BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN MAI ANH
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT AN TOÀN ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 62.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS. PHẠM THỊ GIANG THU
HÀ NỘI, NĂM 2016
LỜI CÁM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Quý Thầy, Cô của Khoa Pháp
luật kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội đã tận tình giảng dạy và trang bị cho tôi
những kiến thức quý báu trong suốt thời gian theo học tại trường, giúp tôi tiếp cận tư
duy khoa học để phục vụ cho công việc và cuộc sống hàng ngày của tôi.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Phạm Thị Giang Thu đã tận tình hướng dẫn
tôi thực hiện Luận văn này. Với sự hướng dẫn rất bài bản và khoa học của PGS.TS, tôi
đã học hỏi được những kiến thức và phương pháp nghiên cứu khoa học, thiết thực và
bổ ích.
Trong quá trình thực hiện, mặc dù đã hết sức cố gắng để hoàn thiện luận văn,
trao đổi và tiếp thu các ý kiến đóng góp của Quý Thầy Cô và bạn bè, tham khảo nhiều
tài liệu song cũng không thể tránh khỏi sai sót. Rất mong nhận được những thông tin
đóng góp, phản hồi quý báu từ Quý Thầy Cô và bạn đọc.
Xin chân thành cám ơn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Người viết
Nguyễn Mai Anh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực. Nội dung của
công trình nghiên cứu này chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2016
Xác nhận của Giảng viên hướng dẫn
Tác giả
PGS.TS. Phạm Thị Giang Thu
Nguyễn Mai Anh
DANH MỤC VIẾT TẮT
Ngân hàng Nhà nước
: NHNN
Tổ chức tín dụng
: TCTD
Ngân hàng thương mại
: NHTM
Ngân hàng thương mại cổ phần
: NHTMCP
Đại hội đồng cổ đông
: ĐHĐCĐ
Hội đồng quản trị
: HĐQT
Ban kiểm soát
: BKS
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ KIỂM SOÁT AN TOÀN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
CẤP TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM
SOÁT AN TOÀN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI .................................................................................................................. 6
1.1. Khái quát về kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng của Ngân
hàng thương mại .................................................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại kiểm soát an toàn ................................. 6
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm kiểm soát an toàn .................................................. 6
1.1.1.2. Phân loại kiểm soát an toàn..................................................................... 13
1.1.2. Vai trò của kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng của Ngân
hàng thương mại Việt Nam ................................................................................. 15
1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp
tín dụng của Ngân hàng thương mại Việt Nam .......................................................... 18
1.2.1. Khái niệm pháp luật kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng
của Ngân hàng thương mại ................................................................................. 18
1.2.2. Yêu cầu cơ bản của pháp luật kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín
dụng của Ngân hàng thương mại Việt Nam ....................................................... 20
1.2.3. Cơ cấu pháp luật kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng của
Ngân hàng thương mại Việt Nam ....................................................................... 21
CHUƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT AN TOÀN ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở
VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT.................. 25
2.1. Thực trạng pháp luật về kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng
của Ngân hàng thương mại ............................................................................................ 25
2.1.1. Quy định về chủ thể thực hiện kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp
tín dụng của Ngân hàng thương mại ............................................................................ 25
2.1.1.1 Ngân hàng Nhà nước ............................................................................... 25
2.1.1.2. Ngân hàng thương mại ............................................................................ 27
2.1.2. Về nội dung kiểm soát an toàn hoạt động cấp tín dụng .............................. 43
2.1.2.1. Kiểm soát an toàn hoạt động cấp tín dụng thông qua hệ thống quản trị
rủi ro và kiểm soát nội bộ và các chỉ số an toàn ................................................... 43
2.1.2.2. Về quy trình tín dụng - cơ sở để giám sát nội bộ hoạt động cấp tín dụng 51
2.2.1. Cơ sở đề xuất giải pháp xây dựng, hoàn thiện pháp luật về kiểm soát an
toàn đối với hoạt động cấp tín dụng của Ngân hàng thương mại ............................ 68
2.2.1.1. Xuất phát từ thực trạng kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng
của Ngân hàng thương mại và trên cơ sở đánh giá khách quan những hạn chế,
bất cập của pháp luật............................................................................................ 68
2.2.1.2. Xuất phát từ yêu cầu hoàn thiện pháp luật về kiểm soát an toàn đối với
hoạt động cấp tín dụng của Ngân hàng thương mại............................................ 73
2.2.2. Những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện về kiểm soát an toàn đối với
hoạt động cấp tín dụng của Ngân hàng thương mại trong giai đoạn hiện nay...... 75
2.2.2.1. Đối với chủ thể thực hiện kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín
dụng ...................................................................................................................... 76
2.2.2.2. Đối với nội dung kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng của
Ngân hàng thương mại ........................................................................................ 80
KẾT LUẬN....................................................................................................................... 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................... 90
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Cùng với xu hướng mở cửa và hội nhập quốc tế của nền kinh tế, hệ thống ngân
hàng Việt Nam đang từng bước chuyển mình, nhằm theo kịp với sự phát triển chung
của đất nước và xu hướng tại các quốc gia trên thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế và tự
do hóa thương mại mở ra nhiều cơ hội cho các ngân hàng trong nước, tạo điều kiện để
hệ thống ngân hàng Việt Nam tranh thủ được các nguồn vốn, tiếp thu công nghệ hiện
đại, trình độ quản lý tiên tiến của các nước trên thế giới. Nhưng bên cạnh đó, hội nhập
kinh tế quốc tế cũng khiến cho nền kinh tế phải chịu tác động nhiều hơn từ bên ngoài,
các ngân hàng Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt hơn, đối mặt với sự
bất ổn và rủi ro lớn hơn, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh
tế toàn cầu vừa qua đã thách thức sự ổn định của hệ thống ngân hàng, nhất là những
rủi ro từ hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực kinh doanh và cạnh tranh trong điều kiện
mới là nội dung đặc biệt trong chính sách của Đảng và Nhà nước. Theo Quyết định số
254/QĐ-TTg ngày 1/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ về đề án “Cơ cấu lại hệ thống
các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”, mục tiêu cơ bản của giai đoạn 2011 –
2015: “Tập trung lành mạnh hóa tình trạng tài chính và củng cố năng lực hoạt động
của các tổ chức tín dụng; cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của các tổ
chức tín dụng; nâng cao trật tự, kỷ cương và nguyên tắc thị trường trong hoạt động
ngân hàng”. Đây là những định hướng cơ bản và cũng là những đòi hỏi cấp bách nhất
đối với nâng cao khả năng và an toàn của các Ngân hàng thương mại Việt Nam. Trong
hoạt động của Ngân hàng thương mại, cấp tín dụng là một hoạt động kinh doanh, mà
hiện nay đó là nghiệp vụ kinh doanh chính, chủ yếu, đem lại nguồn lợi nhuận lớn nhất
cho các Ngân hàng thương mại. Nghiệp vụ này được thực hiện nhờ nguồn vốn nhàn
rỗi của người dân trong nền kinh tế, ngân hàng thương mại hình thành nên quỹ cho
vay để cung cấp tín dụng cho nền kinh tế, và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác, nó
quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Chính vì lẽ đó, để đảm bảo an toàn cho
các Ngân hàng thương mại, cơ chế kiểm soát an toàn đối với hoạt động kinh doanh nói
chung, và hoạt động cấp tín dụng của Ngân hàng thương mại nói riêng ra đời.
Kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng không phải là vấn đề mới ở
Việt Nam, các văn bản pháp luật hiện hành về kiểm soát đã bước đầu phù hợp với hệ
thống kiểm soát nội bộ, quản trị rủi ro và cơ cấu của các Ngân hàng thương mại song
chưa thật sự đầy đủ và hoàn thiện. Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 và Nghị định
số 59/2009/NĐ-CP ngày 16/07/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Ngân
1
hàng thương mại chỉ dừng lại ở việc xây dựng cơ cấu quản trị cơ bản, các quy định về
cấp tín dụng, quản trị rủi ro, tuy nhiên lại không quy định cụ thể về những cá nhân trực
tiếp thực hiện hoạt động cấp tín dụng cấp cơ sở như cán bộ tín dụng, nhân viên tín
dụng phải làm gì, thẩm quyền quyết định tín dụng ra sao... Chính những bất cập của hệ
thống pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng của các Ngân hàng thương mại ít
nhiều gây ra phiền toái cho ngân hàng cũng như khách hàng trong hoạt động cấp tín
dụng, đồng thời có thể tạo điều kiện thuận lợi để khách hàng hay cán bộ ngân hàng
thực hiện hành vi gian dối, lừa đảo, gây thất thoát nghiêm trọng cho ngân hàng.
Trước thực tế này, để duy trì hoạt động ổn định và tiếp tục phát triển bền vững,
bên cạnh việc nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng,
một trong những nhiệm vụ hàng đầu của các Ngân hàng thương mại là chủ động xây
dựng các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát mức độ an toàn trong hoạt động kinh
doanh ngân hàng nói chung, trong hoạt động cấp tín dụng nói riêng, đồng thời tuân thủ
triệt để quy định pháp luật về kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng của các
Ngân hàng thương mại. Xuất phát từ thực tiễn và tính cấp bách của đề tài, sau một thời
gian nghiên cứu và tìm hiểu, học viên lựa chọn đề tài “Pháp luật về kiểm soát an toàn
đối với hoạt động cấp tín dụng của Ngân hàng thương mại Việt Nam” làm luận văn
thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng của Ngân hàng
thương mại có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo an toàn cho hoạt động
cấp tín dụng nói riêng, cho toàn bộ hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
của các Ngân hàng thương mại nói chung cũng như sự phát triển lành mạnh, ổn định
của Ngân hàng thương mại và hệ thống các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế, tuy
nhiên, cho đến nay vẫn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống. Một số
công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố đề cập đến vấn đề bảo đảm an toàn
trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại ở một vài khía cạnh như:
Luận văn thạc sỹ:“Pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng
của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam”năm 2005 của tác giả Phạm Thành Chung mới
chỉ đề cập sơ lược các quy định về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của
các tổ chức tín dụng nói chung tại thời điểm năm 2005 mà chưa đi sâu phân tích các
quy định này đối với các Ngân hàng thương mại;
Hay luận văn thạc sỹ:“Một số vấn đề pháp luật về quản trị rủi ro trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị
Thùy Trang mới chỉ nghiên cứu về pháp luật quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay
2
mà chưa đi sâu vào phân tích việc kiểm soát an toàn đối với toàn bộ hoạt động cấp tín dụng
của các Ngân hàng thương mại.
Như vậy, có thể thấy các công trình nghiên cứu trên mới chỉ đề cập đến một vài
khía cạnh của pháp luật về kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng của các
Ngân hàng thương mại như đảm bảo an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của hệ
thống các tổ chức tín dụng hay nội dung về quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay mà
chưa đi sâu nghiên cứu đầy đủ pháp luật về kiểm soát an toàn đối với tất cả các hoạt
động cấp tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Mặc dù pháp luật về kiểm soát an
toàn đối với hoạt động cấp tín dụng của các NHTM có vị trí, vai trò quan trọng, nhưng
vẫn chưa được nghiên cứu một cách toàn diện, cụ thể, chưa được quan tâm đúng vị
thế, xét ở Bậc Cao học, hiện nay chưa có một Luận văn nào đề cập đến vấn đề này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Hiện nay, khái niệm kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng theo pháp
luật Việt Nam thường được đề cập trong khuôn khổ kiểm soát an toàn đối với hoạt
động cấp tín dụng trong nội bộ Ngân hàng thương mại và cơ chế giám sát của Chính
phủ, kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước cùng các cơ quan quản lý có liên quan.
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan các yêu cầu kiểm
soát an toàn cấp tín dụng phải đáp ứng những điều kiện sau: mô hình kiểm soát hoạt
động cấp tín dụng; quy trình cấp tín dụng chặt chẽ; hệ thống kiểm soát nội bộ và quản
trị rủi ro; và hoạt động giám sát của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan
có liên quan.
Do phạm vi nghiên cứu rộng và yêu cầu của luận văn cao học luật, nội dung
luận văn đề cập chủ yếu đến pháp luật kiểm soát an toàn trong hoạt động cấp tín dụng
của ngân hàng thương mại cổ phần mà không đề cập đến tất cả các ngân hàng thương
mại còn lại. Luận văn cũng xác định nội dung chính của hoạt động cấp tín dụng của
ngân hàng thương mại hiện nay hướng tới là hoạt động cho vay nên phạm vi tập trung
đánh giá thực trạng pháp luật kiểm soát an toàn cũng đi theo hướng đánh giá hoạt động
cấp tín dụng dưới hình thức cho vay của ngân hàng thương mại. Các nội dung nghiên
cứu còn lại của đề tài này, tác giả luận văn xin được tiếp tục nghiên cứu ở các công
trình khoa học tiếp theo.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Từ các tìm hiểu và các nhận thức nêu trên tại mục tình hình nghiên cứu, mục
đối tượng và phạm vi nghiên cứu, Luận văn cố gắng theo đuổi các mục đích và thực
hiện nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài như sau:
3
Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu chuyên sâu và trình bày một cách có hệ
thống các vấn đề lý luận về kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng của Ngân
hàng thương mại; đánh giá thực trạng pháp luật, tìm kiếm nguyên nhân bất cập và kiến
nghị giải pháp lập pháp, thi hành và tư pháp liên quan;
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích rõ khái niệm về kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng và
làm rõ các vấn đề lý luận về kiểm soát an toàn nhằm làm rõ bản chất, ý nghĩa, vai trò
của kiểm soát, sự tác động của nó đối với Ngân hàng thương mại và nền kinh tế;
- Làm rõ cơ cấu quy trình cấp tín dụng để từ đó luận giải nhu cầu điều chỉnh
pháp luật đối phù hợp;
- Làm rõ lý luận về xây dựng quy trình kiểm soát nội bộ và quản trị rủi ro đối
với hoạt động cấp tín dụng;
- Làm rõ các quy định về giám sát của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các
cơ quản quản lý đối với hoạt động cấp tín dụng của Ngân hàng thương mại;
- Phân tích thực trạng pháp luật về kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín
dụng, qua đó chỉ ra những bất cập của thực trạng pháp luật trong quá trình thực thi;
- Đề xuất kiến nghị về giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật về kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng của Ngân hàng
thương mại ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, và đường lối,
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các phương pháp mà luận văn sử dụng bao gồm: phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, thống kê, tập hợp các thông tin, số liệu và vụ việc; phương
pháp điển hình hóa, mô hình hóa các quan hệ xã hội; phương pháp hệ thống hóa các
quy phạm phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp luật và phương pháp đánh giá
thực trạng pháp luật.
Với phương pháp phân tích, luận văn đã phân tích các quy định của pháp luật
hiện hành về kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng, qua đó chỉ ra các
khiếm khuyết, bất cập.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng kế hợp với phương pháp phân tích. Cụ
thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, Luận văn sử dụng phương pháp tổng
hợp để có được sự nhận thức về vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết
4
quả tổng hợp được thể hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Việt nam hiện hành về kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng.
Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh với pháp luật nước ngoài để chỉ
ra ưu nhược điểm, sự tiến bộ hay lạc hậu... hoặc so sánh giữa pháp luật hiện hành với
các văn bản đã hết hiệu lực để chỉ ra sự tích cực hay tụt hậu...
6. Những đóng góp mới của Luận văn
- Góp phần xây dựng lý luận về kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín
dụng và pháp luật về kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng của Ngân hàng
thương mại ở Việt Nam, đặc biệt là làm rõ bản chất và đặc điểm pháp lý của kiểm soát
an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng, phân tích phương thức kiểm soát, mô hình
kiểm soát, phân loại kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng;
- Phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về kiểm soát
an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng và tìm ra các bất cập cụ thể cần sửa đổi;
- Kiến nghị giải pháp chủ yếu cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về việc kiểm
soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng của Ngân hàng thương mại
ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Khái quát về kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng của
Ngân hàng thương mại Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về kiểm soát an toàn đối với hoạt
động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam và một số kiến nghị hoàn
thiện pháp luật
5
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ KIỂM SOÁT AN TOÀN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN
DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT
AN TOÀN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng của Ngân
hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại kiểm soát an toàn
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm kiểm soát an toàn
NHTM với tư cách là một trung gian tài chính thực hiện các nghiệp vụ cơ bản
bao gồm: nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản và
các dịch vụ khác nhằm thỏa mãn nhu cầu về các gói sản phẩm dịch vụ của nền kinh tế.
Xuất phát từ định chế tài chính đặc thù như vậy, mọi hoạt động kinh doanh của NHTM
được thực hiện trong một khuôn khổ nhất định nhằm đáp ứng yêu cầu nhằm bảo vệ
người gửi tiền, hạn chế rủi ro và đảm bảo an toàn cho cả hệ thống các NHTM, cụ thể
của khuôn khổ nhất định đó là cơ chế kiểm soát an toàn.
Trước hết, kiểm soát là khái niệm khá phổ biến trong nền kinh tế. Có thể hiểu
kiểm soát là hoạt động theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy
định hay không nhằm giảm thiểu những yếu tố gây tác động xấu tới hoạt động của một
đối tượng nào đó1. Theo quan điểm của TS. Nguyễn Thị Phương Hoa, kiểm soát là
hoạt động đánh giá và chỉnh sửa những lệch lạc từ tiêu chuẩn2. Theo đó, kiểm soát sẽ
bao gồm các hoạt động từ thiết lập tiêu chuẩn, theo dõi, đánh giá thực tế bằng cách so
sánh thực tế với tiêu chuẩn, và chỉnh sửa sai lệch từ thực tế so với những tiêu chuẩn đã
xác lập. Hình thức kiểm soát này được áp dụng cho mọi hệ thống kiểm soát, có thể là
kiểm soát chất lượng, kiểm soát hành vi, kiểm soát lịch trình, kiểm soát sản phẩm
hỏng, kiểm soát nhân sự, kiểm soát tốc độ, kiểm soát sản xuất, kiểm soát hàng tồn kho,
kiểm soát nguyên vật liệu, kiểm soát quy trình thực hiện, kiểm soát tài chính. Hoạt
động kiểm soát được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau: tổ chức, cá nhân, hay các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, phụ thuộc vào đối tượng được kiểm soát.
Dưới góc độ kinh tế, kiểm soát là quá trình kiểm tra, theo dõi các hoạt động của
một tổ chức- doanh nghiệp và tiến hành các biện pháp quản lý phù hợp làm giảm thiểu
những yếu tố rủi ro, giúp tổ chức hoạt động đúng nhịp của nền kinh tế.
1
2
GS. Hoàng Phê, Từ điển Tiếng việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015.
TS. Nguyễn Thị Phương hoa, Giáo trình Kiểm soát quản lý, Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2015;
6
Dưới góc độ pháp lí, kiểm soát là việc một chủ thể áp dụng các cơ chế quản lý
trong khuôn khổ pháp luật nhằm giúp hoạt động của tổ chức đạt mục đích lợi nhuận
hoặc lợi ích kinh tế, xã hội khác.
Tuy nhiên trong thực tiễn, khái niệm kiểm soát được hiểu theo nhiều cách khác
nhau. Kiểm soát là một hoạt động chỉ xuất hiện khi các công việc kết thúc, có nghĩa là
kiểm soát chỉ xuất hiện trong một giai đoạn nhất định. Tuy nhiên hiểu như vậy là chưa
đủ và chưa đúng bản chất của việc kiểm soát. Nhìn chung, hoạt động kiểm soát là quá
trình nhà quản lý chi phối các chính sách và hoạt động của một chủ thể thông qua việc
giám sát, điều tiết theo dõi tính hiệu quả và các thành viên trong việc thực hiện các
hoạt động nhằm tránh những rủi ro và đảm bảo mục tiêu, kế hoạch của chủ thể đạt
được hiệu quả tốt nhất.
Bên cạnh đó, an toàn được hiểu là trạng thái mà con người, tài sản, môi trường
được bảo vệ, phòng chống lại những tác nhân nguy hại có thể phát sinh (hoặc tiềm ẩn)
do chủ quan, khách quan trong một hoạt động. Nói cách khác, an toàn còn được hiểu
là sự bình ổn của một sự vật, sự việc. Trạng thái này được nhận dạng thông qua quá
trình liên tục nhận dạng mối nguy hiểm và quản lý rủi ro nhằm giữ sự yên ổn, loại trừ
nguy hiểm, hoặc tránh được sự cố để sự vật, sự việc nằm trong một giới hạn gây hại
nhất định.
Như vậy, từ khái niệm kiểm soát và khái niệm an toàn, có thể đi đến cách hiểu
về kiểm soát an toàn chính là hành vi của nhà quản lý điều hành đơn vị, tổ chức qua
việc tác động lên thành viên và hoạt động của đơn vị, tổ chức phải đáp ứng được các
yêu cầu về tiêu chuẩn an toàn nhằm phòng chống các tác động xấu nhằm đảm bảo
không xảy ra rủi ro đối với một hoạt động của tổ chức giúp tổ chức tiến gần tới mục
tiêu của mình.
Tuy nhiên, cần hiểu rằng: Thứ nhất, kiểm soát an toàn bao gồm những kỹ thuật
vận hành và những hành động tập trung và cả quá trình theo dõi và quá trình giảm
thiểu, loại bỏ những nguyên nhân gây lỗi, sự không thích hợp, không thỏa mãn chất
lượng tại mọi công đoạn của quá trình; Thứ hai, kiểm soát an toàn không có nghĩa chỉ
phản ứng lại những sự kiện sau khi đã xảy ra, kiểm soát cũng có nghĩa là giữ cho tổ
chức theo đúng định hướng và dự kiến các sự kiện có thể xảy ra. Kiểm soát an toàn
không chỉ dành cho những hoạt động đã xảy ra và đã kết thúc của tổ chức mà còn là sự
kiểm soát đối với những hoạt động đang và sắp xảy ra mà nhà quản lý muốn tiên liệu
trước các rủi ro tiềm ẩn. Như vậy, kiểm soát an toàn vừa là một quá trình kiểm tra các tiêu
chuẩn, vừa là việc theo dõi các ứng xử của đối tượng, đưa về những giới hạn ổn định.
7
Kiểm soát an toàn nói chung có vai trò rất quan trọng trong hoạt động quản lý.
Từ khi Việt Nam chuyển sang cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đối với nhiều doanh nghiệp có quy mô hoạt
động lớn để tồn tại và phát triển, các nhà quản trị doanh nghiệp phải quyết định, thực
hiện phương pháp quản lý đúng đắn để đảm bảo cho việc kinh doanh có hiệu quả. Một
trong những công cụ giúp cho các nhà quản trị có được các thông tin chính xác và kịp
thời để đưa ra các quyết định đúng đắn, đó chính là kiểm soát an toàn.
Do đó, theo tác giả, kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng của
NHTM là phương thức quản lý của các các chủ thể có thẩm quyền thực hiện các biện
pháp nghiệp vụ từ việc thừa nhận, xây dựng các tiêu chuẩn, cách thức cấp tín dụng;
bảo đảm thực hiện trao đổi thông tin và phối hợp của các bộ phận trong NHTM về
hoạt động cấp tín dụng; kiểm tra và đánh giá các quy trình thực hiện so với tiêu chuẩn
cấp tín dụng đã xác lập; đến việc theo dõi và phán đoán những rủi ro có thể xảy ra;
thực hiện biện pháp tác động phù hợp với quy trình lỗi nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt
động cấp tín dụng của NHTM nói riêng, hay cả hệ thống các TCTD nói chung. Trong
quá trình kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng, các yếu tố luôn ảnh hưởng
đến hiệu quả của hoạt động kiểm soát là nhận thức và phản ứng của người kiểm soát
và đối tượng kiểm soát. Điều này thể hiện ở đặc điểm của hoạt động kiểm soát an toàn.
Trước hết, đối với hoạt động cấp tín dụng của NHTM là việc thỏa thuận để tổ
chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền
theo nguyên tắc có hoàn trả. Hiện nay, Luật quy định hoạt động cấp tín dụng của
TCTD bao gồm: nghiệp vụ cho vay; chiết khấu, tài chiết khấu; bao thanh toán; bảo
lãnh ngân hàng; phát hành thẻ tín dụng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác3. Hoạt
động cấp tín dụng của NHTM là việc chuyển nhượng quyền sử dụng vốn (một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp) sang cho khách hàng sử dụng trong thời gian nhất định với
cam kết hoàn trả trong thời hạn thỏa thuận và một khoản lợi nhuận đi kèm thông qua
các hợp đồng tương ứng với từng nghiệp vụ cấp tín dụng. Hoạt động cấp tín dụng là
hoạt động quan trọng nhất của các NHTM trong giai đoạn hiện nay, vì nguồn vốn dành
cho nghiệp vụ này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn và tạo ra thu nhập chủ yếu
cho các NHTM. Theo thống kê, các hoạt động cho vay chiếm tới 60% tài sản của ngân
hàng và đem lại 70% lợi nhuận của ngân hàng4, vì vậy, các rủi ro từ hoạt động cho vay
nói riêng và hoạt động cấp tín dụng nói chung chủ yếu đến từ hoạt động cho vay của
3
4
Khoản 3, Điều 98, Luật các Tổ chức tín dụng.
https://voer.edu.vn/m/tin-dung-trung-dai-han-cua-he-thong-ngan-hang-thuong-mai/b3f12e6b
8
các NHTM. Bởi vậy, luận văn sẽ chỉ tập trung tới nghiệp vụ cho vay hay nghiệp vụ tín
dụng của NHTM.
Tuy nhiên, kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng của NHTM không
chỉ nằm trong vòng tròn nhỏ là điều chỉnh mối quan hệ giữa NHTM và khách hàng
qua các loại hợp đồng tín dụng. Ở đó, yêu cầu đặt ra đối với hội đồng quản trị, ban
giám đốc, ban kiểm soát và cán bộ tín dụng phải: thực hiện theo đúng quy trình cấp tín
dụng; kiểm soát sự phân bổ, tổ chức các nguồn tài nguyên để thực hiện các mục tiêu
theo kế hoạch tín dụng đã đặt ra; giám sát việc cấp tín dụng, giám sát khoản tín dụng;
giải ngân, thu hồi nợ, tài sản bảo đảm của khoản tín dụng... tránh những rủi ro tín dụng
có thể xảy ra. Hoạt động kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng được tổ
chức theo mô hình quản trị của NHTM, từ hội sở, phòng ban và các bộ phận có thẩm
quyền quyết định cấp tín dụng qua hệ thống công nghệ thông tin và thực hiện các chế
độ hay nói cách khác đây chính là việc kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín
dụng trong nội bộ NHTM.
Hơn thế nữa, vòng tròn của kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng
của NHTM còn mở rộng mang tính chất quy mô hơn, đó chính là sự giám sát của
Chính phủ, kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước cùng các cơ quan quản lý có liên quan.
Hoạt động kiểm soát an toàn của các chủ thể này mang tính chất kiểm soát cho toàn bộ
hệ thống các NHTM. Nó bao gồm: các quy định chung;, các chỉ số an toàn như lãi suất
trần, giới hạn cấp tín dụng, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng
tiền; các chế độ báo cáo; hệ thống công nghệ thông tin... yêu cầu các NHTM bắt buộc
phải thực hiện; hay những biện pháp can thiệp kịp thời mà NHNN, Chính phủ khi một
NHTM rơi vào tình trạng mất kiểm soát- kiểm soát đặc biệt. Đây chính là sự kiểm soát
mang tính chi phối toàn thị trường liên ngân hàng nói chung, và các NHTM nói riêng.
Bên cạnh đó, có thể thấy kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng của
NHTM được tiến hành cả trước, trong và sau quá trình cấp tín dụng nhằm đạt được các
yêu cầu trong hoạt động cấp tín dụng, đảm bảo tính đồng nhất khả năng sinh lời, đảm
bảo tính an toàn của đồng vốn đầu tư, phòng tránh rủi ro cho chính NHTM và cả hệ
thống các NHTM.
Vì hoạt động cấp tín dụng được thực hiện mang tính hệ thống, cho nên để đảm
bảo an toàn cho thị trường ngân hàng thì kiểm soát nói chung và kiểm soát an toàn nói
riêng luôn được thực hiện với các nội dung: kiểm soát quản lý, kiểm soát xử lý, và
9
kiểm soát bảo vệ an toàn tài sản, kiểm soát về công nghệ thông tin5. Khi thực hiện
kiểm soát an toàn hệ thống NHTM, cần có sự tham gia của: Quốc hội, Chính phủ- thực
hiện quản lý Nhà nước các hoạt động trong đời sống kinh tế; và NHNN- chủ thể trực
tiếp quản lý hệ thống các TCTD. Thực hiện quyền năng đó, Quốc hội đã chỉ đạo thông
qua các nghị quyết về kinh tế hàng năm trong đó xây dựng phương hướng phát triển
hoạt động cấp tín dụng nói riêng, ngành ngân hàng nói chung; chỉ đạo xây dựng các
Đề án phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2010, định hướng năm 2020; các
văn bản pháp luật do NHNN ban hành về lĩnh vực ngân hàng,... Bên cạnh đó, NHNN
đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng như:
Luật các TCTD năm 2010, Luật NHNN... Như ở trên đã trình bày, quá trình kiểm soát
luôn được diễn ra trong ba giai đoạn: kiểm soát trước quá trình tín dụng, kiểm soát
trong quá trình tín dụng và kiểm soát sau quá trình tín dụng. Vì vậy mà hiện nay, văn
bản pháp luật về hoạt động cấp tín dụng do NHNN ban hành cũng thể hiện qua ba giai
đoạn trên: giai đoạn kiểm soát trước quá trình tín dụng (bao gồm nội dung hoạt động
cấp tín dụng, cơ cấu tổ chức quản lý của NHTM, các chủ thể trực tiếp có quyền và
nghĩa vụ trong hoạt động cấp tín dụng, các chỉ số an toàn liên quan trực tiếp tới hoạt
động kiểm soát an toàn cấp tín dụng...); giai đoạn kiểm soát trong quá trình cấp tín dụng
(bao gồm nội dung giám sát quy định về xét duyệt tín dụng, quy trình giải ngân); và giai
đoạn kiểm soát sau quá trình cấp tín dụng (bao gồm kiểm tra sử dụng tiền vay các chế độ
kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ đối với hoạt động cấp tín dụng, các quy định về lưu
giữ hồ sơ tín dụng).
Kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng của NHTM là quá trình các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Chính phủ, Thanh tra Chính phủ, Ngân hàng Nhà
nước, Bộ tài chính...), các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền quản lý thực hiện hoạt động
cần thiết để đảm bảo căn cứ cho việc xác định tính tuân thủ của NHTM trong quá
trong quá trình cấp tín dụng và hoạt động tự kiểm soát của nội bộ của NHTM.
Có thể khẳng định, hoạt động kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng
của NHTM ngoài những đặc điểm chung của hoạt động kiểm soát như giúp nhà quản
lý đạt được mục tiêu; phụ thuộc các yếu tố về quy mô của tổ chức, văn hóa của doanh
nghiệp; và nhằm phòng tránh các nguy cơ rủi ro, thì kiểm soát an toàn đối với hoạt
động cấp tín dụng của NHTM có những điểm khác biệt, cụ thể như sau:
5
Lê Thái Nam, Giải pháp nâng cao chất lượng kiểm soát, kiểm toán nội bộ NHNN Việt Nam trong quá tình hội
nhập quốc tế về hoạt động ngân hàng, Viện chiến lược ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hà Nội,
2011;
10
Thứ nhất, chủ thể thực hiện kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng
của NHTM là các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng phối hợp với
các cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ quản lý hoặc trực tiếp thực hiện hoạt động cấp tín
dụng. Cơ quan quản lý Nhà nước là chủ thể có quyền quyết định cơ chế, các quy định
về kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng đối với cả hệ thống các NHTM
thông qua: ban hành Nghị quyết đối với các NHTM đang rơi vào tình trạng kiểm soát
đặc biệt hoặc tái cơ cấu ngân hàng mà nguyên nhân lớn nhất là từ rủi ro tín dụng, ban
hành văn bản quy phạm pháp luật chung về các tổ chức tín dụng về hệ thống kiểm soát
nội bộ, kiểm toán nội bộ, kiểm toán độc lập. Chính phủ xây dựng các văn bản pháp
luật quy định quản trị, kiểm soát, điều hành NHTM xây dựng hệ thống pháp luật điều
chỉnh nội dung liên quan đến quản lý rủi ro, quản trị điều hành, cơ cấu tổ chức quyền
và nghĩa vụ của HĐQT, BKS, Ban điều hành... của NHTM để hạn chế lạm quyền, tập
trung quyền lực quá mức trong việc quản trị, điều hành hoạt động cấp tín dụng...
NHNN với vai trò là Ngân hàng Trung ương trực tiếp quản lý hoạt động của các
NHTM thực hiện kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng như việc đưa ra các
quy định về an toàn hoạt động như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu để đảm bảo khả năng
thanh toán của ngân hàng hay là đảm bảo đủ vốn đề bù đắp các tổn thất không định
trước, tỷ lệ khả năng chi trả để đảm bảo cho ngân hàng có đủ thanh khoản khi xảy ra
rủi ro xuất phát từ sự mất cân đối về kỳ hạn; giới hạn cấp tín dụng cho một khách hàng
hay người có liên quan để hạn chế rủi ro do việc tập trung tín dụng hay yêu cầu các
NHTM đa dạng hóa danh mục tín dụng nhằm phân tán rủi ro...
Thứ hai, hoạt động kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng trong nội
bộ NHTM được thực hiện theo hệ thống kiểm soát nội bộ, trong đó có hệ thống quản
lý rủi ro tín dụng. Theo đó, hệ thống này được vận hành với ba tuyến phòng thủ:
Một là, tuyến phòng thủ từ các khối kinh doanh, bán hàng, các chuyên viên
khách hàng, chi nhánh, các đơn vị vận hành tại hội sở, các cá nhân như giám đốc chi
nhánh, nhân viên kế toán, nhân viên tín dụng, bộ phận thẩm định tín dụng,... tiến hành
cấp tín dụng cho khách hàng. Những chủ thể này sẽ thực hiện hoạt động có nội dung
kiểm soát, nghĩa là thực hiện hoạt động kiểm soát an toàn theo những quy định đã
được thiết lập như: các bước lập, hoàn thành hồ sơ đề nghị cấp tín dụng; phân tích
thẩm định tín dụng, và quyết định có thực hiện cấp tín dụng hay không... Nhiệm vụ
chính của các đơn vị này là xác định, đánh giá, ngăn ngừa, báo cáo và theo dõi các rủi
ro phát sinh trong hoạt động cấp tín dụng và các quy trình vận hành; bảo vệ lợi ích của
NHTM thông qua việc tự đánh giá rủi ro và kiểm soát tính hiệu quả.
11
Hai là, khối quản trị rủi ro, khối tuân thủ, quản trị rủi ro hoạt động và pháp chế.
Tuyến này có rất nhiều nhiệm vụ, trong đó quan trọng hơn cả là việc độc lập đánh giá
và kiểm soát (kiểm tra và cân đối) tính hiệu quả của hệ thống ở tuyến phòng thủ thứ
nhất; quản lý rủi ro chính thông qua việc thiết lập mức dự phòng rủi ro/chính sách cho
vay, xây dựng quy trình/hướng dẫn tín dụng và cho vay, theo dõi, cảnh báo sớm, quản
trị danh mục…; giám sát các chương trình kiểm soát nội bộ, tuân thủ. Để đạt được
điều đó, cần sự phối hợp nhịp nhàng của các chủ thể có quyền lực kiểm soát an toàn
trong hoạt động cấp tín dụng, không ai khác chính là Ban giám đốc, Ban kiểm soát,
Ban điều hành, hệ thống kiểm soát nội bộ cùng các thành viên có liên quan sẽ thực
hiện kiểm soát và giám sát theo Điều lệ và Quyết định của NHTM về hoạt động cấp tín
dụng.
Ba là, bộ phận kiểm toán nội bộ. Đây là bộ phận trực thuộc Ban kiểm soát và
không thuộc Ban điều hành của Ngân hàng, giúp cho việc đánh giá hai tuyến phòng
thủ trước và các rủi ro có thể xảy ra được thực hiện độc lập và khách quan.
Thứ ba, kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng gắn liền với mục tiêu,
sự an toàn và chất lượng tín dụng của NHTM. Cụ thể, kiểm soát an toàn được xem như
một quá trình cung cấp các thông tin phản hồi giúp cho việc khắc phục những nhược
điểm của công tác quản trị giúp cho hoạt động của NHTM được đảm bảo an toàn và
đạt được các mục tiêu tín dụng. Hoạt động cấp tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ
yếu đem lại lợi nhuận lớn cho NHTM, vì vậy, kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp
tín dụng chính là kiểm soát được nguồn tiền mà Ngân hàng sẽ nhận được. Vì vậy,
kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng sẽ giúp Ngân hàng cải thiện tình hình
tài chính, khẳng định được vị thế cho sự tồn tại và trong sự cạnh tranh với các Ngân
hàng khác, từ đó mà thực hiện được mục tiêu mà Ngân hàng đã đề ra.
Thứ tư, trong kiểm soát an toàn, đánh giá hoạt động cấp tín dụng của NHTM
cần dựa vào chỉ số an toàn và các quy trình trong hoạt động cấp tín dụng. Cụ thể, chỉ
số an toàn được thể hiện qua thước đo như các mục tiêu tín dụng của NHTM, các chỉ
số an toàn mà NHTM phải thực hiện như tỷ lệ dư nợ cho vay của NHTM so với tổng
tiền gửi của khách hàng, giới hạn trích lập dự phòng rủi ro, tỷ lệ tối đa của nguồn vốn
ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn, giới hạn cấp tín dụng, mức lãi
suất... Bên cạnh đó, kiểm soát hoạt động cấp tín dụng không chỉ được biểu hiện qua
các chỉ số an toàn mà còn được biểu hiện thông qua quy trình và tuân thủ quy trình. Ví
dụ: hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng, các quy trình cấp tín dụng, nghiệp vụ
kiểm toán nội bộ, các chuẩn mực trong hệ thống công nghệ thông tin của ngân hàng,
chế độ báo cáo của NHTM theo ngày, theo tháng, theo quý... Chỉ số an toàn thường
12
được sử dụng vì phản án nhanh chóng, toàn diện giúp các NHTM có thể tổng quan
đánh giá được hoạt động cấp tín dụng của mình đang ở mức độ nào, có rơi vào tình
trạng mất kiểm soát hay không. Tuy nhiên, trong kiểm soát an toàn, các chỉ số an toàn
là chưa đủ để đánh giá và ra quyết định cấp tín dụng mà cần có các quy trình cấp tín
dụng. Bởi hoạt động cấp tín dụng không thể hiệu quả, an toàn và đem lại lợi nhuận tối
đa nếu như chỉ đáp ứng về mặt chỉ số an toàn của cả hệ thống các TCTD mà không
tuân thủ đi các quy chế, chính sách, chế độ trong nội bộ hoạt động cấp tín dụng mới
thực sự là yếu tố then chốt, chặt chẽ giúp cho hoạt động cấp tín dụng được diễn ra
mang tính hệ thống, tránh được những yếu tố cảm tính định hình của cán bộ tín dụng,
hay những rủi ro cấp tín dụng của người không được phép cho vay trong hoạt động
cấp tín dụng.
1.1.1.2. Phân loại kiểm soát an toàn
Dựa vào các tiêu chí quản lý của hoạt động kiểm soát, hoạt động kiểm soát an toàn
trong hoạt động cấp tín dụng của NHTM được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau.
Căn cứ vào thời gian hoạt động cấp tín dụng, hoạt động kiểm soát an toàn cấp
tín dụng được tiến hành dưới các hình thức: kiểm soát lường trước, kiểm soát hiện
hành, kiểm soát sau khi thực hiện.
Kiểm soát lường trước (kiểm soát trước khi thực hiện cấp tín dụng): là kiểm
soát được tiến hành trước khi hoạt động cấp tín dụng được bắt đầu nhằm ngăn chặn
các vấn đề có thể xảy ra hoặc cản trở cho việc thực hiện cấp tín dụng thông qua việc
lường trước các vấn đề có thể xảy ra, đạt giới hạn cho hoạt động đó nhằm tránh rủi ro
về sau.
Kiểm soát hiện hành (kiểm soát trong khi thực hiện cấp tín dụng): là kiểm soát
được thực hiện bằng cách giám sát trực tiếp trong giai đoạn thực hiện cấp tín dụng,
nắm bắt những lệch lạc và đưa ra những biện pháp tháo gỡ kịp thời, đảm bảo việc cấp
tín dụng được diễn ra đúng quy trình cấp tín dụng và các quy định của pháp luật.
Kiểm soát sau khi thực hiện (kiểm soát phản hồi): là kiểm soát được tiến hành
sau khi hoạt động đã xảy ra. Mục đích của kiểm soát sau là để xác định hoạt động cấp
tín dụng có hoàn thành hay không. Sau khi cấp tín dụng, NHTM luôn phải theo dõi
“khoản nợ” đang đi về đâu, có khả năng thu hồi vốn hay không, người vay có thực hiện đúng
theo phương án sử dụng vốn đã cam kết với NHTM hay không, từ đó tìm hiểu nguyên nhân
và rút ra những bài học kinh nghiệm cho những lần tiếp theo sau.
Việc phân loại kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng thành kiểm
soát lường trước, kiểm soát hiện hành và kiểm soát sau khi thực hiện là cơ sở giúp hoạt
động xây dựng pháp luật đối với hoạt động cấp tín dụng phù hợp và chặt chẽ. Đặc biệt,
13
kiểm soát lường trước sẽ giúp các NHTM chủ động đối phó với những rủi ro trong
tương lai, hạn chế tối đa những sai lầm ngay từ đầu và vì vậy, kiểm soát lường trước
được coi là hình thức kiểm soát ít tốn kém nhất.
Căn cứ theo mức độ ảnh hưởng, có kiểm soát trực tiếp và kiểm soát tổng quát.
Kiểm soát trực tiếp được xây dựng trên cơ sở đánh giá các yếu tố các bộ phận cấu
thành nên hệ thống quản lý hoạt động cấp tín dụng. Kiểm soát tổng quát là sự kiểm
soát tổng thể đối với nhiều đại lý, chi nhánh ngân hàng với nhiều nghiệp vụ cấp tín
dụng khác nhau.
Kiểm soát trực tiếp sẽ đánh giá hành vi của các cá nhân trực tiếp thực hiện hoạt
động cấp tín dụng, với yêu cầu các cá nhân đó độc lập trên mọi phương diện, không
chịu sự áp chế của bất kỳ chủ thể nào khác gây ảnh hưởng tới quyết định các qui trình
cấp tín dụng, đòi hỏi các bộ phận được phân công hợp lý, các công việc của cá nhân
không mâu thuẫn với nhau hay thông qua bất kỳ quy trình cụ thể nào trong hoạt động
cấp tín dụng, như giai đoạn thông qua hồ sơ vay, thẩm định tài sản bảo đảm. Kiểm soát
trực tiếp giải quyết các giao dịch mà nhờ đó các giao dịch tín dụng đươc công nhận,
phân loại, tổng kết, báo cáo. Kiểm soát trực tiếp phải được thực hiện theo các biện pháp
qui chế kiểm soát nhằm đảm bảo sự an toàn của tài sản và thông tin của NHTM. Hoạt
động tín dụng của NHTM luôn tiềm ẩn rủi ro, vì vậy kiểm soát trực tiếp hoạt động cấp tín
dụng đều phải dựa trên nền cơ sở pháp lý hoặc quy chế nội bộ của các NHTM.
Phân loại theo căn cứ mức độ ảnh hưởng sẽ giúp các nhà làm luật xác định rõ
vai trò, trách nhiệm của từng chủ thể trong các quy trình tín dụng nhằm ngăn ngừa
tham nhũng và sai phạm, đồng thời từ phân loại này, các nhà làm luật sẽ dễ dàng đưa
ra các quy định về kiểm soát mang tính hệ thống – hay là hệ thống kiểm soát nội bộ
nhằm bảo đảm sự thống nhất hoạt động của ngành ngân hàng nói chung và các TCTD
nói riêng.
Căn cứ vào đối tượng, kiểm soát an toàn gồm kiểm soát đầu ra và kiểm soát
hành vi6.
Kiểm soát đầu ra là kiểm soát được tất cả các NHTM áp dụng, do chủ thể quản
lý đưa ra các tiêu chí đầu ra cho hoạt động cấp tín dụng phản ánh tính hiệu quả hoạt
động, khả năng đáp ứng nhanh nhạy nhu cầu của khách hàng và thị trường. Sau bước
này, nhà quản lý đánh giá, đo lường mức độ hoàn thành của cấp độ cá nhân thực hiện
cấp tín dụng, các cấp chi nhánh và cả hệ thống thông qua các mục tiêu tài chính và dự
toán hoạt động cấp tín dụng.
6
TS. Nguyễn Thị Phương hoa, Giáo trình Kiểm soát quản lý, Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2015;
14
- Xem thêm -