Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường tại việt nam...

Tài liệu Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường tại việt nam

.PDF
111
1017
128

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LƢU VIỆT HÙNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN THÔNG THƢỜNG TẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ HÀ NỘI 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LƢU VIỆT HÙNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN THÔNG THƢỜNG TẠI VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Hữu Nghị Hà Nội 2009 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Lƣu Việt Hùng DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BVMT Bảo vệ môi trường CHNH Chất thải nguy hại CTR Chất thải rắn CTRTT Chất thải rắn thông thường Nghị định 59/NĐ-CP Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 09 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ Về quản lý chất thải rắn PLRTN Phân loại rác tại nguồn PTBV Phát triển bền vững UBND Uỷ ban nhân dân MỤC LỤC Chƣơng 1 1.1 1.2 1.3 Chƣơng 2 2.1 2.2 2.3 2.4 2.5 2.6 Chƣơng 3 3.1 Lời nói đầu Những vấn đề lý luận về pháp luật quản lý chất thải rắn thông thƣờng Các khái niệm: Chất thải, chất thải rắn thông thường, quản lý chất thải rắn thông thường Quan niệm và vai trò của pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường Các yếu tố tác động tới pháp luật quản lý chất thải rắn thông thường Thực trạng pháp luật quản lý chất thải rắn thông thƣờng Các quy định đối với các chủ thể phát sinh chất thải rắn thông thường Các quy định về thu gom chất thải rắn thông thường Các quy định về vận chuyển chất thải rắn thông thường Các quy định đối về lưu giữ chất thải rắn thông thường Các quy định về chủ thể xử lý chất thải rắn thông thường Các quy định về cơ quan quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý chất thải rắn thông thường Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thƣờng Cơ sở để đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường 1 5 5 19 27 36 36 48 55 60 62 68 71 71 3.1 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường 85 3.2 Các giải pháp hoàn thiện cơ chế thực hiện pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo 94 99 101 LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam qua hơn 20 năm đổi mới đã đạt được những thành công lớn nhưng bên cạnh đó cũng còn rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết, trong đó có vấn đề về môi trường sống. Kinh tế càng phát triển thì vấn đề về môi trường càng đặt ra cấp bách. Môi trường là vấn đề quan trọng không chỉ với một ngành, một nghề, không chỉ đối với một quốc gia mà là vấn đề của toàn nhân loại. Hiện tượng nhiệt độ trái đất ngày càng nóng lên, băng ở hai đầu cực đang tan dần, lỗ thủng tầng Ozon ngày càng to ra….đang là mối lo ngại đối với sự tồn tại của loài người. Đã qua rồi thời kỳ phát triển bằng mọi giá, mà phải gắn phát triển với bảo vệ môi trường. Nguyên lý phát triển trong thời đại hiện nay là phát triển bền vững. Môi trường là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng và cần thiết với mỗi con người và mỗi quốc gia. Nó là nền tảng của sự tồn tại và phát triển bền vững của xã hội, bất cứ hoạt động gì của con người cũng diễn ra trong môi trường và vì thế nó có những tác động nhất định tới môi trường. Hiện nay, với sự bùng nổ dân số trên toàn cầu và tốc độ công nghiệp hóa cao đã gây ra những tổn thất to lớn cho môi trường. Theo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 nước ta trở thành nước công nghiệp, vì vậy trong giai đoạn hiện nay cần phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhưng cũng do vậy khi tốc độ phát triển ngày càng nhanh thì chất thải, chất thải rắn thông thường ngày càng nhiều gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của con người. Xuất phát từ tầm quan trong của chất thải, nhất là chất thải rắn thông thường, vấn để quản lý khai thác nó như thế nào để chất thải trở thành nguồn tài nguyên phục vụ cho đời sống con người là vấn đề hết 1 sức cần thiết. Hiện nay, các hoạt động quản lý chất thải rắn thông thường còn nhiều bất cập, các quy định của pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường còn nhiều hạn chế, chưa đầy đủ gây ra rất nhiều khó khăn cho các chủ thể trong quá trính quản lý . Vì thế việc hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường là một nhu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam. Chính vì các nguyên nhân trên nên tôi quyết định lựa chọn đề tài “Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thƣờng tại Việt Nam” làm luật văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Cho đến nay đã có một số Luận án Tiến sĩ về quản lý chất thải: Nguyễn Văn Phương, Pháp luật môi trường Việt Nam về nhập khẩu phế liệu năm 2007; Vũ Thị Duyên Thuỷ, Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại năm 2009. Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Hoà Bình, Điều tra, đánh giá tình hình quản lý chất thải rắn nguy hại của Việt Nam và đề xuất một số giải pháp quản lý có hiệu quả năm 2004. Bên cạnh đó còn có khoá luận tốt nghiệp của các sinh viên Trường Đại học Luật Hà Nội: Phạm Thị Liễu, Đánh giá các quy định của pháp luật về quản lý chất thải năm 2008. Ngoài ra các nhà khoa học đã có những bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Có thể kể đến một số bài viết như: Lê Kim Nguyệt, Một cơ chế phù hợp cho quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp tháng 11 năm 2002; TS. Nguyễn Văn Phương, Khái niệm chất thải và quy định về xuất nhập khẩu chất thải của Cộng hoà liên bang Đức trong cuốn “Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững” do nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật ấn hành năm 2008; TS. Nguyễn Văn Phương, Chất thải và quy định quản lý chất thải, được đăng trên tạp chí Luật học Số 4 năm 2003; TS. Nguyễn Văn Phương, Một số vấn đề về khái niệm chất thải, được 2 đăng trên tạp chí Luật học Số 10 năm 2006… Nhưng những bài viết này mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá hay gợi mở một vài khía cạnh của pháp luật quản lý chất thải nói chung, quản lý chất thải nguy hại nói riêng còn hầu như không đi sâu nghiên cứu vần đề về quản lý chất thải rắn thông thường. Vì vậy, với đề tài “Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thƣờng tại Việt Nam” tôi mong muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào việc hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý chất thải rắn thông thường tại Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải nhằm mục tiêu phát triển bền vững. * Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn có nhiệm vụ làm sáng tỏ các khái niệm cơ bản về chất thải rắn thông thường; nghiên cứu nhu cầu điều chỉnh pháp luật, các yếu tố tác động đối với hoạt động quản lý chất thải; phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật để tìm ra những sai sót, vướng mắc, những vấn đề phát sinh, các vi pham pháp luật để từ đó phân tích nguyên nhân của tình trạng này; đề xuất phương hướng và các giải pháp hoàn thiện, cơ chế thực hiện pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường. * Phạm vi nghiên cứu Pháp luật về quản lý chất thải là một phạm trù nghiên cứu rộng, vì vậy Luân văn không thể nghiên cứu hoạt động quản lý của tất cả các loại chất thải hiện nay, cũng không đi sâu nghiên cứu các lĩnh vực chuyên môn của 3 quản lý chất thải mà chủ yếu đề cấp đến các vấn đề pháp lý liên quan đến quản lý chất thải rắn thông thường. 4. Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết các vấn đề do đề tài đặt ra, người viết luận văn sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp khảo sát thực tiễn và đánh giá, phương pháp phân tích… 5. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài Các kết quả nghiên cứu của Luận văn này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ sở đào tạo và nghiên cứu về Luật học. Một số kiến nghị của đề tài có giá trị tham khảo đối với các cơ quan xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường, pháp luật về quản lý chất thải nói chung và pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường nói riêng. 6. Nội dung của luận văn: Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được chia làm 3 chương. Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật quản lý chất thải rắn thông thường. Chương 2: Thực trạng pháp luật quản lý chất thải rắn thông thường. Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường. 4 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN THÔNG THƢỜNG 1.1. Các khái niệm: Chất thải, chất thải rắn thông thƣờng, quản lý chất thải rắn thông thƣờng 1.1.1. Khái niệm chất thải Theo cách hiểu thông thường, chất thải là những chất mà con người bỏ đi, không tiếp tục sử dụng nữa. Khi bị thải bỏ, những chất này tồn tại trong môi trường dưới những trạng thái nhất định và có thể gây ra rất nhiều tác động bất lợi cho môi trường cũng như sức khoẻ con người. Chất thải, CTRTT là vấn đề quan trọng trong cuộc sống ngày nay vì vậy chúng ta cần phải nghiên cứu và tìm hiểu để từ đó biết cách để quản lý, phân loại, và tận dụng, đồng thời cũng xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể khi không tuân thủ quy trình xả, thải theo quy định của pháp luật. Dưới giác độ ngữ nghĩa, chất thải được hiểu là những “chất” không còn sử dụng được nữa bị con người “thải” ra trong các hoạt động khác nhau. Chất thải được sản sinh trong các hoạt động khác nhau của con người thì được gọi với những thuật ngữ khác nhau như: Chất thải rắn phát sinh trong sinh hoạt thì gọi là rác thải; Chất thải phát sinh sau khi sử dụng nguyên liệu trong quá trình sản xuất thì gọi là phế liệu; Chất thải phát sinh sau quá trình sử dụng nước thì gọi là nước thải… [14, tr. 8]. Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học định nghĩa “Chất thải là rác thải và những đồ vật bị bỏ đi nói chung”. Theo cách hiểu của khái niệm này, chất thải bao gồm rác là những thứ vụn vặt bị vất bỏ vương vãi, làm bẩn và đồ vật không có giá trị, không có tác dụng nên không giữ lại [14, tr.8]. 5 Từ điển môi trường Anh - Việt và Việt – Anh định nghĩa “Chất thải (waste) là bất kỳ chất gì, rắn, lỏng hoặc khí mà cơ thể hoặc hệ thống sinh ra nó không còn sử dụng được nữa và cần có biện pháp thải bỏ” [15]. Khái niệm chất thải cũng được sử dụng trong pháp luật quốc tế về môi trường, được đề cập tại Công ước Basel. Điều 2 khoản 1 Công ước Basel định nghĩa: “Chất thải là chất hoặc các đồ vật mà người ta tiêu huỷ, có ý định tiêu huỷ hoặc phải tiêu huỷ theo qui định của pháp luật quốc gia”. Theo đó, yếu tố quyết định để xác định một vật chất hoặc một đồ vật đó có bị chủ sở hữu “tiêu huỷ, có ý định tiêu huỷ hoặc phải tiêu huỷ” hay không [14, tr. 9]. Khái niệm chất thải còn được đề cập trong pháp luật của khối liên kết chính trị - kinh tế. Liên minh Châu Âu (EU). Điều 1 Nghị định 259/93 của EU về vận chuyển chất thải ngày 1/2/1993 có hiệu lực từ ngày 6/5/1994 định nghĩa: “Chất thải có nghĩa là bất kỳ chất hoặc vật nào nằm trong danh mục phân loại tại Phụ lục I mà người giữ chúng thải bỏ hoặc có ý định thải bỏ”. Theo định nghĩa này, một vật chất sẽ là chất thải khi chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp vật chất đó không có ý định sử dụng hoặc không được tiếp tục sử dụng theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền [14, tr. 10]. Theo Điều 3 khoản 1 Luật khuyến khích kinh tế tuần hoàn và đảm bảo xử lý các chất thải phù hợp với môi trường ngày 27/9/1994 được sửa đổi bổ sung ngày 25/8/1998 của CHLB Đức: “Chất thải là tất cả các động sản thuộc Phụ lục I của luật này mà chủ sở hữu từ bỏ, có ý muốn từ bỏ hoặc bắt buộc phải từ bỏ. Những chất thải có khả năng tái chế được thì chủ sở hữu có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp tái chế. Trong trường hợp không tái chế được thì chủ sở hữu có nghĩa vụ xử lý”. Theo định nghĩa này, chỉ có động sản mới có 6 thể trở thành chất thải, bất động sản không thể trở thành chất thải. Một động sản có thể trở thành chất thải hay không phụ thuộc vào việc đánh giá động sản đó có bị “từ bỏ” hoặc phải “từ bỏ” hay không [14, tr. 11]. Cả hai định nghĩa trên đều có một điểm chung là “vật chất được xác định là chất thải khi nó nằm trong Phụ lục I của Luật”. Như vậy, cả hai luật này đều quan tâm đến việc đưa vật chất nào và không đưa vật chất nào vào trong Phụ lục của mình. Giả sử có những vật chất chưa được đưa vào Phụ lục nhưng nó lại có nguy cơ gây ảnh hưởng đến môi trường khi chủ sở hữu thải bỏ thì sẽ được xác định như thế nào, đây là hạn chế mà các nhà làm luật cần phải bổ sung. Hơn nữa, điều này sẽ khó khi áp dụng vào Việt Nam bởi chung ta chưa đảm bảo được yếu tố về mặt kỹ thuật, công nghệ khi xác định các dạng vật chất nằm trong danh mục chất thải thuộc sở hữu của các chủ thể khác nhau. Pháp luật Việt Nam có quy định khác so với hai văn bản pháp luật trên, pháp luật Việt Nam đã liệt kê cụ thể các dạng vật chất phát sinh trong các hoạt động của con người và tồn tại dưới các dang khác nhau: Khí, lỏng, rắn… Quan niệm về chất thải còn được xem xét trên khía cạnh kinh tế. Theo quan điểm chung thì chất thải có thể hiểu là chất có thể gây ô nhiễm môi trường; làm cho môi trường suy thoái, hoặc gây ra sự cố môi trường. Nguồn gốc phát sinh ra chất thải là những gì mà chủ sở hữu chúng hiện tại không sử dụng và thải bỏ. Tuy nhiên, việc chủ sở hữu hiện tại không muốn sử dụng và thải bỏ có thể vì nhiều lý do khác nhau như công nghệ, sở thích, nhu cầu.v.v.. Việc thải bỏ bao gồm từ thu gom, xử lý cho đến chôn lấp an toàn chất thải đều có ý nghĩa là cá nhân hay xã hội phải bỏ ra một khoản chi phí nhất định. Việc ít thải bỏ chất thải cũng có nghĩa là nguyên vật liệu, năng lượng … được sử dụng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong điều kiện ngày càng 7 khan hiếm tài nguyên thiên nhiên, giá cả nguyên nhiên vật liệu ngày càng cao thì lợi ích kinh tế của việc phòng ngừa, giảm thiểu chất thải lại càng quan trọng. Điều đó cũng có nghĩa đối với chất thải, để quản lý tốt không chỉ là thu gom, xử lý và chôn lấp an toàn mà cần xem xét cả đến lợi ích của nó, và tuỳ từng loại chất thải có thể tái sử dụng, tái chế hoặc thu hồi cho mục đích khác mà không phải tốn kinh phí cho việc thải bỏ [23] Điều 2 khoản 2 Luật bảo vệ môi trường (BVMT) 1993 định nghĩa: “Chất thải là chất được loại ra trong sinh hoạt, trong quá trình sản xuất hoặc các hoạt động khác - chất thải có thể ở dạng khí, lỏng, rắn hoặc các dạng khác”. Điều 3 khoản 10 Luật BVMT 2005 định nghĩa: “Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác” Từ các định nghĩa và dựa vào các tiêu chí khác nhau ta có thể phân loại chất thải thành các nhóm loại khác nhau: + Dựa vào dạng tồn tại của chất thải, chất thải tồn tại dưới dạng rắn (chất thải rắn), lỏng (chất thải lỏng), khí (khí thải), nhiệt lượng, tiếng ồn… + Phụ thuộc vào sự độc hại của chất thải, chất thải bao gồm chất thải độc hại nguy hiểm và chất thải thông thường. + Phụ thuộc vào nguồn sản sinh chất thải, chất thải được chia thành chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp, chất thải y tế… + Phụ thuộc vào chu trình sản sinh ra chất thải, chất thải bao gồm nguyên liệu thứ phẩm, phế liệu, vật liệu thứ phẩm, sản phẩm, đồ vật hư hỏng hoặc quá hạn sử dụng [14, tr 15]. 8 Thông qua các phân tích trên chúng ta thấy, vật chất là chất thải hay không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu của vật chất đó, trừ trường hợp chất thải được sản sinh do đặc thù của chu trình hoạt động, được thải ra một cách bị động không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu cũng như các đối tượng khác. 1.1.2. Khái niệm chất thải rắn thông thƣờng Thuật ngữ chất thải rắn thông thường được sử dụng nhiều trên thực tế và tại một số văn bản quy phạm pháp luật. Chương VIII, mục 3 Luật BVMT 2005 và Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 09 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về quản lý chất thải rắn có nhiều điều, khoản đề cập đến đến thuật ngữ CTRTT, nhưng chưa có văn bản nào trực tiếp định nghĩa CTRTT. Vậy CTRTT là gì? Theo tôi, để nhận biết CTRTT cần dựa vào những dấu hiệu đặc trưng sau: Trước hết CTRTT phải là chất thải rắn (không phải là ở thể lỏng, thể khí). Điều 3 khoản 2 Nghị định 59/NĐ–CP ngày 09 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ Về quản lý chất thải rắn định nghĩa: Chất thải rắn là chất thải ở thể rắn, được thải ra từ quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác. Để xác định một chất là chất thải hay không, cần dựa vào ba tiêu chí sau: + Chất thải tồn tại dưới dạng vật chất ở dạng rắn, dạng lỏng, dạng khí hoặc các dạng khác. Những yếu tố phi vật chất không thể được coi là chất thải. + Vật chất đó bị chủ sở hữu thải bỏ hoặc bị buộc phải thải bỏ. Nói cách khác, các dạng vật chất được coi là chất thải khi người chủ sở hữu hay 9 sử dụng chúng thải bỏ một cách chủ động theo ý chí của họ, hoặc phải thải bỏ một cách bị động theo ý chí của Nhà nước, không sử dụng nó vào bất kỳ mục đích nào khác. + Nguồn gốc phát sinh ra chất thải là từ các hoạt động của con người. Đó là các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt và các hoạt động khác [24, tr. 14] Như vậy, vì CTRTT là một loại chất thải rắn vì vậy muốn xác định một dạng vật chất có phải là CTRTT hay không cần dựa vào ba tiêu chí đã được nêu. Thứ hai, CTRTT không phải là chất nguy thải nguy hại. Tại Điều 3 Luật BVMT 2005 quy định: Chất thải nguy hại là chất thải chứa các chất độc hại, phóng xạ, dễ nổ, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm, gây ngộ độc hoặc đặc tính nguy hại khác. Điều 3 khoản 3 Nghị định 59/NĐ – CP định nghĩa: Chất thải nguy hại chứa các chất hoặc hợp chất có một trong những đặc tính: Phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm, gây ngộ độc hoặc các đặc tính nguy hại khác. Để phân loại và nhận biết chất thải nguy hại ta có thể xem trong Quyết định 23/2006/QĐ-BTNMT ngày 26 tháng 12 năm 2006 của Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành danh mục chất thải rắn nguy hại. Theo Quy chế quản lý chất thải nguy hại năm 1999: “Chất thải nguy hại là chất thải có chứa các chất hoặc hợp chất có một trong các đặc tính gây nguy hại trực tiếp (dễ cháy, dễ nổ, làm ngộ độc, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm và các đặc tính gây nguy hại khác), hoặc tương tác với các chất khác gây nguy hại tới môi trường và sức khoẻ con người” 10 Theo Điểm b mục 1 Thông tư 39/2008/TT- BTC ngày 19 tháng 5 năm 2008 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn thi hành Nghị định 174/2007/NĐCP về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn: Chất thải rắn không có tên trong Danh mục các chất thải rắn nguy hại do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành là CTRTT. Hay tại mục 2.3 Tiêu chuẩn Việt Nam về chất thải rắn không nguy hại thì chất thải rắn không nguy hại là: Chất thải rắn sinh hoạt, chất thải rắn công nghiệp, không chứa hoặc chứa lượng rất nhỏ các chất hoặc hợp chất gây nguy hại đến môi trường và sức khoẻ con người. CTRTT không là chất thải nguy hại bởi CTRTT không mang những đặc tính như: Dễ gây phản ứng, dễ cháy, dễ ăn mòn, dễ gây độc hại, có tính phóng xạ…gây nguy hại nghiêm trong cho môi trường và sức khoẻ con người. Từ các phân tích trên, ở Việt Nam thuật ngữ CTRTT được định nghĩa như sau: Chất thải rắn thông thường là một dạng vật chất ở thể rắn, không phải là thể lỏng, thể khí, không phải là chất thải nguy hại và được thải ra từ các hoạt động khác nhau của con người. Như vậy, một vật chất được coi là CTRTT khi: Là vật chất không phải là thể lỏng, thể khí; Là chất được thải ra từ các hoạt động khác nhau của con người như: Sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ…; Là chất không phải là chất thải rắn nguy hại. Phân loại CTRTT: 11 Theo Điều 77 Luật BVMT 2005, CTRTT được phân thành hai nhóm chính: + Chất thải có thể dùng để tái chế, tái sử dụng; + Chất thải phải tiêu huỷ hoặc chôn lấp. Điều 20 khoản 1 Nghị định 59/2007/NĐ-CP ngày 09 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về quản lý chất thải rắn: CTRTT từ tất cả các nguồn thải khác nhau được phân loại theo hai nhóm chính: + Nhóm các chất có thể thu hồi để tái sử dụng, tái chế: Phế liệu thải ra từ quá trình sản xuất; các thiết bị điện, điện tử dân dụng và công nghiệp; các phương tiện giao thông; các sản phẩm phục vụ sản xuất và tiêu dùng đã hết hạn sử dụng; bao bì bằng giấy, kim loại, thuỷ tinh, hoặc chất dẻo khác...; + Nhóm các chất thải cần xử lý, chôn lấp: Các chất thải hữu cơ (các loại cây, lá cây, rau, thực phẩm, xác động vật,...); các sản phẩm tiêu dùng chứa các hoá chất độc hại (pin, ắc quy, dầu mỡ bôi trơn,...); các loại chất thải rắn khác không thể tái sử dụng. Từ các phân tích trên ta nhận thấy mặc dù CTRTT không chứa các chất nguy hại nhưng nếu cứ xả thải bừa bãi sẽ gây nguy hại đến môi trường và sức khỏe của con người. Hơn nữa, CTRTT chủ yếu phát sinh từ các hoạt động của con người mà nhận thức của cộng đông về công tác bảo vệ môi trường và xử lí chất thải còn yếu kém. Người dân hầu như không nhận thức được tác hại của rác thải và sự ảnh hưởng của rác thải với sức khỏe và môi trường sống, ý thức bảo vệ môi trường chưa cao. Người dân thường quan niệm quản lí chất thải là công việc của nhà nước, pháp luật, chính vì vậy tình trạng xả thác tràn lan bừa bãi còn phổ biến. Nếu cứ tiếp tục xả rác như hiện nay thì phải sống chung với rác thải của chính mình. 12 1.1.3. Khái niệm quản lý chất thải rắn thông thƣờng Theo Từ điển Tiếng Việt, quản lý được hiểu là việc “tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định” [24, tr. 17]. Trong cuộc sống hàng ngày, con người không chỉ tiêu thụ và sử dụng một số lượng lớn các nguyên liệu, sản phẩm từ thiên nhiên, từ sản xuất để tồn tại và phát triển đồng thời cũng vứt, thải lại cho thiên nhiên và môi trường sống các phế thải, rác thải. Nền kinh tế - xã hội càng phát triển, dân số tại các vùng đô thị, trung tâm công nghiệp càng tăng nhanh thì phế thải và rác thải càng nhiều và ảnh hưởng trực tiếp trở lại đời sống của con người, làm cho môi trường bị ô nhiễm, con người mắc bệnh tật, giảm sức khoẻ cộng đồng, đất đai bị biến thành bãi rác, làm mất cảnh quan tại các khu đô thị. Trong lĩnh vực quản lý chất thải, những hoạt động tổ chức và điều khiển của các cơ quan nhà nước cũng như việc tổ chức quản lý chất thải của các tổ chức, cá nhân có liên quan, nhằm giảm bớt những tác động xấu của chất thải đối với môi trường và sức khỏe con người được hiểu là hoạt động quản lý chất thải. Đây là tổng hợp các biện pháp, cách thức nhằm kiểm soát quá trình phát sinh, vận chuyển, xử lý chất thải và những ảnh hưởng, tác động của chất thải đến môi trường. Đã từ lâu, ở các nước phát triển, nhà nước và cộng đồng đã đưa ra các biện pháp xử lý rác thải, đưa vào quy hoạch phát triển kinh tế xã hội; xây dựng hệ thống cống ngầm thoát nước, quy định những nơi chôn rác sinh hoạt, những quy chế, phương pháp thu gom, phân loại, tái chế và quản lý rác. Chính vì vậy, những khu dân cư tập trung và cả đến tận thôn xóm vùng nông thôn của các nước này đều có một cảnh quan đô thị, làng xóm sạch đẹp, văn minh, con người khoẻ mạnh có ý thức giữ gìn vệ sinh chung, đặc biệt là vấn đề vứt rác và thu gom rác. Từ những kết quả thu gom phế liệu, 13 rác thải, con người nhận thấy họ có thể tái chế các nguyên liệu phế thải thành các sản phẩm tiêu dùng mới vừa tiết kiệm bãi rác vừa tăng sản phẩm xã hội. Từ cách thức thu gom, phân loại chất thải đã đem lại nhiều kết quả cho cuộc sống của con người như: Môi trường sống không bị ô nhiễm, giảm diện tích chôn rác, đem lại nguồn lợi kinh tế, thu nhập cho lao động xử lý rác. Để quản lý hiệu quả loại các loại chất thải (bao gồm cả CTRTT), trên thế giới hiện có ba phương thức quản lý, với ba cách tiếp cận không giống nhau. Đó là phương thức quản lý cuối đường ống sản xuất, phương thức quản lý dọc theo đường ống sản xuất và phương thức quản lý nhấn mạnh vào khâu tiêu dùng. Ưu điểm của quản lý chất thải cuối đường ống sản xuất là thuận tiện, ít chi phí về tài chính và tiết kiệm thời gian, nhưng phương thức này lại không tạo được sự chủ động trong phòng ngừa ô nhiễm môi trường. Theo phương thức này, vấn đề quản lý chất thải chỉ đặt ra khi chất thải đã phát sinh tại nguồn thải, nên hiệu quả quản lý tuỳ thuộc chủ yếu vào công đoạn xử lý chất thải. Nếu công đoạn này không được thực hiện tốt thì việc phòng ngừa và giảm thiểu những tác động tiêu cực của chất thải hầu như không thực hiện được. Ngược lại, phương thức quản lý chất thải dọc theo đường ống sản xuất lại khắc phục được hạn chế này. Nó đảm bảo chất thải được kiểm soát tại từng công đoạn của quy trình sản xuất, nên nếu có vấn đề phát sinh tại bất kỳ công đoạn nào cũng có thể được xử lý mà không bị phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của riêng một công đoạn như phương thức quản lý cuối đường ống. Cùng với hai phương thức này, hiện nay, một số quốc gia, chủ yếu là các nước phát triển đã bắt đầu tiếp cận với phương thức quản lý chất thải nhấn mạnh vào khâu tiêu dùng. Phương thức này cho phép các loại chất thải được quản lý trên cơ sở nâng cao nhận thức của 14 người tiêu dùng để khuyến khích họ lựa chọn những sản phẩm thân thiện với môi trường, qua đó khuyến khích các doanh nghiệp hướng tới sản xuất các sản phẩm đó để đáp ứng nhu cầu của thị trường [24, tr. 18]. Ở nước ta, theo thống kê hàng năm có: Hơn 15 triệu tấn rác, trong đó rác sinh hoạt đô thị và nông thôn vào khoảng 12,8 triệu tấn, rác công nghiệp khoảng 2,7 triệu tấn; rác y tế 2,1 vạn tấn, các chất độc hại trong công nghiệp là 13 vạn tấn, trong nông nghiệp là 4,5 vạn tấn [22]. Như vậy, tại Việt Nam nếu chúng ta thực hiện được việc quản lý, thu gom, phân loại và tái chế số lượng chất thải khổng lồ này thì sẽ góp phần không nhỏ làm tăng ngân sách nhà nước và tăng lượng sản phẩm xã hội. Nhưng để làm được việc này một mặt chúng ta cần xây dựng cơ chế quản lý chất thải trong đó có CTRTT, một mặt đưa ra những biện pháp nhằm phát huy tinh thần hợp tác của nhân dân. Khái niệm về quản lý chất thải được định nghĩa đầu tiên tại Thông tư số 1590/TTLT-BKHCN&MT ngày 17 tháng 10 năm 1997 của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường hướng dẫn thi hành Chỉ thị số 199/TTg ngày 3 tháng 4 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ về các biện pháp cấp bách trong quản lý chất thải rắn ở các đô thị và khu công nghiệp: Quản lý chất thải là các hoạt động nhằm kiểm soát toàn bộ quá trình từ khâu sản suất đến thu gom, vận chuyển, xử lý (tái xử dụng, tái chế), tiêu huỷ (thiêu đốt, chôn lấp…) chất thải và giám sát các địa điểm tiêu huỷ chất thải [16]. Ngoài ra trong một số văn bản khác như: Nghị định 175/NĐ-CP ngày 18/10/1994 về hướng dẫn thi hành Luật BVMT 1993; Quyết định số 152/1999/QĐ-TTg về việc phê duyệt chiến lược quản lý chất thải rắn tại các đô thị và khu công nghiệp Việt Nam đến 2020; Chỉ thị số 23/2005/CT- TTg ngày 21 tháng 6 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh công tác quản lý chất thải rắn tại các khu đô thị và công nghiệp; Nghị định 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan