Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật về hoạt động của Thừa phát lại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh...

Tài liệu Pháp luật về hoạt động của Thừa phát lại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh

.PDF
86
290
107

Mô tả:

HUỲNH HỮU NAM VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH HỮU NAM PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA THỪA PHÁT LẠI TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CHUYÊN NGÀNH : LUẬT KINH TẾ Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học:PGS.TS Dương Anh Sơn KHÓA VI ĐỢT 2-2015 HÀ NỘI - 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH HỮU NAM PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA THỪA PHÁT LẠI TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học:PGS.TS Dương Anh Sơn HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các tài liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào. TÁC GIẢ Huỳnh Hữu Nam MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỔ CHỨC THỪA PHÁT LẠI .... 6 1.1. Sơ lược về lịch sử hình thành, phát triển của tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam ................................................................................................................... 6 1.1.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 ...................................... 6 1.1.2. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1975.............. 7 1.1.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay .............................................................. 8 1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hình thành Thừa phát lại.................... 8 1.2.1. Vấn đề công pháp và tư pháp .................................................................. 8 1.2.2. Kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và chế định Thừa phát lại: ................................................................ 9 1.2.3. Thừa phát lại và sự hội nhập cộng đồng thế giới và khu vực: .............. 10 1.2.4. Tiến trình tái lập tổ chức Thừa phát lại:................................................ 10 1.3. Khái niệm về Thừa phát lại ...................................................................... 12 1.4. Vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của tổ chức Thừa phát lại trong hoạt động tư pháp hiện nay.................................................................... 13 1.4.1. Về vai trò của tổ chức Thừa phát lại ..................................................... 13 1.4.2. Nhiệm vụ của tổ chức Thừa phát lại ..................................................... 20 1.4.3. Quyền hạn của tổ chức Thừa phát lại ................................................... 21 1.4.4. Trách nhiệm của tổ chức Thừa phát lại................................................. 22 1.5. Hoạt động của tổ chức Thừa phát lại của một số nước trên thế giới ....... 23 1.5.1. Hoạt động của tổ chức Thừa phát lại ở Vương quốc Anh .................... 23 1.5.2. Hoạt động của tổ chức Thừa phát lại ở Cộng hòa Pháp ....................... 24 1.5.3. Hoạt động của tổ chức Thừa phát lại ở Cộng hòa liên bang Đức ......... 26 Kết luận chương 1 ......................................................................................... 28 Chương 2: TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THỪA PHÁT LẠI TẠI VIỆT NAM..................................................................................................... 29 2.1. Tổ chức Thừa phát lại tại Việt Nam......................................................... 29 2.1.1. Văn phòng Thừa phát lại ....................................................................... 29 2.1.2. Tổ chức bộ máy của Văn phòng Thừa phát lại ..................................... 30 2.1.3. Đoàn Thừa phát lại ................................................................................ 31 2.1.4. Tiêu chuẩn để trở thành Thừa phát lại .................................................. 32 2.2. Các công việc mà Thừa phát lại được làm hiện nay: ............................... 33 2.2.1. Thực hiện việc Tống đạt văn bản theo yêu cầu của cơ quan Tòa án và cơ quan Thi hành án dân sự ............................................................................ 33 2.2.2. Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức ...................... 37 2.2.3. Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự ................ 40 2.2.4. Trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự ............................................................................................. 44 Kết luận chương 2 ......................................................................................... 49 Chương 3: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN CỦA TỔ CHỨC THỪA PHÁT LẠI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ....... 50 3.1. Thực trạng về hoạt động của Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh 50 3.1.1.Về thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án và cơ quan thi hành án dân sư:......................................................................................................... 51 3.1.2. Về thực hiện lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức: 54 3.1.3. Về thực hiện xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự ......................................................................................................................... 58 3.1.4. Về thực hiện trực tiếp tổ chức thi hành các bản án quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự ......................................................................... 60 3.2. Những tác động tích cực và hạn chế về hoạt động của tổ chức Thừa phát lại ..................................................................................................................... 64 3.2.1. Những tác động tích cực về hoạt động của tổ chức Thừa phát lại....... 64 3.2.2. Những hạn chế về hoạt động của tổ chức Thừa phát lại ....................... 68 3.3. Đề xuất một số giải pháp......................................................................... 71 Kết luận chương 3 ......................................................................................... 75 KẾT LUẬN .................................................................................................... 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. .................................................... 78 MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây vấn đề xã hội hóa một số hoạt động tư pháp nói chung và một số công việc thi hành án dân sự nói riêng nhằm góp phần tăng cường hiệu quả, hiệu lực hoạt động của các cơ quan tư pháp được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Để đáp ứng nhu cầu hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới mà Việt Nam tham gia như: Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), liên minh châu Âu (EU), Hiệp định đối tác xuyên thái Bình Dương (TPP),... thì pháp luật của nước ta cũng phải thay đổi, bổ sung để đáp ứng nhu cầu hội nhập, phù hợp với thông lệ quốc tế. Khi hội nhập với nền kinh tế quốc tế, sẽ phát sinh rất nhiều các tranh chấp dân sự cần phải có chứng cứ làm bằng chứng, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng giữa các bên khi có tranh chấp xảy ra ở Tòa án hoặc Trọng tài thương mại. Thực tiễn trên thế giới thì Thừa phát lại đã có từ rất lâu và hiện diện ở phần lớn các quốc gia trên thế giới. Chế định Thừa phát lại được thực hiện thí điểm bắt đầu từ năm 2010 tại Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó mở rộng đến 12 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Kết quả tổng kết thí điểm cho thấy, chế định Thừa phát lại có ý nghĩa quan trọng, góp phần thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp đã được đề ra tại Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tạo tiền đề giảm tải công việc, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan Tòa án, cơ quan Thi hành án dân sự, góp phần thực hiện thành công Nghị quyết 39 – NQ/TW ngày 17 tháng 4 năm 2015 của Bộ Chính trị về tinh giảm biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Bên cạnh đó, hoạt động của Thừa phát lại đã bổ sung nguồn chứng cứ, tạo thêm công cụ 1 pháp lý để người dân bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia các giao dịch dân sự, kinh tế và trong giải quyết tranh chấp; đồng thời, người dân cũng có thêm sự lựa chọn phù hợp trong việc yêu cầu thi hành án, quyết định của Tòa án. Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích tự nhiên 2.094 km2, dân số trên 10 triệu dân, là một thành phố năng động, việc giao dịch dân sự diễn ra rất lớn và các tranh chấp dân sự cũng tỷ lệ thuận với việc giao dịch dân sự. Qua nghiên cứu tình hình từ mô hình thí điểm văn phòng Thừa phát lại đầu tiên, đến năm 2016 thực hiện đề án quy hoạch mạng lưới văn phòng Thừa phát lại trên địa bàn Thành phố đến năm 2020; hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh có 11 Văn phòng Thừa phát lại hoạt động có hiệu quả. Qua tổng kết hàng năm của thanh tra Sở Tư pháp cho thấy, vẫn còn nhiều hạn chế trong các hoạt động về tống đạt, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án, tổ chức thi hành án. Nhằm chỉ ra thực trạng các ưu điểm, hạn chế và đề xuất những giải pháp mang tính đòn bẩy tạo động lực cho các văn phòng Thừa phát lại phát triển và hoạt đồng nền nếp, tuân thủ pháp luật đem lại lợi ích cho nhân dân, giảm tải cho hoạt động của các cơ quan tư pháp, giúp tăng cường công tác quản lý Nhà nước theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về chiến lược cải cách tư pháp trong tình hình mới. Tiếp cận tình hình nêu trên, đã đặt ra nhu cầu bức thiết cả về lý luận và thực tiễn cần được nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống vấn đề Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Pháp luật về hoạt động của Thừa phát lại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: Vấn đề Thừa phát lại đã và đang là mối quan tâm của toàn xã hội, đặc biệt là những năm gần đây, từ mô hình thí điểm thành công các Văn phòng Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh, Chính phủ đã ban hành các văn bản 2 pháp luật nhằm triển khai thực hiện, phát triển, nhân rộng các Văn phòng Thừa phát lại trên toàn quốc. Cụ thể đã triển khai các văn bản dành riêng cho tổ chức này như: Nghị định 61/2009/NĐ – CP ngày 24 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh, được sữa đổi bổ sung bởi Nghị định 135/2013/NĐ – CP ngày 18 tháng 10 năm 2013, các Thông tư, Thông tư liên tịch của các Bộ, ngành, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của các cấp, các ngành có liên quan; ngoài ra còn có các đề tài, luận văn nghiên cứu của thạc sĩ, tiến sĩ; các bài viết, tham luận đăng trên các tạp chí chuyên ngành sẽ là nguồn tham khảo, hỗ trợ cho việc thực hiện luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề đặc điểm pháp lý, thực trạng hoạt động, những mặt tích cực, hạn chế, các nguyên nhân điều kiện,… của Thừa phát lại trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó phân tích đánh giá các quy định của pháp luật, tìm ra những ưu điểm, hạn chế của các quy định hiện hành, đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động Thừa phát lại trong thời gian tới 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về tình hình hoạt động chung của tổ chức Thừa phát lại tại Việt Nam và tập trung nghiên cứu tình hình trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Qua nghiên cứu các thực trạng, nguyên nhân, điều kiện làm hạn chế sự phát triển của tổ chức Thừa phát lại, từ đó đề ra các giải pháp, khuyến nghị cho công tác quản lý về tổ chức Thừa phát lại trên cả nước nói chung và địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Luận văn tập trung nghiên cứu với góc độ Luật kinh tế, trong đó tập trung nghiên cứu lĩnh vực tống đạt văn bản, lập vi bằng, xác minh điều kiện 3 thi hành án và trực tiếp tổ chức thi hành bản án của Tòa án và cơ quan Thi hành án dân sự của Thừa phát lại là chính Về không gian: Luận văn được nghiên cứu từ tình hình chung của cả nước và tập trung trên địa thành phố Hồ Chí Minh V thời gian: Luận văn được nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2011 – 2016 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở nguyên tắc quán triệt các chủ trương đường lối của Đảng , pháp luật của nhà nước về chiến lược cải cách tư pháp. Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin và kết hợp các phương pháp thống kê, phương pháp phân tích so sánh – tổng kết thực tiễn, trao đổi kinh nghiệm thực tiễn, và sử dụng phép biện chứng duy vật, duy vật lịch sử, nhằm tổng kết, phản ánh hiện thực các quy định của pháp luật hiện hành về Thừa phát lại và thực trạng hoạt động của các văn phòng Thừa phát lại trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó, đánh giá các ưu điểm, hạn chế và đề xuất các giải pháp về tổ chức Thừa phát lại. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Những kết quả đạt được của luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ thực trạng, nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh những hạn chế của tổ chức Thừa phát lại; qua đó tìm ra các giải pháp hữu hiệu để thực hiện một cách tốt nhất, phù hợp với thực tiễn trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh Những đề xuất kiến nghị của đề tài nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập còn tồn tại, có thể góp một phần nhỏ để các cơ quan lập pháp tham khảo, xem xét xây dựng những quy định pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam cho phù hợp và thúc đẩy sự phát triển tổ chức Thừa phát lại mạnh mẽ hơn nữa trong tương lai. Ngoài ra đề tài còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu các kiến thức pháp luật về Thừa phát lại. 4 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương cụ thể như sau: Chương 1. Khái quát chung về tổ chức thừa phát lại Chương 2. Tổ chức và hoạt động của thừa phát lại tại Việt Nam Chương 3. Thực trạng về hoạt động từ thực tiễn của tổ chức Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh 5 Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỔ CHỨC THỪA PHÁT LẠI 1.1. Sơ lược về lịch sử hình thành, phát triển của tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam 1.1.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, khi Vua Tự Đức ký Hòa ước ngày 05 tháng 6 năm 1862 nhượng cho Pháp 6 tỉnh Nam kỳ. Từ đó người Pháp đã tổ chức bộ máy cai trị thực dân và áp dụng quy chế về thuộc địa đặt 6 tỉnh Nam kỳ là một hạt, còn mỗi tỉnh là một quận của nước Pháp. Sau đó, bằng bản Hiệp ước ngày 06 tháng 6 năm 1884, Việt Nam trở thành một nước bảo hộ của nước Pháp. Người Pháp đặt Thống sứ ở Bắc kỳ và Khâm sứ ở Trung kỳ đại diện cho chính quyền Pháp. Ở Trung kỳ và Bắc kỳ, nhà Vua vẫn giữ quyền nội trị. Quyền tư pháp vẫn thuộc về nhà Vua nhưng quyền đó đã bị hạn chế bởi sự kiểm soát của đại diện chính quyền Pháp. Tuy nhiên, ở giai đoạn này Bắc kỳ và Trung kỳ chưa có chế định Thừa phát lại. Những công việc như trát đòi hầu tòa, truyền phiếu,… vẫn do các môn lại, môn vệ (các sứ giả của Vua) thực hiện. Theo các tài liệu nghiên cứu, thuật ngữ “Thừa phát lại”, văn bản chính thức đã được ghi nhận trong: “Bộ dân sự tố tụng Việt Nam” ban hành kèm theo Nghị định ngày 16 tháng 3 năm 1910; Bộ dân luật Trung kỳ năm 1936 – 1939; Bộ hộ sự, Thương sự tố tụng Trung kỳ năm 1942; Bộ dân luật Bắc kỳ năm 1917 và Bộ Dân sự tố tụng Bắc kỳ năm 1931; Bộ luật Dân sự, Thương sự tố tụng năm 1972 của Việt Nam Cộng hòa. Thuật ngữ “Thừa phát lại” có nguồn gốc từ tiếng Pháp “Huissier”, mô hình Thừa phát lại được quy định ở các bộ luật nêu trên hầu hết đều theo khuôn mẫu mô hình của Pháp, thể hiện trong Bộ dân luật Pháp năm 1804 và Bộ tố tụng dân sự Pháp năm 1807, khi dịch sang tiếng Việt có nghĩa là “Chưởng tòa” 6 1.1.2. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1975 Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, bằng việc ban hành sắc lệnh ngày 10 tháng 10 năm 1945 về việc tạm thời giữ các luật lệ hiện hành của chế độ cũ với điều kiện những điều khoản trong các luật này “không trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa”, Quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng đã ký sắc lệnh số 130/SL ngày 19 tháng 7 năm 1946, tại điều 3 quy định: “Trong các xã, thị xã hoặc khu phố, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và thư ký điều chịu trách nhiệm thi hành những lệnh, mệnh lệnh hoặc án của các Tòa án. Ban án ấy sẽ tùy từng việc, chỉ định một nhân viên để giao cho việc thi hành lệnh, mệnh lệnh hoặc án. Ở những nơi nào đã có Thừa phát lại riêng, thì đương sự có quyền nhờ Thừa phát lại riêng thi hành án hoặc mệnh lệnh”[5]. Nhiệm vụ quản lý tổ chức Thừa phát lại thời kỳ này được giao cho ban công lại. Như vậy, những năm đầu của chính quyền cách mạng, tổ chức thi hành án dân sự ở Việt Nam tiếp tục được giao cho tổ chức Thừa phát lại đảm nhiệm. Từ năm 1950 đến năm 1975, là giai đoạn mà trong lĩnh vực thi hành án dân sự đều phải có những sự kiện pháp lý đặc biệt quan trọng diễn ra cả ở vùng tự do và vùng bị Pháp tạm chiếm, và từ sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, tại miền Bắc xã hội chủ nghĩa và miền Nam trong những vùng bị Mỹ Ngụy đô hộ. Bằng Sắc lệnh số 85/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 22 tháng 5 năm 1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng đã bãi bỏ nhiệm vụ Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã làm nhiệm vụ thi hành án mà thay thế vào đó là Thẩm phán huyện làm nhiệm vụ thi hành án dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án. Theo đó, tại điều 19 Sắc lệnh số 85/SL quy định: “Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của Biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành các án hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án hộ, mà chính tòa án huyện hoặc tòa án trên đã tuyên. Việc phát mại bất động sản và phân phối tiền bán 7 được cũng do tòa án huyện phụ trách…”[6]. Còn ở miền địch tạm chiếm với hai văn bản pháp lý đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực thi hành án là Nghị định số 111 ngày 04 tháng 02 năm 1950 về ấn định pháp quy Thừa phát lại do chính quyền Bảo Đại ban hành và Bộ luật dân sự, thương sự tố tụng ngày 20 tháng 12 năm 1972 do chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ban hành đã lấy lại quyền hạn của Thừa phát lại. 1.1.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay Sau 30 tháng 4 năm 1975, nước Việt Nam được hoàn toàn thống nhất non sông thu về một mối, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn quốc. Về kinh tế, Việt Nam duy trì chế độ tập trung bao cấp với thành phần kinh tế chủ đạo là kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể. Việc phân chia sản phẩm theo bình quân đầu người và do Nhà nước thực hiện. Do vậy, yếu tố “cạnh tranh” theo đúng nghĩa của nó gần như bị triệt tiêu trong hầu hết các mặt của đời sống xã hội. Các tranh chấp dân sự, kinh tế, thương mại,.. ít có cơ hội phát sinh hoặc phát sinh không đáng kể và ít phức tạp. Nếu có phát sinh tranh chấp thì phần lớn những trường hợp đó các cơ quan nhà nước đều can thiệp để nó được giải quyết giống như là các quan hệ hành chính. Trong điều kiện như vậy, việc tồn tại các tổ chức cung cấp dịch vụ pháp lý cho xã hội như: luật sư, công chứng, trọng tài viên, giám định viên hay thừa phát lại là không có nhiều ý nghĩa trong thời kỳ bấy giờ. Do vậy, có thể nói sau năm 1975 đến thời điểm năm 1995 khi nước ta xây dựng dự thảo Bộ luật Dân sự thì chế định Thừa phát lại không còn tồn tại. 1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hình thành Thừa phát lại 1.2.1. Vấn đề công pháp và tư pháp Theo quan điểm truyền thống, trước đây phân định hệ thống pháp luật thành hai lĩnh vực: công pháp và tư pháp. Ngành luật nào bảo vệ lợi ích “công” được tạo dựng và định đoạt bởi ý chí của nhà nước thì xếp vào công 8 pháp, còn ngành luật nào bảo vệ lợi ích “tư”, các bên đương sự có quyền bày tỏ ý chí, sự thỏa thuận hoặc sự định đoạt của mình thì xếp vào tư pháp. Tương ứng với cách phân chia trên cũng có sự phân biệt trong cơ chế và các biện pháp bảo vệ. Do đó, tồn tại các cơ quan khác nhau bảo vệ “công quyền” và “tư quyền”. Để bảo vệ công quyền thì các chi phí tiền bạc, thời gian, kể cả các công chức thực thi công vụ,… cho quá trình tố tụng đều do nhân sách nhà nước gánh chịu. Trái lại “tư quyền” của công dân, của các tổ chức mang tính chất riêng thì để bảo vệ quyền lợi của mình, họ phải tự giải quyết và thậm chí phải chịu các phí tổn vật chất, thời gian,… của mình hoặc phải thuê nướn các nhà chuyên môn về pháp lý tham gia tố tụng. Ở nước ta hiện nay, điều dễ nhận thấy là trong hệ thống các công việc tố tụng dân sự thì hầu như gánh nặng điều tra, thu thập chứng cứ, xác minh hiện trạng, lấy lời khai, tiến hành dàn xếp hòa giải,… đều do cơ quan nhà nước bao cấp. Chính gánh nặng này và với một bộ máy chưa đầy đủ về nhân sự, phương tiện làm việc còn thiếu thốn, năng lực chuyên môn hạn chế nên tình trạng tồn đọng, quá hạn, sự bất cập của các cơ quan nhà nước so với thực trạng xã hội hiện nay là rất nan giải. Để có thể đưa ra một giải pháp hữu hiệu trong công tác bổ trợ tư pháp thì Thừa phát lại là một nhân tố không thể bỏ qua. Việc cung ứng dịch vụ tư này nhằm thúc đẩy tiến trình giải quyết các tranh chấp được mau chóng, công khai và dân chủ hơn. 1.2.2. Kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và chế định Thừa phát lại: Sự trở lại của chế định Thừa phát lại là một nhu cầu tất yếu của nền kinh tế thị trường. Sự phát triển của các quan hệ kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay đã tăng lên gấp bội và rất sôi động, do đó cũng làm nảy sinh nhiều hơn các nhu cầu pháp lý cần phải đáp ứng. 9 Các nhu cầu pháp lý này đòi hỏi cần có một hệ thống pháp luật đầy đủ điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội, tạo mặt bằng an toàn pháp lý ổn định cho sinh hoạt xã hội. Mặt khác, khi người dân có nhu cầu tự bảo vệ và ngăn chặn các hành vi xâm hại đến lợi ích hợp pháp của bản thân mình, thì có thể triệu dụng một tổ chức hoặc cá nhân bảo vệ cho mình, đó chính là Thừa pháp lại. Thông qua hoạt động Thừa phát lại, người dân phát huy vai trò tích cực và tự nguyện trong việc tuân thủ pháp luật, chủ động bảo vệ quyền lợi của chính mình một cách kịp thời và hữu hiệu. 1.2.3. Thừa phát lại và sự hội nhập cộng đồng thế giới và khu vực: Trong tiến trình hội nhập của Nhà nước ta, một lĩnh vực hợp tác không thể thiếu được đó là lĩnh vực tư pháp. Sự tương đồng về kinh tế đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật và hệ thống các cơ quan tư pháp và cơ quan bổ trợ tư pháp thích ứng và hoàn chỉnh đi kèm. Hệ thống pháp luật và hệ thống các cơ quan tư pháp đó chính là môi trường và phương tiện bảo đảm không những chỉ lợi ích của các nhà kinh doanh mà còn cả lợi ích của tất cả cá nhân, tổ chức khác trong nền kinh tế thị trường. Trong trào lưu đó, buộc chúng ta phải hoàn thiện các cơ quan tư pháp để phục vụ cho công cuộc đổi mới của đất nước. Cho nên sự ra đời của chế định Thừa phát lại là một mắt xích, một minh chứng cho sự hoàn thiện đó. 1.2.4. Tiến trình tái lập tổ chức Thừa phát lại: Nằm trong tiến trình cải cách tư pháp do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, chủ trương xã hội hóa công tác thi hành án dân sự nói riêng và một số hoạt động bổ trợ tư pháp nói chung là một yêu cầu cấp thiết, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chủ trương này đã được đặt ra tại Nghị quyết 08 – NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, xác định “nghiên cứu việc xã hội hóa một số hoạt động bổ trợ tư 10 pháp”. Đây là chủ trương phù hợp với truyền thống lịch sử, pháp luật thi hành án của Việt Nam, phù hợp với xu hướng pháp luật thi hành án của thế giới, và quan trọng hơn là đáp ứng được những yêu cầu cấp thiết của xã hội. Vì vậy, chủ trương này tiếp tục được khẳng định trong Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đó là: “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía Nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình,… từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan Nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án; Nghiên cứu chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên); trước mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”[10] Để thể chế hóa chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp trong lĩnh vực thi hành án dân sự, ngày 14 tháng 11 năm 2008, Quốc hội khóa XII đã nhất trí thông qua Nghị quyết 24/2008/QH12 về việc thi hành Luật thi hành án dân sự. Nghị quyết này quy định: “Để triển khai thực hiện chủ trương xã hội hóa một số công việc có liên quan đến thi hành án dân sự, giao Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một số địa phương. Việc thí điểm được thực hiện từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành đến ngày 01 tháng 7 năm 2012. Chính phủ tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm và báo cáo quốc hội xem xét, quyết định”. [20] Trên cơ sở quy định tại Nghị quyết 24/2008/QH12 của Quốc hội về thi hành Luật thi hành án dân sự năm 2008, ngày 19 tháng 02 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 224/TTg về việc phê duyệt đề án “Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại Thành phố Hồ Chí Minh” và đến 11 ngày 24 tháng 7 năm 2009 Chính phủ đã ban hành Nghị định 61/2009/NĐ – CP quy định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 09 tháng 9 năm 2009 và sau đó được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định 135/2013/NĐ – CP ngày 18 tháng 10 năm 2013. 1.3. Khái niệm về Thừa phát lại Theo đánh giá của các nhà khoa học cũng như qua các tài liệu lịch sử thì Thừa phát lại đã có ở nước ta từ thời phong kiến, còn gọi là “Mỏ”. Việc xét xử do các quan lại ở địa phương tiến hành, những công việc của những “người giúp việc”, các khâu chuẩn bị cho việc xử án, xét ở góc độ nào đó gần giống với một số công việc mà Thừa phát lại hiện nay đang làm, chẳng hạn như: truyền đạt các khẩu lệnh, công văn, giấy tờ, thông báo việc thi hành án,… và như vậy nếu dựa vào tính chất, đặc thù công việc thì có thể nói Thừa phát lại đã xuất hiện ở nước ta ngay từ thời kỳ đầu của Nhà nước Phong kiến. Có thể nói Thừa phát lại là một nghề xuất hiện trên thế giới từ rất lâu và hiện nay có khoảng 72 nước là thành viên của tổ chức Liên minh Thừa phát lại quốc tế. Ở Việt Nam, dưới thời Pháp thuộc, miền Bắc gọi là “Chưởng tòa”, miền Trung gọi là “Mõ tòa” còn miền Nam gọi là “Thừa phát lại”. Có thể hiểu nghĩa Hán Việt của Thừa phát lại là: thừa của thừa hành; phát là chuyển phát, báo phát; lại là làm việc của thư lại. Thừa phát lại là chức danh được pháp luật công nhận, có nhiệm vụ thông qua các hoạt động pháp lý thực thi bằng văn bản việc lập chứng cứ, tống đạt các quyết định tư pháp, yêu cầu đương sự bắt buộc phải tuân thủ pháp luật. Theo khoản 1 điều 2 Nghị định 61/2009/NĐ – CP của Chính phủ ngày 24 tháng 7 năm 2009, có nêu: “Thừa phát lại là người được Nhà nước bổ nhiệm để làm các công việc về thi hành án dân sự, tống đạt giấy tờ, lập vi bằng và các công việc khác theo quy định của Nghị định và pháp luật có liên 12 quan”.[7] Đến Nghị định 135/2013/NĐ – CP ngày 18 tháng 10 năm 2013 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 61, có nêu tại điều 2a thì: “Thừa phát lại là người có các tiêu chuẩn, được Nhà nước bổ nhiệm và trao quyền để làm các công việc theo quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan”.[8] 1.4. Vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của tổ chức Thừa phát lại trong hoạt động tư pháp hiện nay 1.4.1. Về vai trò của tổ chức Thừa phát lại 1.4.1.1. Trợ giúp các cơ quan tư pháp trong hoạt động tố tụng - Trợ giúp cho cơ quan Tòa án trong việc tống đạt văn bản và thu thập chứng cứ Trong hoạt động tố tụng hiện nay của cơ quan Tòa án thì việc tống đạt văn bản được xem là một trong những công việc đầu tiên mà cơ quan Tòa án phải làm trong quá trình xét xử vụ án do Tòa án thụ lý. Do đó, nếu việc tống đạt văn bản được thực hiện nhanh chóng, kịp thời và đúng người nhận không những giúp cho việc xét xử của cơ quan Tòa án đúng thời gian theo quy định của pháp luật về tố tụng mà còn giúp cho đương sự có thời gian chuẩn bị cho quá trình xét xử của Tòa án, chẳng hạn như thu thập chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Những văn bản mà hiện nay cơ quan Tòa án tống đạt trong các hoạt động tố tụng thường là quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập ra tòa, giấy mời người làm chứng... cho các đương sự và những người có liên quan đến vụ án mà Tòa án đang thụ lý. Bên cạnh đó, việc tống đạt văn bản của Tòa án có thể được thực hiện bằng nhiều cách như: có thể gửi trực tiếp cho đương sự và những người có liên quan, hoặc gửi qua nhân viên dịch vụ bưu chính, gửi về Uỷ ban Nhân dân xã, phường, niêm yết công khai,… hay có khi đương sự được Tòa án mời lên Tòa để trực tiếp nhận các văn bản đó. Từ những việc trên có thể cho thấy 13 công việc tống đạt văn bản hiện nay của cơ quan Tòa án còn nhiều điểm rất tùy tiện và sơ hở, việc tống đạt như vậy không những gây phiền hà cho người dân mà còn làm mất nhiều thời gian của các cơ quan Nhà nước. Bên cạnh đó, đối với những văn bản hay những quyết định quan trọng mà việc tống đạt văn bản của cơ quan Tòa án không kịp thời, đúng thời gian đã quy định sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà đáng lẽ ra họ được hưởng. Từ thực trạng trên cho thấy, để việc tống đạt văn bản hiện nay của cơ quan Tòa án được kịp thời, đúng thời gian đã được quy định và nhằm giúp cho quá trình xét xử của Tòa án được thực hiện nhanh chóng thì không ai khác, Thừa phát lại là người sẽ đáp ứng được những yêu cầu đó. Theo bộ Luật tố tụng Dân sự năm 2015 tại khoản 5, điều 177 quy định: “Người được cấp, tống đạt, thông báo là cá nhân thì văn bản tố tụng phải được giao trực tiếp cho họ,…; Trường hợp người được cấp, tống đạt, thông báo vắng mặt thì người thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo phải lập biên bản và giao cho người thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng nơi cư trú với họ hoặc tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc để thực hiện việc ký nhận hoặc điểm chỉ và yêu cầu người này cam kết giao lại tận tay ngay cho người được cấp, tống đạt, thông báo...” [16] Bên cạnh đó tại điều 178 bộ Luật Dân sự năm 2015 cũng có quy định: “Trường hợp người được cấp, tống đạt hay thông báo là cơ quan, tổ chức thì văn bản tố tụng phải được giao trực tiếp cho người đại diện theo pháp luật hoặc người chịu trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó và phải được những người này ký nhận. Trường hợp cơ quan, tổ chức được cấp, tống đạt hoặc thông báo có người đại diện tham gia tố tụng hoặc cử người đại diện nhận văn bản tố tụng thì những người này ký nhận văn bản tố tụng đó. Ngày ký nhận là ngày được cấp, tống đạt, thông báo” [16] 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan