Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh môn luật cạnh tranh và bả...

Tài liệu Pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh môn luật cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng

.DOC
16
86
146

Mô tả:

Bài Tập Lớn học kỳ Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng. ~MỤC LỤC~ ---o0o--I.ĐẶT VẤN ĐỀ...........................................................................................................2 II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ...........................................................................................2 1.Lý luận cơ bản về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.....................................................2 1.1. Khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh............................................................2 1.2. Đặc điểm của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.......................................................2 1.3. Các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh......................................................3 2. Các trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm theo Luật cạnh tranh 2004............................................................................................................3 2.1 Cơ sở cho việc miễn trừ trách nhiệm cho các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ......................................................................................................................................3 + Quyền tự do kinh doanh............................................................................................3 + Sự cân xứng về các lợi ích mà pháp luật bảo vệ......................................................4 2.2.Những trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm...........5 2.2.1.Chiến lược liên doanh và hợp tác phát triển.......................................................7 2.2.2.Chiến lược xây dựng các tiêu chuẩn chung về sản phẩm và các điều kiện kinh doanh............................................................................................................................8 2.2.3.Chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh.......................................................9 2.3. Thủ tục xin được hưởng miễn trừ........................................................................11 3.Thực tế áp dụng pháp luật và kiến nghị về Các trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm theo Luật cạnh tranh 2004.....................................12 3.1. Thực tế áp dụng pháp luật về Các trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm theo Luật cạnh tranh 2004.....................................................12 3.2. Kiến nghị về Các trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm theo Luật cạnh tranh 2004..................................................................................14 III. KẾT LUẬN.......................................................................................................15 ~DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO~...............................................................16 1 Bài Tập Lớn học kỳ Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng. BÀI LÀM I.ĐẶT VẤN ĐỀ Pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (TTHCCT) thực sự rất cần thiết cho nền kinh tế nhằm mục đích để cho cuộc cạnh tranh được diễn ra một cách đúng đắn. Để đảm bảo cho cạnh tranh là động lực phát triển của nền kinh tế thì nhà nước phải dùng các công cụ để giám sát, ngăn ngừa và vô hiệu hóa các hành vi cản trở hoặc tiêu hủy cạnh tranh trên thị trường của các Doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ hiều quả kinh tế theo một hướng tích cực thì TTHCCT trong một số trường hợp có tác dụng tiết kiệm chi phí và nguồn lực của xã hội thông qua việc hình thành các điều kiện kinh doanh chung, khắc phục khủng hoảng, chuyên môn hóa các quy trình công nghệ cao,… Do đó pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đều đặt ra những ngoại lệ đối với một số TTHCCT nhất định trên cơ sở chính sách cạnh tranh của từng nước, song việc công nhận và áp dụng ngoại lệ đều phải tuân thủ chặt chẽ và nghiêm ngặt. II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1.Lý luận cơ bản về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 1.1. Khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Dưới góc độ nghiên cứu trong khoa học pháp lý có thể hiểu: “thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất ý chí của từ 2 chủ thể kinh doanh trở lên được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào, có hậu quả làm giảm, sai lệnh, cản trở cnahjt ranh trên thị trường.” 1.2. Đặc điểm của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Thứ nhất, chủ thể tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là các doanh nghiệp hoạt động độc lập. Thứ hai, một TTHCCT chỉ được hình thành khi có sự thống nhất về ý chí của các bên tham gia thỏa thuận. Sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận được thể hiện công khai hoặc không công khai. Thứ ba, hậu quả của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là làm giảm sức ép cạnh tranh, làm sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường. 2 Bài Tập Lớn học kỳ Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng. 1.3. Các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Được quy định tại Điều 8 Luật Cạnh tranh và hướng dẫn chi tiết tại các điều từ Điều 14 đến Điều 21 Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh. Theo đó các hình thức của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm: + Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. + Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ. + Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, dịch vụ. + Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư. + Thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng. + Thỏa thuậ ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh. + Thỏa thuận loại khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận. + Thông đồng để một hoặc các bên của thỏa thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ. 2. Các trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm theo Luật cạnh tranh 2004. 2.1 Cơ sở cho việc miễn trừ trách nhiệm cho các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Việc xử lý các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh luôn đòi hỏi Nhà nước cần cẩn trọng bởi thực tế và kinh nghiệm của các nước cho thấy không phải mọi thỏa thuận đều gây hại cho thị trường. Theo đó, các quy định về việc miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được xây dựng trên những cơ sở lý luận và thực tiễn sau: + Quyền tự do kinh doanh Tự do kinh doanh luôn bao hàm trong nó quyền được khế ước và lập hội. Các chủ thể tham gia thị trường hoàn toàn có quyền chủ động trong việc liên kết để thiết lập và thực hiện các chiến lược kinh doanh của mình một cách hiệu quả. Công quyền và pháp luật không những không được can thiệp mà còn phải xây dựng các cơ chế bảo hộ cho những hoạt động nói trên. 3 Bài Tập Lớn học kỳ Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng. Với tư cách là lực lượng bảo vệ công lý và lẽ phải, Nhà nước và pháp luật chỉ có thể can thiệp vào sự tự do khi hành vi của một nhóm người là nguy cơ đe doạ sự tự do, quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Khi sự liên kết của các doanh nghiệp tạo ra khả năng xâm hại lợi ích của doanh nghiệp khác, của người tiêu dùng và của thị trường, pháp luật cần có các biện pháp để ngăn chặn và trừng phạt. + Sự cân xứng về các lợi ích mà pháp luật bảo vệ Dưới góc độ tác động đối với cạnh tranh, các thỏa thuận luôn có tính hai mặt. Theo đó, ngoài những khả năng gây hại cho cạnh tranh, nhiều thỏa thuận không có khả năng gây hại, hoặc bên cạnh khả năng gây ra nhiều tác hại làm giảm cạnh tranh, nhiều thoả thuận còn đem lại nhiều tác dụng tích cực cho sự phát triển của thị trường. Vì vậy, pháp luật của các nước đều đòi hỏi người thực thi phải luôn cân nhắc và tính toán đến mọi khả năng có thể xảy ra để có thái độ trừng phạt hay cho phép thực thi các thỏa thuận trên thực tế. Có những trường hợp, cơ quan thực thi pháp luật cần xem xét sự cân xứng giữa lợi ích mà thỏa thuận đem lại với thiệt hại có thể gây ra cho thị trường để đưa ra quyết định cuối cùng về việc trừng phạt hay cho phép thỏa thuận. Pháp luật của các nước sử dụng quy tắc hợp lý để đánh giá sơ bộ về tác động của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nhằm giới hạn phạm vi áp dụng của các quy định cấm. Quy tắc hợp lý cho phép loại bỏ việc áp dụng các quy định cấm đối với những thõa thuận vừa có hệ quả tích cực đối với cạnh tranh, vừa có hậu quả phản cạnh tranh nếu như hệ quả tích cực nhiều hơn hệ quả phản cạnh tranh. Do đó mục II chương III của Luật mẫu về cạnh tranh của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế, hoặc trong điều 81 Hiệp ước Rome của Cộng đồng châu Âu quy định “những thỏa thuận bị cấm tại khoản 1 có thể được tuyên bố miễn áp dụng nếu thỏa thuận đó góp phần cải thiện sản xuất hay phân phối hàng hóa, hay khuyến khích ứng dụng tiến bộ kinh tế, kỹ thuật, trong khi cho phép người tiêu dùng hưởng lợi một cách tương ứng”. Luật cạnh tranh của nhiều nước như Đức, Nhật, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Liên bang Nga… đều cho phép trong những trường hợp cụ thể và trong một thời hạn nhất định như trong điều kiện suy thoái của nền kinh tế, nhu cầu hợp lý hoá sản xuất… các cartel có thể được pháp luật thừa nhận mà các lợi ích mà nó có khả năng đem lại là cơ sở kinh tế quan trọng để pháp luật và cơ chế thực thi xem xét công nhận hay loại trừ các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Dưới góc độ của lý thuyết cạnh tranh, khả năng gây hại và tác dụng của thỏa thuận giữa các doanh nghiệp phản ánh mức độ hạn chế cạnh tranh của hành vi. Pháp luật và công quyền sẽ 4 Bài Tập Lớn học kỳ Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng. chỉ có thể lên án thỏa thuận nếu như có đủ cơ sở kinh tế để kết luận về khả năng gây hại đến lợi ích mà họ bảo vệ. Tóm lại, là một sự liên kết trong kinh doanh giữa các doanh nghiệp, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể đươc phân tích, xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau, từ đó pháp luật và công quyền có thái độ thích hợp. Bên cạnh những quy định cấm đoán và trừng phạt đối với các thỏa thuận có khả năng gây hại cho thị trường, pháp luật cạnh tranh của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận những trường hợp thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có tác dụng tích cực đối với thị trường, đều được coi là hợp pháp. Tùy theo chính sách cạnh tranh của từng nước mà mức độ cấm đoán hoặc thừa nhận tính hợp pháp của các thỏa thuận trong pháp luật cạnh tranh sẽ khác nhau. 2.2.Những trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm Theo quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam 2004 thì những TTHCCT quy định tại các Khoản 1,2,3,4 và 5 của Điều 8 sẽ được miễn trừ khi các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên, cụ thể thì những thỏa thuận sau đây được xếp vào đối tượng có thể được hưởng miễn trừ: - Thỏa thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; - Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ; - Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng hoá, dịch vụ; - Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; - Thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng. Tuy nhiên, sự miễn trừ được quy định có thời hạn và phải đáp ứng điều kiện nhất định. Những trường hợp miễn trừ chủ yếu dựa trên mục đích của TTHCCT mà các bên đưa ra và việc cân nhắc lợi ích của quốc gia sự phát triển kinh tế của đất nước với hậu quả của các TTHCCT trong một số trường hợp nhất định. Theo quy định của Điều 9 và Khoản 1 Điều 10 Luật Cạnh tranh 2004 thì các thỏa thuận quy định tại các Khoản 6,7, và 8 của Điều 8 Luật Cạnh tranh bị cấm tuyệt đối. Lý do để áp dụng quy định cấm triệt để đối với 3 loại thỏa thuận này là các thỏa thuận này luôn có bản chất hạn chế cạnh tranh và không có cơ sở nào để biện hộ cho các thỏa thuận đó. 5 Bài Tập Lớn học kỳ Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng. Cũng cần lưu ý rằng quy định này có hơi khác so với thông lệ quốc tế. Pháp luật các nước như Châu Âu, Hoa Kỳ, Singapore… thường cấm triệt để theo nguyên tắc vi phạm mặc nhiên đối với 4 loại thỏa thuận: thỏa thuận ấn định giá, thỏa thuận phân chia thị trường, thỏa thuận hạn chế sản lượng và thông đồng trong đấu thầu. Các loại thỏa thuận này luôn bị coi là có tác động hạn chế cạnh tranh đáng kể và vi pahmj luật cạnh tranh mà không cần điều tra tác hại cụ thể mà chúng gây ra hay lý do thực hiện thỏa thuận. Các thỏa thuận còn lại có thể được miễn trừ khi đáp ứng điều kiện do luật định. Đối với các quy định tại mục a, b, c, d của khoản 1 Điều 10 Luật Cạnh tranh Việt Nam cũng tương tự như quy định về điều kiện miễn trừ trong luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Còn đối với quy định tại mục đ, e thì được coi là điều kiện khá đặc trưng của Luật Cạnh tranh Việt Nam, xuất phát từ đặc thù nền kinh tế chủ yếu bao gồm các DN vừa và nhỏ, do đó mà sự tăng cường sức cạnh tranh của các DN này hết sức cần thiết trong quá trình phát triển nền kinh tế. Hơn nữa, với chủ trương của Đảng và nahf nước là chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới thì việc tăng cường sức cạnh tranh, đẩy mainhj xuất khẩu của các DN Việt Nam trên trường quốc tế là mục tiêu hết sức quan trọng. Do đó, những thỏa thuận mang tính chất cạnh trnah không lành mạnh, HCCT trong nước ở một chừng mực nhất định có thể chấp nhận và được phép miễn trừ. Các TTHCCT quy định tại Khoản 1, 2, 3, 4, và 5 Điều 8 sẽ được hưởng miễn trừ nếu như chúng được thực hiện nhằm hạ giá thành và đem lại lợi ích cho người tiêu dùng bằng các chiến lược sau đây(Khoản 1 Điều 10 Luật Cạnh tranh): “A) Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh; B) Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ; C) Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm; D) Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá; Đ) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa; 6 Bài Tập Lớn học kỳ Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng. E) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.” Các trường hợp miễn trừ được quy định nhìn chung là phù hợp với nguyên tắc lập luận hợp lý (là cân nhắc giữa tác động hạn chế cạnh tranh và những lợi ích có được từ thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đối với nền kinh tế và người tiêu dùng) theo thông lệ quốc tế nhằm mục tiêu bảo vệ lợi ích quốc gia và nâng cao hiệu quả kinh tế. Một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vẫn có thể được cho phép thực hiện khi xét thấy lợi ích đối với nền kinh tế và người tiêu dùng vẫn lớn hơn tác động hạn chế cạnh tranh, nói cách khác là tác động tích cực nhiều hơn tiêu cực đối với người tiêu dùng (pháp luật nhiều nước thường không cấm các –ten xuất khẩu, các –ten hình thành trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, các –ten giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các –ten nhằm phát triển khoa học công nghệ hay nâng cao mức độ tiêu chuẩn hóa…) 2.2.1.Chiến lược liên doanh và hợp tác phát triển. Thực tế đã cho chúng ta thấy, là đối thủ cạnh tranh của nhau, các doanh nghiệp đôi khi còn liên kết lại để có thể cạnh tranh tốt hơn trên thị trường bằng cách hợp tác, hỗ trợ nhau để nâng cao khả năng kinh doanh trên thương trường. Sự bổ trợ để phát huy thế mạnh và hạn chế những yếu điểm của từng thành viên tham gia thỏa thuận sẽ đem lại hiệu quả cho sự phát triển của từng doanh nghiệp và cho cả thị trường liên quan. Điều đó có thể thấy rõ thông qua chiến lược liên doanh và hợp tác của các doanh nghiệp. Chiến lược liên doanh và hợp tác phát triển giữa các doanh nghiệp được thực hiện để nhằm: - Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh; - Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ. Có thể minh họa chiến lược này bằng các trường hợp sau: trường hợp 1, hai doanh nghiệp cùng cạnh tranh trên thị trường, trong đó một doanh nghiệp có chất lượng sản phẩm tốt nhưng mạng lưới phân phối kém có thể phối hợp với doanh nghiệp có sản phẩm với chất lượng trung bình nhưng lại có mạng lưới phân phối hiệu quả. Sự liên kết này giúp cho hiệu quả hoạt động của hai doanh nghiệp tốt hơn và đem lại hiệu quả cho người tiêu dùng trong việc hưởng thụ sản phẩm với chất lượng đảm bảo yêu cầu. Trường hợp 2, các doanh nghiệp có thể hợp tác phát triển và thực hiện các công trình nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật có liên quan mà nếu như làm một mình sẽ không đạt được kết quả mong muốn. Trường hợp này thường xảy ra với những ngành 7 Bài Tập Lớn học kỳ Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng. kinh tế kỹ thuật đòi hỏi công nghệ có trình độ cao như chế tạo máy bay, khoa học viễn thông…. 2.2.2.Chiến lược xây dựng các tiêu chuẩn chung về sản phẩm và các điều kiện kinh doanh. Các thỏa thuận nằm trong chiến lược chuẩn hoá những yêu cầu về sản phẩm và các điều kiện kinh doanh thường bao gồm hai nội dung là: - Thỏa thuận giữa các doanh nghiệp nhằm thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm; - Thỏa thuận thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá. Dưới góc độ kinh tế, các thỏa thuận về việc đặt ra các tiêu chuẩn nói trên nhìn chung là có lợi cho người tiêu dùng và có thể làm cho thị trường hoạt động một cách có hiệu quả hơn nếu như những tiêu chuẩn đó là tiến bộ và phản ánh sự đi lên trong công nghệ, kỹ thuật, chất lượng và trình độ kinh doanh. Mặc dù lý thuyết về cạnh tranh đều cho thấy rằng, các tiêu chuẩn về chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm hoặc các điều kiện kinh doanh có thể làm hạn chế cạnh tranh giữa những người tham gia thỏa thuận, có thể làm cho các doanh nghiệp không đáp ứng đủ những tiêu chuẩn đó phải rời khỏi thị trường, thậm chí còn có thể sinh ra những rào cản cho sự gia nhập đối với những doanh nghiệp tiềm năng. Song các nhà hoạch định chính sách cạnh tranh của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế lại cho rằng, các thỏa thuận đặt ra tiêu chuẩn cho sản phẩm và cho hoạt động kinh doanh đem lại lợi ích nhiều hơn so với thiệt hại mà chúng gây ra vì làm giảm cạnh tranh. Điều đó được thể hiện ở hai góc độ: Đầu tiên là việc đặt ra các tiêu chuẩn cho sản phẩm sẽ có lợi ích rất nhiều cho xã hội nếu các tiêu chuẩn này là tích cực và tiến bộ. Bởi thị trường sẽ có được một mặt bằng về sản phẩm đủ chất lượng, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và sẽ loại bỏ được những sản phẩm kém chất lượng trên thị trường. Mặt khác, nó còn giúp cho người tiêu dùng có thêm nhiều thông tin để đưa ra các quyết định chính xác hơn về sản phẩm mà họ dự định mua. Đặc biệt, những thỏa thuận về tiêu chuẩn liên quan đến sức khoẻ và an toàn sẽ bảo vệ người tiêu dùng trước các toan tính gian dối về chất lượng sản phẩm của những nhà kinh doanh bất chính. Ngoài ra, các tiêu chuẩn về sản phẩm còn có ý nghĩa là động lực thúc đẩy doanh nghiệp ứng dụng hiệu quả tiến bộ kỹ thuật vào đời sống kinh doanh. Tiếp đó, việc thống nhất các 8 Bài Tập Lớn học kỳ Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng. điều kiện kinh doanh, thanh toán giữa các doanh nghiệp trên cùng một thị trường có ý nghĩa trong việc cải tiến trình độ quản lý kinh doanh của họ, đặc biệt với những lĩnh vực hoặc ngành nghề đang trong giai đoạn hình thành và phát triển. Sự thống nhất các điều kiện kinh doanh và thanh toán có thể tạo ra những chuẩn mực trong kinh doanh của ngành nghề để từ đó hình thành nên các tập quán tốt đẹp cho hoạt động sản xuất, mua bán trên thị trường đó, đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp và cho khách hàng của họ. Tuy nhiên, để những thỏa thuận thống nhất về điều kiện thương mại được pháp luật cạnh tranh thừa nhận thì chúng không được hủy hoại cạnh tranh, đặc biệt là cạnh tranh về giá và các yếu tố của giá. Điều đó có nghĩa là, các doanh nghiệp khi thiết lập và thực hiện thỏa thuận vẫn còn là đối thủ cạnh tranh của nhau về giá, về các yếu tố của giá…. 2.2.3.Chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh Chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh được Luật Cạnh tranh dự liệu theo hai tiêu chí: + Các thỏa thuận nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa Hiện nay ở nước ta, có hơn 90% trên tổng số doanh nghiệp đang họat động là doanh nghiệp vừa và nhỏ, mức vốn đầu tư trung bình mặc dù có sự tăng lên theo từng thời kỳ nhưng nhìn chung vẫn còn thấp. Với số vốn thấp thì khả năng tiếp cận thị trường quốc tế và thậm chí cả thị trường trong nước gặp nhiều khó khăn do quy mô nhỏ, vốn thấp, trình độ công nghệ lạc hậu, kỹ năng quản lý yếu, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm bản thân hoặc gia đình, thiếu thông tin thị trường.... Dẫn đến chất lượng sản phẩm thường thấp hơn so với các hàng hoá nhập khẩu. Với điều kiện nền kinh tế kém hiệu qủa và khả năng cạnh tranh thấp, nhiệm vụ nâng cao năng lực kinh doanh của doanh nghiệp sẽ là chìa khóa cho việc củng cố và phát triển năng lực cạnh tranh quốc gia. Trong các cuộc tranh luận nên hay không nên bảo hộ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có những ý kiến cho rằng ích lợi mà người tiêu dùng (đại diện cho thị trường) là chuẩn mực phán xét hiệu quả của Luật Cạnh tranh, nên không cần phải trao cho đạo luật này nhiệm vụ bảo hộ các doanh nghiệp nói trên. Quan điểm này còn dựa vào lập luận rằng, cạnh tranh tự nó đã có cơ chế thưởng phạt. Pháp luật chỉ nên can thiệp khi nhà kinh doanh nào đó có ý định làm biến dạng cơ chế thưởng phạt tự nhiên trong thị trường cạnh tranh mà thôi. Bình luận về quan điểm trên, chúng ta nên xuất phát từ ý tưởng được đưa ra là pháp luật cạnh tranh và giới hạn của nó phụ thuộc vào quan niệm về chính sách cạnh tranh của mỗi quốc gia mà chính sách cạnh 9 Bài Tập Lớn học kỳ Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng. tranh lại là bộ phận không tách rời của chính sách phát triển kinh tế. Ở Việt Nam, với quan điểm và nhu cầu xây dựng một nền kinh tế “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vừng, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả những sản phẩm, ngành, lĩnh vực mà nước ta có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước”, thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp là cần thiết để tạo nên nội lực cho sự phát triển chung của thị trường. Trong đó việc giành những quy chế hỗ trợ phát triển cho doanh nghiệp vừa và nhỏ là cần thiết. Vì lẽ đó, với các thỏa thuận hướng đến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn được Nhà nước quan tâm thừa nhận và tạo điều kiện cho chúng thực hiện hiệu quả. + Các thỏa thuận nhằm tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Theo cuốn Từ điển chính sách thương mại quốc tế, cartel công cộng là một loại thỏa thuận trong đó Chính phủ tạo điều kiện cho việc thiết lập và điều tiết các quy tắc thị trường vì các lý do chính sách rộng lớn hơn, bao gồm việc chấp nhận các cartel xuất khẩu nhằm tăng cường sức cạnh tranh cho các hãng trong nước. Trong pháp luật của nhiều nước, nhu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nội địa trong bối cảnh xây dựng và phát triển thị trường chung khu vực và quốc tế là cần thiết. Ngay ở Hoa Kỳ, người ta có thể tìm thấy các quy định về cho phép thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được thực hiện nếu nó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa của họ ở nước ngoài trong đạo luật Webb - Pomerene. Có thể thấy rằng, việc thừa nhận các thỏa thuận có mục đích nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa trên thị trường quốc tế đã được chính sách thương mại quốc tế và kinh nghiệm pháp lý của nhiều nước thừa nhận. Toàn cầu hoá đã bộc lộ những mặt khó chịu của nó đối với nước nghèo, những quốc gia chưa kịp cải cách đã phải chấp nhận những luật chơi quốc tế phần lớn do những nước phương Tây đặt ra. Muốn giành lợi thế so sánh, không còn con đường nào khác là buộc phải chủ động tiếp thu những chuẩn mực của pháp luật thương mại quốc tế đã được thừa nhận. Trong đó, pháp luật phải chuyển từ công cụ quản lý kinh tế Nhà nước sang một trật tự bảo vệ tự do sở hữu, tự do khế ước và bảo vệ môi trường cạnh tranh toàn cầu. Trên tinh thần ấy, bên cạnh việc tạo lập các biện pháp bảo vệ cho sản 10 Bài Tập Lớn học kỳ Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng. xuất nội địa như một yêu cầu tất yếu của quá trình hội nhập, còn cần phải nỗ lực xây dựng và phát triển nội lực. Vì vậy mà mọi nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc nâng cao khả năng kinh doanh, khả năng cạnh tranh khi tham gia vào thị trường quốc tế cần được Nhà nước và pháp luật thừa nhận nếu những nỗ lực đó không gây hại cho nền kinh tế nội địa và không vi phạm pháp luật, tập quán của thương mại quốc tế. Có như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế mới có khả năng thực hiện hiệu qủa. Để các trường hợp thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thuộc diện có thể được miễn trừ phải thực hiện thủ tục xin được hưởng miễn trừ theo pháp luật cạnh tranh. 2.3. Thủ tục xin được hưởng miễn trừ Trong mọi trường hợp, các doanh nghiệp xin hưởng miễn trừ phải chứng minh được thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể làm hạ giá thành và có lợi cho người tiêu dùng ( điều này có nghĩa là các doanh nghiệp có thể bắt tay hợp tác với nhau nhằm cắt giảm chi phí sản xuất, chẳng hạn trong các thỏa thuận mua chung hay bán chung, nhưng sự hợp tác này chỉ có thể được hưởng miễn trừ nếu việc cắt giảm chi phí này dẫn đến việc người tiêu dùng được hưởng mức giá thấp hơn trước kia, việc hợp tác đơn thuần chỉ nhằm tăng mức lợi nhuận của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, không mang lại lợi ích cho người tiêu dùng không thuộc phạm vi hưởng miễn trừ). Ngoài ra, việc thực hiện một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, dù được miễn trừ luôn luôn chỉ “có thời hạn”. Hành vi thuộc các trường hợp được miễn trừ chỉ được phép thực hiện sau khi được cơ quan quản cạnh tranh xem xét và chấp nhận bằng văn bản. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 25 Luật Cạnh tranh Việt Nam thì Bộ trưởng Bộ Thương mại là người có quyền xem xét, quyết định việc miễn trừ bằng văn bản đối với các trường hợp TTHCCT quy định tại Điều 10 của Luật. Điều 26 xác định đối tượng nộp hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ phải là đối tượng trực tiếp của các bên dự định tham gia TTHCCT hoặc tập trung kinh tế quy định tại Điều 10. Điều 27 Luật Cạnh tranh quy định các bên tham gia TTHCCT có thể cư một đại diện làm thủ tục hưởng miễn trừ và việc cử này phải được lập thành văn bản, trong đó quy định rõ quyền, nghĩa vụ và phạm vi trách nhiệm của bên đại diện trong phạm vi ủy quyền. quy định này nhằm tập trung vào một đầu mối liên hệ đại diện cho các bên thỏa thuận để đảm bảo tính hiệu quả trong việc thực thi thủ tục trên. Về cử đại diện các bên dự định tham gia TTHCCT để làm thủ tục đề nghị 11 Bài Tập Lớn học kỳ Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng. hưởng miễn trư được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận của các bên bằng văn bản. Theo đó, quyền và nghĩa vụ của bên đại diện do các bên thỏa thuận quy định và các bên chịu trách nhiệm về hành vi của bên đại diện trong phạm vi ủy quyền. Khoản 1 Điều 28 Luật cạnh tranh quy định cụ thể về hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Đây được coi là cơ sở pháp lý quan trọng để doanh nghiệp tham gia TTHCCT thực hiện các thủ thục đề nghị hưởng miễn trừ, đồng thời tạo cơ sở pháp lý để cơ quan quản lý cạnh tranh thụ lý hồ sơ theo Luật định. theo đó, hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ đối với TTHCCT bao gồm: đơn theo mẫu của cơ quan quản lý cạnh tranh; bản sao hợp lệ giấy chứng nhận đăng lý kinh doanh của từng DN thao gia TTHCCT và điều lệ của hiệp hội đối với trường hợp TTHCCT có sự tham gia của hiệp hội; báo cáo tài chính trong hai năm liên tiếp gần nhất của từng DN tham gia TTHCCT có xác nhận của tổ chức kiểm toán được thành lập theo quy định của pháp luật); báo cáo thị phần trong hai năm liên tiếp gần nhất của từng DN thao gia TTHCCT trên thị trường liên quan; báo cáo các giải trình cụ thể việc đáp ứng các trường hợp được hưởng miễn trừ quy định tại Điều 10 của Luật này; văn bảo ủy quyền của các bên tham gia TTHCCT cho bên đại diện. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 28 Luật Cạnh tranh, bên nộp hồ sơ và các bên tham gia TTHCCT chịu trách nhiệm về tình trạng trung thực của hồ sơ. Quy định này là cơ sở pháp lý quan trọng để DN tham gia TTHCCT thực hiện các thủ tục đề nghị hưởng miễn trừ, đồng thời tạo cơ sở pháp lý để cơ quan quản lý cạnh tranh thụ lý hồ sơ theo luật định. Như vậy, quy định xin miễn trừ này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của các hiệp hội DN do các chính sách kinh doanh chung của các hội viên trong hiệp hội có thể bị đặt dưới sự kiểm soát của cơ quan quản lý cạnh tranh. 3.Thực tế áp dụng pháp luật và kiến nghị về Các trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm theo Luật cạnh tranh 2004. 3.1. Thực tế áp dụng pháp luật về Các trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm theo Luật cạnh tranh 2004. Luật cạnh tranh năm 2004 nhìn chung khá đầy đủ tuy nhiên vẫn còn có một vài thiếu sót cũng như một số điều luật khó áp dụng trên thực tế. Một đặc trưng trong xã hội Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng là không tìm hiểu và nghiên cứu sâu về pháp luật. chính vì thế hiện nay phần lớn các doanh nghiệp chưa hiểu 12 Bài Tập Lớn học kỳ Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng. rõ về pháp luật nói chung và pháp luật cạnh tranh nói riêng dẫn đến việc vi phạm pháp luật. Điển hình là vụ 19 doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam ký thỏa thuận tăng mức phí tối thiểu đối với dịch vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô vào cuối nam 2008 vi phạm nghiêm trọng pháp luật cạnh tranh. Do thiếu hiểu biết về pháp luật đại diện một số công ty lập luận rằng một số điểm trong bản thỏa thuận mang tính tích cực góp phần phát triển thị trường bảo hiểm vật chất xe cơ giới nên được hưởng miễn trừ. Họ lập luận việc tăng phí bảo hiểm chỉ nhằm mục đích phục vụ cho việc trả bảo hiểm, bởi giá bảo hiểm quá thấp sẽ không đủ để chi trả cho những rủi ro lớn. Việc thống nhất này nhằm ổn định thì trường bảo hiểm, góp phần phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam, góp phần phát triển kinh tế đất nước, vì thế họ phải được hưởng miễn trừ. Vậy nhưng như đã phân tích ở phần trên, doanh nghiệp thuộc trường hợp miễn trừ, muốn được hưởng miễn trừ phải lập hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ, và chỉ sau khi có quyết định chấp nhận của Bộ trưởng Bộ Thương mại thì doanh nghiệp mới được hưởng miễn trừ, điều này được quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 36 Luật Cạnh tranh 2004: “Các bên tham gia thoả thuận hạn chế cạnh tranh được hưởng miễn trừ chỉ được thực hiện thoả thuận hạn chế cạnh tranh sau khi có quyết định cho hưởng miễn trừ của Bộ trưởng Bộ Thương mại.” Đối chiếu với trường hợp này thỏa thuận của 19 công ty bảo hiểm được ký trước và sau đó các doanh nghiệp này mới lập luận là thuộc trường hợp miễn trừ là trái với quy định của pháp luật. Một ví dụ thực tế nữa là đầu tháng 7/2004 dưới sự chủ trì của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, các ngân hàng thương mại nhà nước bao gồm Ngân hàng Ngoại thương, ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng Sông Cửu Long, chiếm khoảng 70% thị phần huy động vốn ở Việt Nam đã đồng loạt ấn định lãi suất huy động tiền gửi 6 tháng là 0.5%/tháng, 12 tháng là 0.63%/tháng, còn các kỳ hạn dưới 6 tháng tuy không ấn định trần lãi suất huy động nhưng các ngân hàng này cũng chỉ đạo các chi nhánh phải án định theo mức thấp hơn các kỳ hạn liền kề, bên cạnh đó các ngân hàng này cũng đồng loạt tăng lãi suất cho vay. Rõ ràng Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn đã quy định cụ thể về các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, vậy mà ngay cả các công ty, ngân hàng nhà nước những doanh nghiệp lớn vẫn ngang nhiên vi phạm. Rõ ràng thực tế là công tác phổ biến 13 Bài Tập Lớn học kỳ Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng. pháp luật trong xã hội chưa mang tính hiệu quả cao, các doanh nghiệp vẫn thiếu hiểu biết, hoặc chưa hiểu đúng và đầy đủ về pháp luật dẫn đến những sai phạm trong hoạt động. 3.2. Kiến nghị về Các trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm theo Luật cạnh tranh 2004. + Như đã nói không phải mọi TTHCCT đều có hại, mà có những thỏa thuận tuy có hạn chế tự do cạnh tranh nhưng lại có lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội, tiên bộ kỹ thuật, có lợi cho người tiêu dùng,… Do đó, cần phải xem xét bảo vệ các thỏa thuận này. Hơn nữa, để bảo đảm thực hiện chủ trương của nhà nước ta trong việc “xây dựng một só tập đoàn doanh nghiệp lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hóa, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi chúng ta tiến hành phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế”. Việc quy định những trường hợp miễn trừ đối với các TTHCCT có lợi cho nền kinh tế quốc dân, cho người tiêu dùng và cho các doanh nghiệp là hết sức cần thiết.Tuy nhiên hiện nay, pháp luật Việt Nam còn thiếu quy định về hai điều kiện quan trọng để hưởng miễn trừ, đó là: - Việc thực hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phải là cần thiết và không thể tránh khỏi nhằm đặt được các mục tiêu nói trên; - Và việc thực hiện thỏa thuận hạn chế cạnh trnah không được tạo cho các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận khả năng loại bỏ đáng kể cạnh tranh đối với hàng hóa và dịch vụ có liên quan. Theo kinh nghiệm của nhiều nước thì một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh dù có thể được coi là đem lại hiệu quả kinh tế vẫn không được hưởng miễn trừ, trừ phi thỏa thuận đó là cần thiết và không thể tránh khỏi, nghĩa là nếu như không có thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thì sự hợp tác giữa các doanh nghiệp sẽ không mang lại hiệu quả như mong muốn (ví dụ, các thỏa thuận sản xuất chung có thể đi kèm với thỏa thuận bán chung, thỏa thuận này sẽ là hiệu quả nếu như không có thỏa thuận này các doanh nghiệp sẽ không hợp tác đầu tư sản xuất do chi phí hoặc rủi ro quá lớn). Ngoài ra, một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được cho là đem lại hiệu quả kinh tế cũng sẽ không được hưởng miễn trừ nếu thỏa thuận đó dẫn đến việc loại bỏ đáng kể cạnh tranh trên thị trường dựa trên việc đánh giá tính cạnh tranh trên thị trường trước và sau khi thỏa thuận được thực hiện ( chẳng hạn khi tình hình cạnh tranh trên thị trường đối với một sản 14 Bài Tập Lớn học kỳ Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng. phảm vốn dĩ đã yếu thì việc cho phép thực hiện một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong trường hợp này là hoàn toàn không nên). + Để giảm thiểu những hậu quả do quá trình chuyển đổi nền kinh tế gây ra, chính phủ có thể phải ban hành một số những biện pháp cần thiết, đặc biệt là những biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước. Trong số những biện pháp này có những biện pháp cho phép những DN được liên kết, thỏa thuận với nhau, song những biện pháp này cần được suy xét thận trọng nhằm phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với khung pháp lý của các tổ chức quốc tế mà chúng ta là thành viên, đặc biệt là pháp luật của WTO. Đồng thời cũng đảm bảo lợi ích lâu dài cho Việt Nam, thiết nghĩ pháp luật cạnh tranh Việt Nam nên bổ xung thêm 2 trường hợp miễn trừ trong Điều 10 Luật Cạnh tranh 2004 như sau: “Thỏa thuận giữa các doanh nghiệp trong hoàn cảnh khó khăn chung của cả ngành hay của nền kinh tế nếu các thỏa thuận đó nằm trong chủ trương chung của Nhà nước và cần thiết để vượt qua khó khăn.” + Để đảm bảo thực hiện pháp luật cạnh tranh nói chung và pháp luật cạnh tranh về các trường hợp miễn trừ đối với TTHCCT bị cấm thì công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật cần phải được tiến hành một cách bài bản và có hiệu quả. Việc thực hiện pháp luật có hiệu quả hay không phần lớn phụ thuộc vào ý thức của người chấp hành pháp luật, vì thế quy định của pháp luật đưa ra cần phải đến tay người dân, để họ hiểu và có ý thức chấp hành pháp luật. Những vụ việc, sai phạm như trên chỉ có thể biến mất khi các doanh nghiệp, người dân hiểu và nắm vững pháp luật để tránh những trường hợp ngang nhiên vi phạm pháp luật một cách trắng trợn nhưng lại không biết rằng minh đang vi phạm pháp luật chỉ vì do chưa hiểu biết rõ về pháp luật. III. KẾT LUẬN Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh như phân tích trong bài xét dưới một góc độ nhất định, với một mức độ nhất định và đặt lên bàn cân kinh tế thì nó có những tác động tích cực đến nền kinh tế quốc dân, góp phần ổn định phát triển thị trường. Tuy nhiên việc chấp nhận các trường hợp miễn trừ của những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm cần phải được xem xét một cách thận trọng nếu không sẽ có thể gây những hậu quả tiêu cực cho người tiêu dùng cũng như cho cả nền kinh tế, bởi chỉ khi thị trường nội địa được bảo đảm lành mạnh thì mới thu hút được các nguồn đầu tư trong và ngoài nước phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 15 Bài Tập Lớn học kỳ Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng. ~DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO~ ---o0o--1. Luạt Cạnh tranh năm 2004. 2. Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh. 3. Tập bài giảng Luật Cạnh tranh, Trường đại học Luật Hà Nội, TS. Nguyễn Thị Vân Anh chủ biên, Hà Nội – 2011. 4. Giáo trình Luạt Cạnh tranh, Trường Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh,, PGS.TS. Lê Danh Vĩnh chủ biên, TP. Hồ Chí Minh – 2010. 5. Phạm Hoàng Giang, Xây dựng pháp luật cạnh tranh ở việ nam – một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội – Năm 2001. 6. Hoàng Thị An Khánh, Cơ quan quản lý cạnh tranh trong xử lý vụ việc liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội Năm 2008. 7. Đồng Ngọc Dám, Kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội – 2007. 8. Trần Thị Thu Thủy, Thực trạng pháp luật về cạnh tranh và phương hướng xây dựng luật cạnh tranh ở Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp đại học. Hà Nội – 2008. 9. Websile tham khảo: http://google.com.vn http://danluat.thuvienphapluat.vn 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan