời gian đó, quảng cáo thương mại qua mạng Internet là một hình thức xúc tiến thương mại được các thương nhân sử dụng để quảng bá sản phẩm đến người dân mặc dù hệ thống Internet còn chưa phổ biến. Kể từ năm 2001 đến nay, sự phát triển của hệ thống mạng Internet cũng như số lượng Internet điện tử và các thiết bị công nghệ hiện đại tăng nhanh, quảng cáo thương mại qua mạng Internet đã được các doanh nghiệp, các cá nhân lựa chọn là một hình thức quảng cáo phổ biến và hiệu quả [12]. Mạng Internet là một thiết bị điện tử, là một phương tiện trung gian để quảng cáo, do đó nó là một hình thức quảng cáo tương tự như việc thông qua quảng cáo bằng đài phát thanh, đài truyền hình, báo chí, tờ rơi, băng giôn .v.v…. Như vậy, có thể hiểu một cách khái quát nhất về quảng cáo thương mại qua mạng Internet như sau : “Quảng cáo thương mại qua mạng Internet là một hình thức của quảng cáo thương mại, để thương nhân thực hiện xúc tiến thương mại, giới thiệu đến khách hàng về hoạt động kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lời và dịch vụ không có mục đích sinh lời thông qua kết nối mạng Internet”. 1.2.3 Đặc điểm của quảng cáo thương mại qua mạng Internet Quảng cáo thương mại qua mạng Internet là một hình thức của quảng cáo thương mại, do đó, ngoài các đặc điểm chung của quảng cáo thương mại như: Chủ thể thực hiện hoạt động quảng cáo, phương thức thực hiện hoạt động quảng cáo, cách xúc tiến của hoạt động quảng cáo và mục đích của hoạt động quảng cáo, nó còn mang những đặc tính riêng biệt: Thứ nhất, quảng cáo thương mại qua mạng Internet có tính linh hoạt cao. Một quảng cáo thương mại trên mạng Internet được truyền tải 24/24 giờ một ngày, cả tuần, cả năm. Hơn nữa, quảng cáo thương mại qua mạng Internet có thể được bắt đầu cập nhật hoặc huỷ bỏ bất cứ lúc nào. Người thực hiện quảng cáo có thể theo dõi tiến độ 11 quảng cáo hàng ngày, xem xét hiệu quả quảng cáo ở tuần đầu tiên và có thể thay thế quảng cáo ở tuần thứ hai nếu cần thiết. Điều này khác hẳn kiểu quảng cáo thương mại trên báo chí, chỉ có thể thay đổi quảng cáo khi có đợt xuất bản mới, hay quảng cáo tivi với mức chi phí rất cao cho việc thay đổi quảng cáo thường xuyên [8.tr.34]. Thứ hai, quảng cáo qua mạng Internet có khả năng hỗ trợ cao giữa khách hàng và thương nhân có dịch vụ, sản phẩm quảng cáo. Mục tiêu của thương nhân quảng cáo dịch vụ, sản phẩm của mình là gắn khách hàng triển vọng với nhãn hiệu hoặc sản phẩm của họ. Điều này có thể thực hiện hiệu quả trên mạng Internet, vì khách hàng có thể tương tác với sản phẩm, kiểm tra sản phẩm và nếu thoả mãn thì có thể mua [8.tr.45]. Ví dụ, một quảng cáo cho phần mềm Internet có thể đưa khách hàng tới nơi trưng bày sản phẩm để lấy thông tin và kiểm tra trực tiếp. Nếu khách hàng thích phần mềm đó, họ có thể mua trực tiếp. Đây là loại hình thông tin đại chúng có thể giúp khách hàng từ lúc tìm hiểu thông tin đến khi mua sản phẩm mà không gặp trở ngại. Thứ ba, quảng cáo thương mại qua mạng Internet có khả năng theo dõi cao. Với việc quảng cáo qua mạng Internet, các doanh nghiệp, cá nhân có sản phẩm, dịch vụ quảng cáo có thể theo dõi hành vi của người sử dụng đối với nhãn hiệu của họ và tìm hiểu sở thích cũng như mối quan tâm của những khách hàng triển vọng [10. tr.60]. Ví dụ, một hãng sản xuất xe hơi có thể theo dõi hành vi của người sử dụng qua website của họ và xác định xem có nhiều người quan tâm đến quảng cáo của họ hay không? Đồng thời, với các thương nhân làm dịch vụ quảng cáo cũng có thể xác định được hiệu quả của một quảng cáo (thông qua số lần quảng cáo được nhấn, số người mua sản phẩm, và số lần tiến hành quảng cáo.v.v…) nhưng điều này rất khó thực hiện đối với kiểu quảng cáo truyền thống như trên tivi, báo chí và bảng thông báo. Thứ tư, quảng cáo qua mạng Internet có chi phí thấp và mức độ phổ biến cao. Đây là một trong các đặc điểm mà các doanh nghiệp, cá nhân có sản phẩm, dịch vụ quảng cáo quan tâm đến. Thay vì phải bỏ ra hàng chục triệu đồng mỗi tháng để xuất hiện với thời lượng tính bằng giây trên quảng cáo truyền hình trong giờ vàng, doanh nghiệp chỉ cần bỏ ra số tiền ít hơn mỗi tháng để xuất hiện trên các trang mạng lớn. Với sự phổ biến của mạng Internet đã đưa sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp, cá nhân đến với khách hàng, người sử dụng trên khắp thế giới mà với quảng cáo truyền hình, 12 quảng cáo phát thanh hay báo chí chỉ bó hẹp tại một khu vực nhất định, khiến thị trường không được mở rộng. 1.2.4 Sự cần thiết của việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động quảng cáo thương mại qua mạng Internet Việt Nam là một quốc gia có tốc độ phát triển Internet nhanh. Hiện nay có khoảng 25,1 triệu người sử dụng Internet, tốc độ tăng khoảng 30% mỗi năm [11]. Tin tức, báo mạng, game trực tuyến chiếm vị trí rất quan trọng trong đời sống, kinh tế hiện nay. Đồng thời tốc độ phát triển về băng thông Internet giúp cho các hình thức giải trí phát triển mạnh, do đó quảng cáo thương mại qua mạng Internet được xuất hiện thường xuyên khi người sử dụng Internet truy cập sử dụng. Mặt khác, Internet được sử dụng mọi lúc, mọi nơi và cho mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp do đó hoạt động quảng cáo thương mại qua mạng Internet được thực hiện tối đa. Hoạt động quảng cáo thương mại qua mạng Internet giữ vị trí, vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế hiện nay. Với chi phí cho hoạt động quảng cáo qua mạng Internet không cao, tùy theo ngành nghề kinh doanh, chiến dịch quảng cáo mà người quảng cáo chọn những hình thức và mức chi phí khác nhau. Hoạt động quảng cáo qua mạng Internet luôn thể hiện được tính linh hoạt, người quảng cáo có thể theo dõi hiệu quả quảng cáo mà các phương tiện quảng cáo khác không thực hiện được. Đồng thời với sức phổ biến, rộng rãi của quảng cáo qua mạng Internet, nên hình thức này luôn được người quảng cáo ưu tiên lựa chọn. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội, hoạt động quảng cáo ở nước ta đã có bước phát triển mạnh với sự gia tăng về số lượng doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ quảng cáo, sự mở rộng về hình thức, quy mô và công nghệ. Việc đầu tư kinh phí cho hoạt động quảng cáo hàng hoá, dịch vụ được các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh quan tâm. Do nhu cầu quảng cáo ngày càng tăng nên nhiều loại hình quảng cáo mới xuất hiện và phát triển mạnh, đặc biệt là quảng cáo trên các phương tiện điện tử, quảng cáo qua mạng Internet; quảng cáo trên báo điện tử và trang thông tin điện tử; quảng cáo bằng đoàn người. Tuy vậy, hệ thống pháp luật về quảng cáo thương mại ở nước ta đang có những bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện của hoạt động quảng cáo trong nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, một số quy định về quảng cáo qua mạng Internet được 13 đề cập chưa được rõ ràng, cụ thể, vì vậy, việc áp dụng các quy định về hoạt động quảng cáo còn gặp nhiều khó khăn. Đồng thời, do sự phát triển của hoạt động quảng cáo đặc biệt là hoạt động quảng cáo qua các thiết bị điện tử và qua mạng Internet nên có nhiều nội dung chưa được điều chỉnh hoặc không còn phù hợp với tình hình thực tiễn. Mặt khác hoạt động quảng cáo trên mạng thông tin Internet chuyển tải liên tục, thay đổi thường xuyên với số lượng rất lớn nên phải có văn bản pháp luật ghi nhận để quản lý và kiểm tra giám sát hoạt động trên. Như vậy, để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn về phát triển quảng cáo thương mại nói chung và quảng cáo thương mại qua mạng Internet nói riêng, các nhà lập pháp ghi nhận và đưa vào điều chỉnh hoạt động quảng cáo thương mại qua mạng Internetvào văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao - Luật Quảng cáo 2012 để điều chỉnh toàn diện hoạt động quảng cáo ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Với những nghiên cứu về hoạt động quảng cáo thương mại qua mạng Internet trên lý thuyết và thực tiễn, hoạt động này được điều chỉnh trong các luật chuyên ngành là: Luật Quảng cáo, Luật Thương mại và các văn bản pháp luật có liên quan về: sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng… Thông qua những quy định tại các văn bản pháp luật này, các nhà lập pháp Việt Nam đã xây dựng bộ khung cho hoạt động quảng cáo qua mạng Internet để điều chỉnh các vấn đề chủ yếu sau: - Chủ thể của quan hệ pháp luật quảng cáo thương mại qua mạng Internet; - Hình thức quảng cáo thương mại qua mạng Internet; - Đối tượng quảng cáo thương mại qua mạng Internet; - Phương tiện quảng cáo thương mại qua mạng Internet; - Điều kiện kinh doanh quảng cáo thương mại qua mạng Internet; - Quản lý nhà nước về hoạt động quảng cáo thương mại qua mạng Internet. Việc xây dựng nên các chế định pháp luật quảng cáo thương mại qua mạng Intetnet để điều chỉnh những vấn đề trên sẽ giúp cá nhân, doanh nghiệp trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào hoạt động này nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp của các đối tượng và là cơ chế thực hiện bảo đảm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 14 1.2.5 Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về quảng cáo và quảng cáo thương mại qua mạng Internet ở Việt Nam Pháp luật về quảng cáo và quảng cáo thương mại qua mạng Internet ở Việt Nam hình thành khá muộn so với các quốc gia trên thế giới. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật quảng cáo ở Việt Nam được chia thành hai giai đoạn chính: giai đoạn trước năm 1986 và giai đoạn sau năm 1986. Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường, hoạt động quảng cáo ở Việt Nam cũng thay đổi theo chiều hướng gia tăng cả về quy mô và chất lượng. Có thể khẳng định, chính nền kinh tế thị trường đã tạo sự bùng nổ quảng cáo ở Việt Nam. Tuy nhiên, tốc độ phát triển quảng cáo ở mỗi địa phương và mỗi giai đoạn là khác nhau. Trước năm 1986, ở Việt Nam, với sự tồn tại của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp đã làm mất đi bản chất của một thị trường mua bán đích thực. Trong bối cảnh đó, quảng cáo không thể phát huy vai trò hữu ích của mình, bởi việc nâng cao uy tín của doanh nghiệp, khả năng cạnh tranh là điều không cần thiết. Do đó, trong giai đoạn này ở nước ta, các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động quảng cáo không được ban hành. Sau năm 1986, khi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường, quảng cáo bắt đầu được biết đến như một công cụ trong quá trình mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, trong những năm đầu chuyển đổi, các doanh nghiệp chưa nhận thức được vai trò quyết định của thị trường và khách hàng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó chưa xác định chính xác vai trò quan trọng của quảng cáo. Văn bản pháp lý đầu tiên quy định về lĩnh vực quảng cáo đó là Luật báo chí 1989 và Nghị định số 133/HĐBT ngày 20 tháng 04 năm 1992 quy định chi tiết và thi hành Luật báo chí. Tuy nhiên các văn bản này mới chỉ quy định những vấn đề hết sức khái quát, chủ yếu là vấn đề quảng cáo trên báo chí, chưa đề cập cụ thể đến các yếu tố cần có để đảm bảo cho một quảng cáo có tính trung thực và hợp pháp. Với chỉ thị số 738/VP ngày 10/08/1990, Ủy ban khoa học nhà nước cùng với Bộ Văn hóa-Thông tin ban hành thông tư Liên bộ số 1191-TT/LB quy định về “ Quản lý nhãn và quảng cáo sản phẩm hàng hóa”. Tuy nhiên, các văn bản này có hiệu lực pháp lý không cao và chủ yếu chỉ điều chỉnh các quan hệ quảng cáo có tính chất tạm thời, trước mắt nên chưa phát huy được tác dụng trong đời sống. Đồng thời, trong giai đoạn này, nước ta 15 chưa có sự phát triển về công nghệ thông tin và chưa được hòa mạng Internet nên pháp luật về quảng cáo qua mạng Internet không được đề cập tới. Từ sau năm 1994, cùng với chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, nhận thức về tầm quan trọng của quảng cáo đã được nâng cao trong giai đoạn này cho thấy doanh thu tăng thêm rõ rệt như: Xí nghiệp lương thực, thực phẩm Milikets, Công ty sữa Việt Nam Vinamilk, công ty sứ Thanh Trì… Nắm bắt được sự phát triển sôi động của quảng cáo, ngày 31/12/1994. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 194/CP về hoạt động quảng cáo trên lãnh thổ Việt Nam bao gồm 7 chương, 27 điều và Bộ Văn hóa- Thông tin đã ban hành thông tư số 37/VHTT-TT ngày 01/06/1995 hướng dẫn Nghị định 194/CP. Các văn bản pháp lý này ra đời đã bổ sung những quy định mới, kịp thời đáp ứng những biến động thường xuyên trong lĩnh vực quảng cáo. Nghị định số 194/CP sau 18 lần soạn thảo và sửa đổi cùng với thông tư số 37/VHTT-TT với những nội dung khá cụ thể về hình thức, phương tiện, phạm vi, điều kiện, thủ tục quảng cáo của thương nhân nước ngoài đã góp phần tạo hành lang pháp lý để thúc đẩy hoạt động quảng cáo phát triển. Mặc dù hoạt động quảng cáo đã được pháp luật điều chỉnh, nhưng hoạt động quảng cáo qua mạng Internet vẫn chưa được ghi nhận, do yếu tố về kỹ thuật chưa phát triển. Tại kỳ hợp thứ 11 khóa IX, Quốc hội đã thông qua Luật Thương mại trong đó có mục 13 (gồm 12 điều, từ điều 186 đến điều 197) quy định về quảng cáo thương mại. Luật thương mại 1997 ra đời có ý nghĩa quan trong đối với tiến trình phát triển của nền kinh tế và lĩnh vực quảng cáo, là kết quả của hoạt động pháp điển hóa các quy định về quảng cáo. Luật Thương mại năm 1997 là văn bản pháp lý có hiệu lúc cao nhất điều chỉnh các quan hệ liên quan đến quảng cáo thương mại. Luật Thương mại đã xếp hoạt động quảng cáo thương mại là một hành vi thương mại bên cạnh 14 hành vi thương mại khác. Ngày 05/05/1999, Chính phủ đã ban hành nghị định số 32/1999/NĐCP quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về khuyến mại, quảng cáo thương mại và hội trợ triển lãm thương mại. Với sự ban hành của Luật Thương mại 1997, hoạt động quảng cáo qua mạng Internet lần đầu tiên được đề cập trong văn bản pháp có giá trị cao. Việc ghi nhận hình thức quảng cáo này đã giúp cho các tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi trên có cơ sở pháp lý tuân thủ. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan