Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật về niêm yết cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ phần ở việt nam và th...

Tài liệu Pháp luật về niêm yết cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ phần ở việt nam và thực tiễn tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội (mb)

.PDF
93
66
117

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐOÀN THỊ NỤ PHÁP LUẬT VỀ NIÊM YẾT CỔ PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI (MB) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐOÀN THỊ NỤ PHÁP LUẬT VỀ NIÊM YẾT CỔ PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI (MB) Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Võ Đình Toàn HÀ NỘI - 2015 2 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n §oµn ThÞ Nô 3 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ NGÂN HÀNG THƢƠNG 6 MẠI CỔ PHẦN, NIÊM YẾT CỔ PHIẾU TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ PHÁP LUẬT VỀ NIÊM YẾT CỔ PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN 1.1 Một số vấn đề pháp lý về ngân hàng thương mại cổ phần và 6 niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán 1.1.1. Nhận diện về ngân hàng thương mại 6 1.1.2. Hoạt động của ngân hàng thương mại 9 1.1.3. Tổng quan về niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán 11 của ngân hàng thương mại cổ phần 1.2. Pháp luật về niêm yết cổ phiếu của các ngân hàng thương mại 19 cổ phần ở Việt Nam 1.2.1. Các chủ thể có liên quan trong quá trình niêm yết cổ phiếu của 20 ngân hàng thương mại cổ phần trên thị trường chứng khoán 1.2.2. Điều kiện niêm yết cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ 21 phần ở Việt Nam 1.2.3. Trình tự niêm yết cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ phần 24 ở Việt Nam 1.2.4 Những rủi ro khi niêm yết cổ phiếu của ngân hàng thương 34 mại cổ phần Chương 2: THỰC TIỄN NIÊM YẾT CỔ PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG 38 THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI 2.1. Tổng quan về tổ chức và hoạt động của MB 4 38 2.1.1. Cơ cấu tổ chức của MB 39 2.1.2. Mạng lưới hoạt động của MB 42 2.1.3. Dịch vụ và các hoạt động kinh doanh 43 2.2. 46 Thực tiễn quá trình niêm yết cổ phiếu của MB 2.2.1. Đánh giá về các thuận lợi và khó khăn của MB khi niêm yết 46 2.2.2. Trình tự, thủ tục niêm yết cổ phiếu MB 53 2.2.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của MB sau khi niêm yết 54 Chương 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP 63 LUẬT VỀ NIÊM YẾT CỔ PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC NIÊM YẾT CỔ PHIẾU ĐỐI VỚI CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN VÀ MB 3.1. Những định hướng chung của việc hoàn thiện pháp luật về 63 niêm yết cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ phần 3.1.1. Hoàn thiện quy định về niêm yết cổ phiếu của ngân hàng 63 3.1.2. Hướng dẫn chi tiết các vấn đề tại Luật Các tổ chức tín dụng 66 về niêm yết của ngân hàng thương mại cổ phần 3.1.3. Quy định về nhà đầu tư nước ngoài 67 3.1.4. Hướng dẫn về dánh giá giá trị thương hiệu, giá trị ngân hàng 70 thương mại cổ phần khi niêm trên thị trường chứng khoán 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về niêm yết cổ phiếu của 72 MB trên thị trường chứng khoán 3.2.1. Hoàn thiện mô hình tổ chức, quản trị và điều hành đáp ứng 72 quy định pháp luật về quản trị công ty niêm yết 3.2.2. Nâng cao năng lực tài chính và quản lý nguồn vốn theo yêu 74 cầu tại Nghị định 57/2012/NĐ-CP về quản lý tài chính của tổ chức tín dụng 3.2.3. Thiết lập các quy trình, thủ tục kiểm soát rủi ro thị trường theo các quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và thông lệ quốc tế 5 75 3.2.4. Thành lập Ban xử lý thông tin để thực hiện quản lý thông tin, 76 thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin theo quy định pháp luật về chứng khoán 3.2.5. Nâng cao công tác quản lý cổ đông và quan hệ nhà đầu tư 77 theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 3.2.6. Các giải pháp cụ thể khác 78 KẾT LUẬN 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83 6 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT HĐQT : Hội đồng quản trị MB : Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội NHNN : Ngân hàng Nhà nước NHTM : Ngân hàng thương mại NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần TTCK : Thị trường chứng khoán 7 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Việt Nam ra đời và phát triển là kết quả của công cuộc đổi mới hệ thống ngân hàng Việt Nam sau những năm 1990. Có thể nói rằng, sự xuất hiện của các NHTMCP là nhân tố để tăng tính cạnh tranh trên thị trường tài chính ngân hàng, góp phần quan trọng trong việc tập trung nguồn vốn của nền kinh tế vào một hệ thống tài chính trung gian chuyên nghiệp và lành mạnh; là công cụ phục vụ hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước về việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các NHTMCP ở Việt Nam đã và đang tiến hành đổi mới, tái cơ cấu, không ngừng cải tổ để củng cố năng lực quản lý và hoạt động của mình; đồng thời luôn nỗ lực tìm chỗ đứng trong bối cảnh có rất nhiều cạnh tranh khốc liệt. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, thế giới và trong nước đã chứng kiến sự đổ vỡ, sáp nhập, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng của hàng loạt các ngân hàng tên tuổi và có bề dầy hoạt động hàng trăm năm như Lehman Brothers - định chế tài chính đã từng là ngân hàng lớn thứ tư của Mỹ với 158 năm tuổi phá sản hôm 15/9/2008. Tiếp theo đó, hàng loạt ngân hàng khác cũng phải phải tiến hành sáp nhập và thậm chí tuyên bố phá sản như: Merrill Lynch, Countrywide Financial, Bear Stearns, Ameribank [34]. Đối với Việt Nam, cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng cũng là một quy luật kinh tế khách quan, tồn tại tất yếu khi chúng ta chủ trương phát triển hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) ổn định, vững chắc, đáp ứng được đòi hỏi của nền kinh tế thị trường trong hoàn cảnh hiện nay và thời gian sắp tới. Đứng trước áp lực cạnh tranh như vậy, trong khi năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam còn nhỏ bé, năng lực cạnh tranh thấp, hệ thống quản trị điều hành còn nhiều bất cập và chưa đáp ứng được yêu cầu, thông lệ 8 quản trị ngân hàng tiên tiến, hiện đại trên thế giới. Do vậy, các ngân hàng Việt Nam sẽ khó đứng vững và phát triển trong thời kỳ hội nhập nếu không có chiến lược phát triển phát triển phù hợp; đồng thời bộ máy quản trị, điều hành ngân hàng phải đối mới, phải có các giải pháp để tăng cường, nâng cao khả năng hoạt động, quản trị rủi ro để phát triển bền vững và tiệm cận với các quy định về quản trị ngân hàng hiện đại trên thế giới. Ngoài ra, việc tăng giới hạn sở hữu của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài vào các NHTMCP Việt Nam kéo theo hệ quả tất yếu của xu hướng thâu tóm, can thiệp sâu hơn vào bộ máy tổ chức, quản lý và điều hành tại các Ngân hàng trong nước. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để nhanh chóng nâng cao năng lực tài chính, năng lực cạnh tranh của các NHTMCP ở Việt Nam là một đòi hỏi cấp thiết để đủ khả năng duy trì và phát triển NHTMCP trong cuộc chiến cạnh tranh "không cân sức" với các định chế tài chính nước ngoài đang đầu tư mạnh mẽ vào Việt Nam trong giai đoạn tới. Nhận thức sâu sắc vấn đề làm thế nào để tồn tại và phát triển, các NHTMCP Việt Nam đã chủ động giải bài toán hội nhập bằng cách nâng cao tiềm lực tài chính, đầu tư mạnh mẽ vào công nghệ ngân hàng, tái cơ cấu bộ máy tổ chức hoạt động, chú trọng phát triển sản phẩm dịch vụ ngân hàng, xây dựng khung quản trị rủi ro hiệu quả theo thông lệ quốc tế để nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực hoạt động, tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên, tiến trình tăng năng lực tài chính của các NHTMCP theo cách truyền thống diễn ra chậm chạp trong khi tiến trình mở cửa thị trường tài chính ngân hàng đã diễn ra và áp lực cạnh tranh mỗi ngày một lớn. Do vậy, để tăng nhanh năng lực tài chính của các NHTMCP thì bài toán đầu tiên phải kể đến là làm thế nào để huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn hoạt động của ngân hàng. Đồng nghĩa với đó là vấn đề niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán (TTCK) của các NHTMCP cần phải được quan tâm hàng đầu vì tính ưu việt của huy động vốn qua TTCK chính là một sự lựa chọn tốt nhất. Chính vì vậy, niêm yết 9 trên TTCK của các NHTMCP Việt Nam là phương án khả thi để nâng cao năng lực tài chính, năng lực cạnh tranh của NHTMCP. Tuy nhiên, việc niêm yết cổ phiếu của các ngân hàng cần được nghiên cứu, cân nhắc một cách kỹ lưỡng, bởi lẽ, nó không chỉ ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng mà còn ảnh hưởng tới hiệu quả của TTCK nói chung cũng như sự an toàn cho hệ thống NHTMCP nói riêng. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề niêm yết cổ phiếu của các NHTM nói chung và niêm yết cổ phiếu của các NHTM cổ phần nói riêng đã được đề cập và thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính ngân hàng và những người quan tâm đến sự phát triển TTCK tại Việt Nam. Tuy nhiên, một số đề tài nghiên cứu, bài viết đăng trên các báo chuyên ngành tiếp cận vấn đề này trên góc độ đánh giá chung và góc độ quản lý kinh tế. Vì thế, việc phân tích các quy định pháp luật và thực tiễn của việc niêm yết cổ phiếu của NHTMCP trên TTCK vẫn là rất cần thiết vì nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nâng cao năng lực hoạt động của các NHTMCP trong bối cảnh hiện nay. Ngoài ra, từ thực tế phát sinh trong quá trình công tác tại NHTMCP Quân đội, tôi đã thu được những kiến thức thực tế bổ ích về hoạt động của ngân hàng, trong đó tôi đặc biệt quan tâm tới chế định pháp lý về niêm yết cổ phiếu của Ngân hàng trên Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh; diễn biến quá trình hoạt động trước và sau niêm yết của NHTMCP Quân đội và đề xuất các giải pháp cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động niêm yết tại NHTMCP Quân đội. Vấn đề niêm yết cổ phiếu của NHTM trên TTCK được một số tác giả nghiên cứu như: Luận văn thạc sĩ "Thông tin và minh bạch thông tin trên thị trường chứng khoán" của tác giả Lê Trường Vinh; Luận văn thạc sĩ "Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh việc niêm yết cổ phiếu của các ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam" của tác giả Nguyễn Thị Thanh 10 Huyền; Luận án tiến sĩ "Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam" của tác giả Lê Thị Hương Lan… 3. Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về NHTM, NHTMCP và TTCK, pháp luật về niêm yết chứng khoán của NHTMCP ở Việt Nam và MB, luận văn làm sáng tỏ cơ sở pháp lý cho việc niêm yết của NHTMCP nói chung, của NHTMCP Quân đội nói riêng trên TTCK và đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTMCP nói chung và của MB khi niêm yết trên TTCK. Theo đó, mục tiêu nghiên cứu cụ thể được xác định là: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về NHTM và TTCK, sự điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động niêm yết cổ phiếu của NHTMCP tại Việt Nam; - Thực tiễn và những vướng mắc, bất cập về pháp lý phát sinh trong quá trình niêm yết cổ phiếu của NHTMCP Quân đội tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh; - Đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh việc niêm yết các NHTMCP trên TTCK Việt Nam nói chung và của NHTMCP Quân đội nói riêng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu là các văn bản quy phạm pháp luật về NHTMCP liên quan đến niêm yết cổ phiếu trên TTCK, tình hình hoạt động của các NHTMCP niêm yết tại Việt Nam, tình hình hoạt động của NHTMCP Quân đội, các tư liệu thực tế có liên quan. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề pháp lý và thực tiễn của hoạt động niêm yết cổ phiếu của NHTMCP trên TTCK Việt Nam; thực tiễn hoạt động niêm yết của NHTMCP Quân đội. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp thu thập và tổng hợp thông tin, so sánh, 11 phân tích, đối chiếu… để làm sáng tỏ các căn cứ, cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu; từ đó rút ra những vấn đề còn tồn tại trong hệ thống pháp luật và đưa ra những giải pháp để hoàn thiện. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả vận dụng các quan điểm, đường lối, chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước để khái quát, hệ thống và khẳng định các kết quả nghiên cứu. 6. Những đóng góp mới của luận văn - Luận văn đã làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về niêm yết cổ phiếu của NHTMCP; đánh giá vai trò của pháp luật đối với hoạt động niêm yết cổ phiếu của NHTMCP trên TTCK; đánh giá đặc thù của việc niêm yết cổ phiếu của NHTMCP so với các công ty cổ phần hoạt động trong các ngành nghề kinh doanh khác. - Luận văn đã đề xuất, kiến nghị một số vấn đề có ý nghĩa tham khảo về hoàn thiện Luật các tổ chức tín dụng và hướng dẫn các nội dung liên quan đến niêm yết cổ phiếu của NHTMCP, hướng dẫn định giá thương hiệu và mô hình quản trị của NHTMCP khi thực hiện niêm yết và các giải pháp cụ thể để nâng cao hoạt động của MB. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về ngân hàng thương mại cổ phần, niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán và pháp luật về niêm yết cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ phần. Chương 2: Thực tiễn niêm yết cổ phiếu của Ngân hàng thương mại cổ phần quân đội. Chương 3: Định hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về niêm yết cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ phần nhằm nâng cao hiệu quả của việc niêm yết cổ phiếu đối với các ngân hàng thương mại cổ phần và MB. 12 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN, NIÊM YẾT CỔ PHIẾU TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ PHÁP LUẬT VỀ NIÊM YẾT CỔ PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN 1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN VÀ NIÊM YẾT CỔ PHIẾU TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN 1.1.1. Nhận diện về ngân hàng thƣơng mại Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc đặc biệt, điều này thể hiện ở mục tiêu và hoạt động của NHTM là thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ liên quan đến hoạt động tài chính tiền tệ ngân hàng theo quy định của pháp luật, phục vụ các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế khác vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước. Tổ chức và hoạt động của NHTM được thực hiện theo các quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các quy định hiện hành của NHNN Việt Nam. Ngân hàng thương mại đóng vai trò là một định chế tài chính trung gian, là nhân tố quan trọng trong việc khai thông nguồn vốn tiết kiệm đáp ứng nhu cầu đầu tư, tiêu dùng của các cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế. Đồng thời nó cũng giữ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cho nền kinh tế vận hành hữu hiệu thông qua các kênh huy động vốn từ dân cư và phân phối lại nguồn vốn đó thông qua các hình thức cấp tín dụng theo quy định của pháp luật. Theo Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16 tháng 6 năm 2010: "Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận" [35]. 13 Qua các khái niệm trên chúng ta có thể rút một số đặc trưng của NHTM như sau: - Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp có địa vị pháp lý bình đẳng như tất cả các loại hình doanh nghiệp khác, có ngành nghề kinh doanh chính là kinh doanh tiền tệ và hoạt động ngân hàng, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. NHTM là một pháp nhân độc lập, tổ chức bộ máy tổ chức chặt chẽ, có hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ và quản trị rủi ro, hệ thống các đơn vị nghiệp vụ, đơn vị kinh doanh (chi nhánh và phòng giao dịch) đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của pháp luật. - Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt. Tính chất "đặc biệt" NHTM thể hiện các mặt sau: Lĩnh vực hoạt động kinh doanh của NHTM là tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng - đây được coi là lĩnh vực đặc biệt vì nó liên quan trực tiếp đến tất cả các ngành, đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, được ví là "mạch máu của nền kinh tế", là bức tranh phản ánh dòng vốn của bất kỳ đất nước nào. Mặt khác, lĩnh vực tiền tệ ngân hàng là lĩnh vực cực kỳ nhạy cảm, đòi hỏi luôn có sự thận trọng trong việc điều hành hoạt để tránh gây thiệt hại cho nền kinh tế. NHTM là một doanh nghiệp nhưng nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để kinh doanh chủ yếu là nguồn vốn huy động từ bên ngoài, vốn tự có của ngân hàng chiếm tỷ trọng rất thấp trong tổng nguồn vốn kinh doanh. - Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính, bản chất "trung gian tài chính" của NHTM thể hiện ở việc NHTM là tổ chức thực hiện việc "đi vay để cho vay", nghĩa là NHTM sử dụng nguồn vốn huy động thông qua các kênh huy động và tái sử dụng nguồn vốn đó để thực hiện cấp tín dụng, giải ngân đến các đối tượng có nhu cầu vay vốn và đáp ứng được điều kiện do NHTM đặt ra trên nguyên tắc bảo toàn nguồn vốn, có lãi và đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật và hướng dẫn của NHNN về nguyên tắc cho vay, thẩm định tiền vay. 14 Ngân hàng thương mại là một định chế tài chính trung gian có vị trí quan trọng nhất trong việc khai thông các nguồn vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư của các chủ thể trong nền kinh tế, đồng thời nó cũng có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cho nền kinh tế vận hành nhịp nhàng, hữu hiệu. NHTM hoạt động theo định chế tài chính tổng hợp và là thành viên chủ yếu tham gia vào hoạt động của thị trường tiền tệ cũng như thị trường vốn. Chức năng trung gian tài chính của NHTM bao gồm chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán cho các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Chức năng trung gian tín dụng của NHTM là việc ngân hàng làm cầu nối giữa người có vốn và người có nhu cầu sử dụng vốn, hay nói các khác NHTM đóng vai trò vừa là chủ thể đi vay, vừa là chủ thể cho vay trong nền kinh tế [30]. Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán khi ngân hàng thực hiện theo yêu cầu của khách hàng như trích một khoản tiền trên tài khoản tiền gửi để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào một khoản tiền gửi của khách hàng từ tiền bán hàng hóa hoặc các khoản phải thu khác theo lệnh của chủ tài khoản hoặc người được ủy quyền để làm tăng số dư tài khoản thanh toán. Hiện nay, NHTM nắm giữ phần lớn các khoản chi trả, thanh toán về hàng hóa và dịch vụ của các doanh nghiệp và một bộ phận dân cư. Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và thanh toán, NHTM có điều kiện thuận lợi về thông tin, quan hệ với các doanh nghiệp; mặt khác đội ngũ nhân viên ngân hàng có chuyên môn sâu sắc trong lĩnh vực tài chính, đầu tư, quản lý dòng tiền nên từ đó có khả năng làm tư vấn tài chính, tư vấn đầu tư, đại lý phát hành cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, đại lý bảo hiểm, ngân hàng lưu ký chứng khoán... NHTM cũng có thể tham gia trực tiếp vào thị trường tiền tệ thông qua việc mua bán các loại chứng khoán hoặc đơn thuần làm dịch vụ kinh doanh tiền tệ để thu lợi nhuận. NHTM cũng sử dụng các 15 nguồn lực để tạo ra sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới, thỏa mãn nhu cầu dịch vụ ngân hàng của người dân. Hiện nay, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng rất đa dạng, đáp ứng phần lớn nhu cầu của người dân, doanh nghiệp thông qua các kênh cung cấp rất đa dạng như sản phẩm truyền thống, sản phẩm ngân hàng điện tử. 1.1.2. Hoạt động của ngân hàng thƣơng mại Theo quy định tại Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12, nội dung và phạm vi hoạt động chính của ngân hàng của NHTM như sau: - Nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi khác. Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn trong nước và nước ngoài. Như vậy, hoạt động nhận tiền gửi của NHTM bản chất là một kênh huy động truyền thống, qua đó thu hút được lượng tiền vốn dư thừa trong dân cư và doanh nghiệp. Ngoài ra, thông qua việc phát hành chứng chỉ tiền gửi và các loại chứng khoán, NHTM cũng thực hiện được chức năng huy động vốn; tuy nhiên đây là các kênh huy động vốn mang tính hiện đại và linh động hơn rất nhiều so với hoạt động nhận tiền gửi truyền thống. - Cấp tín dụng dưới các hình thức: Cho vay; chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá khác; bảo lãnh ngân hàng; phát hành thẻ tín dụng; bao thanh toán trong nước; bao thanh toán quốc tế đối với các ngân hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế; các hình thức cấp tín dụng khác sau khi được NHNN chấp thuận. Như vậy, bản chất của hoạt động cấp tín dụng của NHTM là sự phân phối lại nguồn vốn cho các đối tượng có nhu cầu về tín dụng, tạo nguồn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh trở lại của nền kinh tế. - Mở tài khoản thanh toán cho khách hàng; cung ứng các phương tiện thanh toán; cung ứng các dịch vụ thanh toán; tổ chức và tham gia các hệ thống thanh toán. 16 - Ngân hàng thương mại được mở tài khoản tiền gửi, tài khoản thanh toán ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về ngoại hối. - Góp vốn, mua cổ phần: NHTM phải thành lập hoặc mua lại công ty con, công ty liên kết để thực hiện hoạt động kinh doanh sau đây: Bảo lãnh phát hành chứng khoán, môi giới chứng khoán; quản lý, phân phối chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán; quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và mua, bán cổ phiếu; cho thuê tài chính; bảo hiểm. NHTM được thành lập, mua lại công ty con, công ty liên kết hoạt động trong lĩnh vực quản lý tài sản bảo đảm, kiều hối, kinh doanh ngoại hối, vàng, bao thanh toán, phát hành thẻ tín dụng, tín dụng tiêu dùng, dịch vụ trung gian thanh toán, thông tin tín dụng. Như vậy, hoạt động góp vốn, mua cổ phần của NHTM được quy định khá chặt chẽ. Thông thường các NHTM chỉ được góp vốn, mua cổ phần trực tiếp trong các lĩnh vực có liên quan trực tiếp tới hoạt động ngân hàng như kiều hối, vàng, bao thanh toán, tín dụng tiêu dùng... còn đối với các hoạt động khác như chứng khoán, quản lý quỹ, cho thuê tài chính, bảo hiểm thì NHTM bắt buộc phải thực hiện thông qua công ty con, công ty liên kết của NHTM. - Tham gia thị trường tiền tệ: NHTM được tham gia đấu thầu tín phiếu Kho bạc, mua, bán công cụ chuyển nhượng, trái phiếu Chính phủ, tín phiếu Kho bạc, tín phiếu NHNN và các giấy tờ có giá khác trên thị trường tiền tệ. - Kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối và sản phẩm phái sinh: Sau khi được NHNN chấp thuận bằng văn bản, NHTM được kinh doanh, cung ứng dịch vụ cho khách hàng ở trong nước và nước ngoài các sản phẩm sau đây: Ngoại hối; phái sinh về tỷ giá, lãi suất, ngoại hối, tiền tệ và tài sản tài chính khác. - Nghiệp vụ ủy thác và đại lý: NHTM được quyền ủy thác, nhận ủy thác, đại lý trong lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kinh doanh bảo hiểm, quản lý tài sản theo quy định của NHNN. - Các hoạt động kinh doanh khác của NHTM: Dịch vụ quản lý tiền mặt, tư vấn ngân hàng, tài chính; các dịch vụ bảo quản tài sản, cho thuê tủ, két 17 an toàn; tư vấn tài chính doanh nghiệp, tư vấn mua, bán, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp và tư vấn đầu tư; mua, bán trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp; dịch vụ môi giới tiền tệ; lưu ký chứng khoán, kinh doanh vàng và các hoạt động kinh doanh khác liên quan đến hoạt động ngân hàng sau khi được NHNN chấp thuận bằng văn bản. Như vậy, NHNN với vai trò là cơ quan quản lý và giám sát an toàn hoạt động của các NHTM đã thực hiện kiểm soát chặt chẽ đối với các hoạt động kinh doanh khác của NHTM, theo đó chỉ khi được NHNN chấp thuận bằng văn bản thì các NHTM mới được tiến hành các hoạt động kinh doanh khác. Việc quản lý và giám sát chặt chẽ này nhằm đảm bảo và duy trì sự hoạt động an toàn của các NHTM nhằm củng cố chức năng chính là định chế tài chính trung gian cho nền kinh tế. 1.1.3. Tổng quan về niêm yết cổ phiếu trên thị trƣờng chứng khoán của ngân hàng thƣơng mại cổ phần 1.1.3.1. Khái niệm thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những tổ chức phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. Như vậy, xét về mặt hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ các loại chứng khoán thông qua hệ thống trung gian là các công ty chứng khoán. Các tổ chức và cá nhân tham gia TTCK có thể được chia thành các nhóm sau: nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán. Chỉ số chứng khoán tăng hay giảm, giá chứng khoán lên hay xuống phụ thuộc vào cung cầu thị trường và bối cảnh chung của nền kinh tế. Vì thế, có thể nói sự chuyển động của giá cổ phiếu có thể là một đồng hồ dự báo 18 khuynh hướng chung của nền kinh tế. Sự phát triển TTCK có tính thanh khoản và chiều sâu còn mang lại cho các quốc gia sự ổn định cao hơn của hệ thống tài chính. TTCK được gọi là "hàn thử biểu" của nền kinh tế, tính thanh khoản của thị trưởng thể hiện ở khối lượng và giá trị giao dịch tốt thì bức tranh thị trường vốn thông qua kênh này sẽ dồi dào; nghĩa là nguồn vốn tái đầu tư cho các mục đích kinh doanh của các doanh nghiệp sau mỗi đợt chào bán, giao dịch sẽ đem lại hiệu quả tích cực. Như vậy, quan niệm đầy đủ, rõ ràng và phù hợp với sự phát triển chung của TTCK hiện nay như sau: TTCK là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tùy theo tính chất sở hữu của chúng. Các quan hệ mua bán trao đổi chứng khoán làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán và thực chất đây là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Thị trường chứng khoán không giống như thị trường các loại hàng hóa thông thường, hàng hóa trên TTCK gắn với quyền của người sở hữu nó. Như vậy, có thể nói: Bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán chính là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa [30]. 1.1.3.2. Niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Niêm yết chứng khoán được coi là quá trình "định danh" các chứng khoán đáp ứng đủ tiêu chuẩn được giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán. Cụ thể là việc đưa các chứng khoán có đủ tiêu chuẩn vào đăng ký và giao dịch 19 tại thị trường giao dịch tập trung (là các Sở giao dịch chứng khoán). Cụ thể, đây là quá trình Sở giao dịch chứng khoán xem xét và chấp thuận cho công ty phát hành có chứng khoán được phép niêm yết và giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán nếu công ty đó đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn, điều kiện mà Sở giao dịch chứng khoán đề ra, phù hợp quy định pháp luật về chứng khoán. Hoạt động niêm yết đòi hỏi phải đảm bảo sự tin cậy đối với nhà đầu tư. Các công ty xin niêm yết phải có đáp ứng được các điều kiện để niêm yết và công khai thông tin, hồ sơ doanh nghiệp đối với nhà đầu tư. Điều kiện này được quy định cụ thể trong quy chế về niêm yết chứng khoán do Sở giao dịch chứng khoán ban hành. Yêu cầu quan trọng nhất trong vấn đề niêm yết là yêu cầu về công bố thông tin của công ty. Các nhà đầu tư phải nắm được đầy đủ các thông tin và có cơ hội nắm bắt thông tin do công ty phát hành, đảm bảo sự công bằng trong tiếp nhận thông tin, kể cả các thông tin mang tính chất định kỳ hoặc thông tin bất thường có tác động đến giá cả, khối lượng chứng khoán giao dịch cũng như tình hình hoạt động của tổ chức phát hành. Mục đích cơ bản của niêm yết cổ phiếu là nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư và đảm bảo duy trì sự hoạt động lành mạnh của TTCK. Điều quan tâm nhất của nhà đầu tư khi quyết định tham gia mua bán chứng khoán của tổ chức phát hành là đó phải là chứng khoán thực, chứng khoán ấy phải đảm bảo việc chi trả cổ tức và quyền lợi khác cho nhà đầu tư. Việc niêm yết cổ phiếu cũng nhằm thiết lập mối quan hệ hợp đồng giữa Sở giao dịch chứng khoán với tổ chức phát hành về nghĩa vụ cung cấp thông tin ra công chúng những thông tin có liên quan đến cổ phiếu và công ty đó. Sở giao dịch chứng khoán đề ra các quy định, quy chế niêm yết, quy chế giao dịch, thanh toán, bù trừ... cũng như đưa ra các nguyên tắc công khai thông tin nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch và công bằng cho mọi nhà đầu tư trên TTCK. Có thể hiểu, niêm yết cổ phiếu là việc đưa các cổ phiếu có đủ điều kiện vào giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán theo các tiêu chuẩn, trình tự, quy định mà Sở giao dịch chứng khoán ban hành. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan