Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật về lao động chưa thành niên...

Tài liệu Pháp luật về lao động chưa thành niên

.PDF
81
301
69

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SỸ PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN NGUYỄN THỊ HUYỀN CHUYÊN NGÀNH: LUậT KINH Tế MÃ Số: 60.38.01.07 NGƯờI HƯớNG DẫN KHOA HọC: PGS.TS TRầN THị THÚY LÂM HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan : Khoá luận tốt nghiệp với đề tài “Pháp luật về lao động chưa thành niên” là trung thực và không sao chép của ai. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc rõ ràng và được phép công bố. Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của riêng mình ! Hà Nội, ngày 30/10/2017 Tác giả Nguyễn Thị Huyền LỜI CẢM ƠN Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật kinh tế với đề tài “Pháp luật về lao động chưa thành niên” là kết quả của quá trình cố gắng không ngừng của bản thân tôi và được sự giúp đỡ, động viên khích lệ của các thầy, bạn bè đồng nghiệp và người thân. Qua trang viết này tác giả xin gửi lời cảm ơn tới những người đã giúp đỡ tôi trong thời gian học tập - nghiên cứu khoa học vừa qua. Tôi xin tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với cô giáo PGS.TS Trần Thị Thúy Lâm, người đã trực tiếp tận tình hướng dẫn cũng như cung cấp tài liệu thông tin khoa học cần thiết cho luận văn này. Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Viện đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt công việc nghiên cứu khoa học của mình. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn đồng nghiệp, đơn vị công tác đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện Luận văn. Hà Nội, 30/10/2017 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Huyền MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN VÀ PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN ..................10 1.1. Khái niệm lao động chưa thành niên .................................................. 10 1.2. Đặc điểm của lao động chưa thành niên............................................. 13 1.2.1. Đặc điểm về sinh lý ....................................................................... 13 1.2.2. Đặc điểm về tâm lý ......................................................................... 14 1.3. Tính tất yếu khách quan phải sử dụng lao động chưa thành niên và sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật đối với lao động chưa thành niên ..... 15 1.3.1. Tính tất yếu khách quan phải sử dụng lao động chưa thành niên .......... 15 1.3.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật đối với lao động chưa thành niên ................................................................................................ 16 1.4. Pháp luật quốc tế và Pháp luật của một số quốc gia về lao động chưa thành niên .......................................................................................... 18 1.4.1. Pháp luật về lao động chưa thành niên theo quy định của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và Liên Hiệp quốc ............................................... 18 1.4.2. Pháp luật về lao động chưa thành niên của một số nước ................. 25 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN................................................................... 30 2.1. Trong lĩnh vực việc làm và đào tạo nghề............................................ 30 2.2. Trong lĩnh vực hợp đồng lao động...................................................... 32 2.3. Trong lĩnh vực thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, và an toàn lao động, vệ sinh lao động .......................................................................... 33 2.4. Tiền lương, thu nhập và bảo hiểm xã hội ........................................... 37 2.5 Trong lĩnh vực kỷ luật lao động và giải quyết tranh chấp ................. 39 CHƯƠNG 3: THựC TIễN THI HÀNH PHÁP LUậT VỀ LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN MộT Số KIếN NGHị NHằM NÂNG CAO HIệU QUả THI HÀNH PHÁP LUậT Về LAO ĐộNG CHƯA THÀNH NIÊN ........................................................................................................... 42 3.1. Thực tiễn thi hành pháp luật về lao động chưa thành niên............... 42 3.1.1. Những kết quả đạt được từ thực hiện pháp luật lao động chưa thành niên ................................................................................................ 42 3.1.2. Một số tồn tại và nguyên nhân ........................................................ 47 3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về lao động chưa thành niên. .......................................................................... 60 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành niên .......................... 60 3.2.2. Nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về lao động chưa thành niên .......................................................................... 66 KẾT LUẬN ................................................................................................. 69 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLLĐ : Bộ luật lao dộng BLĐTB&XH : Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội ILO : Tổ chức Lao động Quốc tế LĐCTN : Lao động chưa thành niên IPEC : Chương trình quốc tế về xoá bỏ lao động trẻ em UN : Tổ chức Liên hợp quốc UNICEF : Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc UBBV&CSTEVN: Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam NSDLĐ : Người sử dụng lao động DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 3.1: Cơ cấu lao động trẻ em theo số giờ làm việc bình quân tuần, 0% .... 52 Bảng 3.2: Lao động trẻ em đang làm việc trong các nghề có nguy cơ thuộc danh mục cấm sử dụng lao động vị thành niên và điều kiện lao động có hại, theo nhóm tuổi và giới tính. .................... 56 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tại Hội thảo “Vận động chính sách, giải pháp phòng ngừa lao động trẻ em trong thảm họa thiên nhiên và biến đổi khí hậu” do Bộ LĐ-TB&XH phối hợp với Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tổ chức vào ngày 13/6/2017 tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) Nguyễn Trọng Đàm đã cho biết: Theo ước tính của ILO, thế giới hiện có khoảng 168 triệu lao động trẻ em. Việc trẻ em phải lao động sớm để lại hậu quả nặng nề, ảnh hưởng đến sự phát triển hài hòa của trẻ em, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, nhất là chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai. Tại Việt Nam hiện có 1,75 triệu lao động trẻ em và người chưa thành niên từ 5 - 17 tuổi, chiếm 9,6% tổng dân số trẻ em. Trong tổng lao động là người chưa thành niên, có tới 85% lao động chưa thành niên sinh sống ở nông thôn và 15% ở thành thị; 67% tham gia lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, 16,6% nhóm ngành dịch vụ và 15,8% nhóm xây dựng, công nghiệp. Trung bình mỗi năm nước ta phải hứng chịu từ 5 - 7 cơn bão, riêng năm 2016 đã có 20 loại hình thiên tai xảy ra tại Việt Nam. Thiên tai ảnh hưởng đến hàng chục triệu người trong đó có trẻ em, gây ra thiệt hại về kinh tế dẫn đến sản xuất bị đình trệ, dẫn đến làm giảm tăng trưởng quốc gia. Khó khăn về kinh tế của gia đình có nguy cơ buộc trẻ em phải nghỉ học, tham gia các hoạt động kinh tế nhằm giúp đỡ gia đình vượt qua thách thức trong cuộc sống. Thực tế hiện nay, một bộ phận lao động là người chưa thành niên làm việc trong điều kiện lao động ngoài trời, đi lại nhiều dễ bị tai nạn, nguy hiểm, điều kiện làm việc quá nóng, quá lạnh, môi trường có hoá chất độc hại và các tổn thương khác đến sự phát triển thể chất của người chưa thành niên. Thậm chí, nhiều trường hợp phải làm việc các nghề cấm sử dụng lao động chưa thành niên hoặc điều kiện lao động có hại. Số liệu thống kê cũng cho thấy, có 1 khoảng 933 ngàn trẻ em là người chưa thành niên làm việc ở những nơi có nguy cơ bị bóc lột và bị xâm hại, trong đó có 11,6% lao động phải dịch chuyển nơi làm liên tục; gần 3,9% người chưa thành niên làm việc tại các nhà máy, xưởng sản xuất; trên 2,3% làm việc tại nhà khách hàng, 1,47% làm việc tại các nhà hàng, quán, bar, khách sạn; khoảng 2,45% trẻ em là người chưa thành niên phải làm việc tại các phố chợ. Các địa điểm làm việc khó khăn như mỏ đá, công trường xây dựng, xưởng sản xuất, hoặc môi trường nhạy cảm như cửa hàng, quán, bar, nhà hàng, khách sạn chủ yếu là người chưa thành niên ở nhóm từ 15 tuổi đến 17 tuổi. Mặc dù, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong phòng ngừa và giảm thiểu lao động chưa thành niên, xây dựng khuôn khổ pháp lý, chính sách vững chắc để phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về lao động, đồng thời, cũng đã thực hiện một số chương trình, dự án cấp trung ương và địa phương để giảm thiểu lao động chưa thành niên. Nhiều mô hình được triển khai thí điểm tại một số địa phương đã cải thiện điều kiện lao động và an toàn vệ sinh lao động, môi trường làng nghề, hoạt động du lịch và các hoạt động trong nông nghiệp, ngư nghiệp. Tuy nhiên, lao động chưa thành niên vẫn còn tồn tại ở một số nơi, đặc biệt trong khu vực kinh tế phi chính thức. Tình trạng này đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển về tâm lý, sức khoẻ của người chưa thành niên, hạn chế cơ hội học tập và ảnh hưởng đến cơ hội có việc làm bền vững của họ trong tương lai. Ngoài ra, trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, việc vi phạm quy định về sử dụng lao động chưa thành niên còn ảnh hưởng tới cam kết của Việt Nam về thực hiện Công ước số138 về độ tuổi tối thiểu làm việc và Công ước số 182 về cấm và hành động ngay lập tức để xoá bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, ảnh hưởng tới việc xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp. Trong thời gian qua, trên thực tế đã có nhiều đơn vị, cơ sở, cá nhân là người sử dụng lao động có ý thức chấp hành tốt những quy định pháp luật 2 dành cho lao động chưa thành niên, như những quy định về độ tuổi lao động và học nghề, về giao kết hợp đồng lao động, về điều kiện lao động, bảo hộ lao động...Tuy nhiên, cũng còn không ít đơn vị, cá nhân, nhất là các cơ sở tư nhân, việc thực hiện những quy định pháp luật đối với lao động chưa thành niên chưa thật tốt, quyền lợi của người lao động chưa thành niên chưa thực sự được đảm bảo. Tình trạng sử dụng lao động chưa thành niên không có hợp đồng lao động, không có bảo hiểm xã hội, sự vi phạm các quy định về thời gian làm việc nghỉ ngơi, về an toàn, vệ sinh lao động...còn xảy ra khá phổ biến. Mặt khác việc thanh tra, kiểm tra, giám sát, quản lý nhà nước còn chưa được thường xuyên, việc tuyên truyền pháp luật trong lĩnh vực này còn chưa thường xuyên và chưa sâu rộng. Trong nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, cũng như trong quan hệ xã hội khác, các quan hệ lao động, trong đó có lao động chưa thành niên cũng không ngừng biến động. Điều này đòi hỏi một số quy định pháp luật lao động cần được bổ sung, sửa đổi để đáp ứng tình hình. Để bảo vệ và tạo điều kiện cho người chưa thành niên vừa có thể tham gia quan hệ lao động lại không ảnh hưởng đến sự phát triển thể lực và trí lực, pháp luật về lao động hiện hành của Việt Nam cho phép đối tượng này được tham gia vào những quan hệ lao động phù hợp với sức khỏe và năng lực của họ, đồng thời nghiêm cấm việc lạm dụng sức lao động của người chưa thành niên vào làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, làm việc quá sức. Đối với lao động chưa thành niên, quy chế lao động riêng được quy định nhằm bảo vệ và tạo điều kiện cho sự phát triển thể lực, trí lực của họ. Việc cho phép và tạo điều kiện cho họ tham gia quan hệ lao động là một bước tập dượt về chuyên môn tay nghề, về ý thức tổ chức kỷ luật trước khi trở thành chủ nhân của xã hội. Đây cũng là những lý do để tôi chọn vấn đề : “Pháp luật về lao động 3 chưa thành niên” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Ở Việt Nam, vấn đề người lao động chưa thành niên được đề cập trực tiếp trong các giáo trình Luật lao động của một số cơ sở đào tạo luật như Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa Luật Đại học Cần Thơ và 1 số luận văn tốt nghiệp. Có thể kể đến 1 số công trình nghiên cứu sau: -“ Vấn đề lao động trẻ em” của Vũ Ngọc Bình, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2000 . Tập trung nêu vấn đề lao động trẻ em trên thế giới và vấn đề lao động trẻ em ở Việt Nam hiện nay, các giải pháp nhằm giải quyết vấn đề lao động trẻ em trong nền kinh tế thị trường. - "Bảo vệ chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn" của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với UNICEF biên soạn, NXB Lao dộng - Xã hội, Hà Nội năm 2000. - Báo cáo nghiên cứu “Trẻ em làm thuê giúp việc gia đình ở Hà Nội” năm 2000 được Khoa Tâm lý học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện. - Báo cáo nghiên cứu “Thực trạng trẻ em làm việc tại bãi rác Nam Sơn” năm 2000 của Viện xã hội học. - Báo cáo nghiên cứu về “Trẻ em làm thuê tại làng gốm Bát Tràng” năm 2000 của Vụ Chính sách lao động và việc làm. -Báo cáo nghiên cứu “Tình hình lao động trẻ em ở 8 tỉnh, thành phố Việt Nam” năm 2009 của Viện Khoa học Lao động và Xã hội. - Báo cáo nghiên cứu “ Điều kiện lao động, sức khoẻ nghề nghiệp của trẻ em và người chưa thành niên tham gia lao động tại ba làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ, đá mỹ nghệ và dệt truyền thống” năm 2009 của Hội y học lao động Việt Nam…. - Luận văn tiến sỹ (2012), Đại học Quốc gia Hà Nội, Trần Thắng Lợi về “Hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành niên trong điều kiện hội 4 nhập quốc tế.” -Luận văn thạc sỹ thạc sỹ (2002), Đại học Quốc gia Hà Nội, Phan Văn Hùng về “ Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam”. - Luận văn thạc sĩ ( 2014), Đại học Luật Hà Nội, Hứa Thúy Nga “Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam” - Khóa luận tốt nghiệp (2016), Đại học Luật Hà Nội Nguyễn Thị Thanh Thủy “ Pháp luật về lao động chưa thành niên và thực tiễn thực hiện tại thành phố Hà Nội.” - Đặc biệt, năm 2012 Tổng cục Thống kê (GSO) đã tiến hành cuộc “ Điều tra toàn quốc về Lao động trẻ em”, phối hợp với Viện Khoa học Lao động và Xã hội thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện với sự hỗ trợ kỹ thuật của tổ chức Lao động quốc tế ( ILO). Gần đây nhất, là Chương trình phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ em giai đoạn 2016 - 2020, được Thủ tướng chính phủ Việt Nam phê duyệt ngày 07/06/2016. Chương trình nhằm mục tiêu nâng cao nhận thức của cộng đồng, xã hội về vấn đề lao động trẻ em; Hoàn thiện luật pháp, chính sách về phòng ngừa và trợ giúp lao động trẻ em; Thực hiện mạnh mẽ cam kết quốc tế về xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất vào năm 2016 và giảm thiểu lao động trẻ em vào năm 2020. Đây là chương trình và nghiên cứu có tính cập nhật nhất đến thời điểm hiện nay. Chương trình cũng thực hiện khảo sát của Ủy ban về thực hiện luật pháp, chính sách liên quan đến lao động trẻ em, được thực hiện tại 5 tỉnh, thành phố là Hà Nội, Thanh Hóa, Vĩnh Long, Lào Cai và thành phố Hồ Chí Minh về lao động trẻ em trong giai đoạn 2009 - 2013. Ngoài ra, Chương trình phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ em giai đoạn 2016 - 2020 còn đề cập đến vấn đề lao động trẻ em dưới hình thái bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại. Trước đây, ở Việt Nam chưa có một báo cáo nào về tình trạng trên ngoại trừ báo cáo được công bố năm 2012 5 do Bộ LĐ-TBXH phối hợp với Unicef tổ chức. Nhìn chung các nghiên cứu này được thực hiện dưới góc độ kinh tế-xã hội và chủ yếu nhằm tìm hiểu thực trạng, mức độ và hình thức lao động trẻ em tại một số tỉnh, thành phố ở Việt Nam mà chưa đề cập nhiều, sâu dưới góc độ luật học. Do vậy, đề tài thạc sỹ “ Pháp luật về lao động chưa thành niên” là công trình trực tiếp nghiên cứu về người lao động chưa thành niên dưới góc độ pháp luật một cách tương đối toàn diện và có hệ thống, ít nhất là cập nhật đến thời điểm hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu đề tài gồm: + Đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về lao động chưa thành niên. + Đưa ra những ý kiến đề xuất, các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật lao động về người lao động chưa thành niên, cũng như áp dụng vào thực tế sao có hiệu quả. - Nhiệm vụ nghiên cứu: + Một là những vấn đề như: khái niệm, đặc điểm, sự cần thiết, ý nghĩa của việc quy định đối với lao động chưa thành niên, lịch sử hình thành chế độ pháp lý đối lao động chưa thành niên ở nước ta. + Hai là nghiên cứu những quy định pháp luật quốc tế liên quan đến lao động chưa thành niên để so sánh, đối chiếu với pháp luật trong nước. - Ba là trên cơ sở các vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, luận án đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật lao động về người lao động chưa thành niên. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: +Các quy định pháp luật lao động trong Bộ Luật lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ Luật lao động. 6 + Một số nội dung có liên quan trong các văn bản pháp luật khác như: một số quy định trong Luật trẻ em (2016), Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015, Bộ Luật dân sự (2015). + Một số công ước của tổ chức lao động quốc tế về lao động chưa thành niên như công ước số 138 năm 1973 về độ tuổi lao động tối thiểu và Công ước số 182 năm 1999 về cấm và hành động ngay lập tức để xoá bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất là những văn bản liên quan trực tiếp đến người lao động chưa thành niên mà Việt Nam đã phê chuẩn. - Phạm vi nghiên cứu Lao động chưa thành niên là vấn đề có thể được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong luận văn này tác giả nghiên cứu về lao động chưa thành niên dưới góc độ luật học và nghiên cứu ở các lĩnh vực lao động như việc làm, học nghề, hợp đồng lao động, kỷ luật động, an toàn vệ sinh lao động….Bên cạnh đó luận văn cũng nghiên cứu về lao động chưa thành niên theo quy định của ILO và một số quốc gia để làm cơ sở so sánh. 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài Tác giả lấy phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin cũng như của lý luận chung về Nhà nước và pháp luật làm cơ sở phương pháp luận. Kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh, coi trẻ em là tương lai của đất nước. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể thích hợp với từng mặt, từng khía cạnh của đề tài, như: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp phân tích lịch sử; phương pháp khảo sát... Phương pháp tổng hợp là phương pháp được sử dụng chủ yếu tại Chương 1 và Chương 2 của luận án khi nghiên cứu những vấn đề lý luận và đánh giá thực trạng pháp luật về người lao động chưa thành niên nhằm tìm ra những ưu điểm, hạn chế trong việc quy định về nội dung điều chỉnh pháp luật 7 đối với người lao động chưa thành niên. Ngoài ra, trong Chương 2 của luận án cũng sử dụng thêm phương pháp thống kê, điều tra, khảo sát và phỏng vấn trực tiếp để làm rõ thực tiễn thực thi pháp luật về người lao động chưa thành niên. Phương pháp phân tích, so sánh và logic được sử dụng trong hầu hết các nội dung nghiên cứu ở cả ba chương để giải quyết các nội dung cụ thể của luận án. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Với mong muốn góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về người lao động chưa thành niên nói riêng, pháp luật lao động nói chung, luận văn có những điểm mới sau đây: + Góp phần sáng tỏ thêm 1 số vấn đề pháp lý về lao động chưa thành niên và pháp luật điều chỉnh đối tượng này trong bối cảnh hội nhập quốc tế như: khái niệm, đặc điểm, phân loại, ý nghĩa...của lực lượng lao động này để phân biệt với các loại lao động khác, đồng thời làm căn cứ cho việc hoàn thiện các quy định riêng đối với họ. + Phân tích những quy định pháp luật của quốc tế có liên quan đến lao động chưa thành niên và đối chiếu với quy định trong nước. + Xác định các tác động chủ yếu của quá trình hội nhập quốc tế đối với pháp luật về người lao động chưa thành niên. + Đánh giá toàn diện về thực trạng pháp luật đối với người lao động chưa thành niên ở Việt Nam và chỉ ra những vấn đề cần phải sửa đổi, bổ sung trong hệ thống pháp luật. + Đưa ra những kiến nghị có tính chất giải pháp mang tính pháp lý nhằm hoàn các quy định hiện hành về người lao động chưa thành niên, đề xuất thêm một số giải pháp kèm theo luận giải cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về người lao động chưa thành niên. 7. Ý nghĩa và thực tế của luận văn Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu là ở chỗ, có thể làm tài liệu tham khảo 8 cho các nhà hoạch định chính sách, chế định pháp luật, cũng như phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu và cho tất cả những ai quan tâm đến lao động chưa thành niên dưới góc độ pháp luật. Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo cho các cơ quan hữu quan trong quá trình hoạch định chính sách, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về người lao động chưa thành niên ở Việt Nam. Bên cạnh đó, ở mức độ nhất định, luận văn cũng giúp cho những người hoạt động trong lĩnh vực lao động, xã hội những kiến thức cần thiết trong thực tiễn áp dụng pháp luật lao động về người lao động chưa thành niên phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội Việt Nam, phù hợp với xu hướng chung của quốc tế. Luận văn cũng có thể được sử dụng như một nguồn tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu và giảng dạy khoa học luật lao động trong các trường chuyên luật hoặc các trường có giảng dạy luật lao động. Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho bất kỳ cá nhân nào quan tâm đến việc bảo vệ người lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, nội dung của luận án gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về lao động chưa thành niên và pháp luật lao động chưa thành niên Chương 2: Thực trạng pháp luật về lao động chưa thành niên hiện nay Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về lao động chưa thành niên 9 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN VÀ PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN 1.1. Khái niệm lao động chưa thành niên Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật ở mỗi quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên. Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Tham khảo thêm các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến người chưa thành niên gồm: Công ước về Quyền trẻ em (United Nations Convention on the Rights of the Child) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20-11-1989; Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật với người chưa thành niên (United Nations Standard Minimum Rules for the Administration of Juvenile Justice /Beijing Rules) ngày 29-11-1985; Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên (United Nations Guidelines for the Prevention of Juvenile delinquency/ Riyadh Guidelines) ngày 14-12-1990. Theo quan niệm quốc tế thì trẻ em (Child) là người dưới 18 tuổi, người chưa thành niên (Juvenile) là người từ 15 đến 18 tuổi, thanh niên (Youth) là người từ 15 đến 24 tuổi, người trẻ tuổi (Young persons) bao gồm trẻ em, người chưa thành niên và thanh niên. Trong số 30 công ước đề cập đến vấn đề lao động trẻ em của tổ chức lao động quốc tế (viết tắt là ILO) phải đặc biệt quan tâm đến Công ước 138 về độ tuổi lao động tối thiểu (1973) và Công ước 182 về cấm và hành động ngay lập tức xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (1999). Tại Điều 2 Công ước 182 trẻ em được quy định là người dưới 18 tuổi, còn công ước 138 chia nhóm 10 lao động dưới 18 tuổi thành các nhóm nhỏ hơn (nhóm từ 13 đến dưới 15 tuổi, nhóm từ 15 đến dưới 18 tuổi). Một số quốc gia như Vương quốc Anh, Malaysia…có quy định người lao động dưới 18 tuổi là lao động trẻ em như hai công ước trên, tuy nhiên, hầu hết các quốc gia khác như Campuchia, Pháp…dùng thuật ngữ lao động chưa thành niên để chỉ lao động dưới 18 tuổi. Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến pháp (mới đây nhất là Hiến pháp năm 2013), Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Luật xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể. Pháp luật Việt Nam công nhận người thành niên là người đủ 18 tuổi trở lên, khi chưa đủ 18 tuổi tức là người chưa thành niên. Còn khái niệm “trẻ em ” theo quy định của pháp luật Việt Nam không hoàn toàn trùng với quy định của Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Xét về độ tuổi, thì trẻ em theo quan niệm của Liên hợp quốc (dưới 18 tuổi) tương ứng với khái niệm “người chưa thành niên” (dưới 18 tuổi) của pháp luật Việt Nam. Theo Luật trẻ em năm 2016: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Khái niệm “trẻ em dưới 16 tuổi” không còn giới hạn trẻ em là công dân Việt Nam, mà đối tượng áp dụng của Luật còn bao gồm cả trẻ em là người nước ngoài cư trú tại việt Nam. Như vậy, theo pháp luật Việt Nam thì người chưa thành niên bao gồm cả trẻ em và người từ trên 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Ngoài ra, độ tuổi kết nạp Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh là từ 10 đến 15 tuổi, tuổi kết nạp Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là từ 15 đến 30 tuổi. Trong tuổi Đoàn gọi là thanh niên, trong tuổi Đội là thiếu niên, dưới tuổi Đội gọi là nhi đồng. Ở mỗi lứa tuổi, người chưa thành niên được Nhà nước và xã hội quan tâm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục để phát triển tốt 11 nhất về thể chất và nhân cách, trở thành người khỏe mạnh, có ích cho xã hội. Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên. Vì vậy, có thể đưa ra khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên. Công ước số 138 về Độ tuổi tối thiểu mà Việt Nam đã tham gia năm 2003, quy định các nước thành viên tham gia công ước phải xác định độ tuổi tối thiểu được đi làm việc hoặc được đi lao động và không một ai ở dưới độ tuổi tối thiểu đó được đi làm việc hoặc được lao động trong bất cứ nghề nào, độ tuổi tối thiểu đó không được dưới độ tuổi kết thúc chương trình giáo dục bắt buộc và bất kỳ trường hợp nào cũng không được dưới 15 tuổi. Tại Điều 6 BLLĐ 2012 của Việt Nam quy định: “người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi”. Mặt khác, tại khoản 1 Điều 119 quy định “người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Kết hợp quy định tại Điều này với quy định tại Điều 6 trên, ta thấy độ tuổi của người lao động chưa thành niên là từ đủ 15 tuổi cho tới dưới 18 tuổi.Như vậy, có thể thấy pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi. Sau đó, năm 2013 Bộ LĐTBXH đã ra thông tư 11/2013/TT- BLĐTBXH ngày 11/6/2013 quy định danh mục các công việc nhẹ được sử dụng người dưới 15 tuổi làm việc. Từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm về người lao động chưa thành niên như sau: Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động. 12 1.2. Đặc điểm của lao động chưa thành niên So sánh với người lao động khác, có thể thấy người lao động chưa thành niên có một số đặc điểm cơ bản như: là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân. Đây là lứa tuổi mà kinh nghiệm trong cuộc sống còn quá ít ỏi, đặc biệt là khả năng nhận thức về pháp luật còn nhiều hạn chế. Người lao động chưa thành niên được pháp luật bảo vệ ở mức độ cao hơn so với người lao động thành niên; người lao động chưa thành niên bị hạn chế một phần năng lực hành vi khi giao kết hợp đồng lao động trong những trường hợp nhất định. Dựa trên những cơ sở khoa học, người lao động chưa thành niên gồm 2 đặc điểm sau: 1.2.1. Đặc điểm về sinh lý Ở độ tuổi trẻ em, nhất là giai đoạn từ 13 đến 15-16 tuổi, là giai đoạn có sự phát triển mang tính đột biến về sinh lý, biểu hiện trẻ phát triển nhanh về chiều cao và trọng lượng. Cụ thể hệ xương, cơ bắp phát triển mạnh, đặc biệt là xương tay, xương chân. Các em bắt đầu bước vào tuổi dậy thì (lúc này các em trai có hiện tượng xuất tinh và các em gái có hiện tượng kinh nguyệt). Ở giai đoạn này, nếu lao động với cường độ quá sức, hoặc làm việc trong môi trường độc hại, thiếu vệ sinh đều có thể gây ảnh hưởng xấu tới sự triển cả thể lực và trí lực của người chưa thành niên. Đây chính là cơ sở để Bộ luật lao động quy định: "Cấm nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc, trừ một số nghề và công việc do Bộ lao động-Thương binh và Xã hội quy định" (Điều 120). Kết quả của các công trình nghiên cứu sự phát triển hình thái thể lực của trẻ em ở trong nước và thế giới cho thấy: đến tuổi 17, mức tăng trưởng hàng năm về chiều cao và cân nặng, hai chỉ tiêu đại diện của hình thái thể lực, giảm tới mức nhỏ nhất (gần bằng 0). Điều đó chứng tỏ ở tuổi 17, sự tăng trưởng cơ thể rất ít và từ 18 tuổi trở đi, cơ thể bắt đầu ổn định về mặt hình 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan