BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
TRONG BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ TÁI ĐỊNH CƯ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH
NGUYỄN XUÂN THỦY
HÀ NỘI – 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
TRONG BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ TÁI ĐỊNH CƯ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH
NGUYỄN XUÂN THỦY
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS PHẠM THU THỦY
HÀ NỘI – 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực.
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Xuân Thủy
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Khoa đào tạo sau Đại học, Viện Đại học mở Hà Nội,
cùng tất cả các thầy cô giảng viên đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Phạm Thu Thủy, người đã trực tiếp
hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đến khi
hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các cơ quan: Thanh tra tỉnh Ninh Bình,UBND thành
phố Ninh Bình, Công an Thành phố Ninh Bình, UBND phường Ninh Khánh và xã
Ninh Nhất thuộc thành phố Ninh Bình đã tạo mọi điều kiện để tôi có thời gian
nghiên cứu, thu thập tài liệu, giúp tôi hoàn thiện Luận văn này.
Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng Luận văn của tôi sẽ không tránh được những
thiếu sót. Rất mong được sự góp ý kiến của thầy giáo, cô giáo và các bạn để Luận
văn được hoàn thiện hơn nữa.
Xin trân trọng cảm ơn. !
Ninh Bình, ngày 27 tháng 12 năm 2017
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Xuân Thủy
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………...1
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu……………………………………………... 1
2.Tình hình nghiên cứu đề tài……………………………………………………….4
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài……………………………………………….. 5
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu…………………………………………………..6
5. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………………6
6. Cấu trúc của luận văn……………………………………………………………..7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU, NẠI
TỐ CÁO TRONG BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ TÁI ĐỊNH CƯ………………….8
1.1. Khái niệm khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong bồi
thường, hỗ trợ tái định cư…………………………………………………………8
1.1.1. Khái niệm khiếu nại, tố cáo…………………………………………………..8
1.1.2. Khái niệm về quyền khiếu nại, tố cáo……………………………………..13
1.1.3. Khái niệm giải quyết khiếu nại, tố cáo………………………………..……13
1.1.4. Vai trò và ý nghĩa của hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo……………. 14
1.2. Pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong bồi thường hỗ trợ tái định
cư...............................................................................................................................16
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật khiếu nại, tố cáo trong bồi thường, hỗ
trợ tái định cư………………………………………………………………………16
1.2.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật khiếu nại tố cáo trong bồi thường, hỗ
trợ tái định cư………………………………………………………………………18
1.2.3. Vai trò quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong bồi thường, hỗ trợ tái định
cư…………………………………………………………………………………...19
1.2.4. Nguyên tắc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong bồi thường,
hỗ trợ tái định cư…………………………………………………………………...21
CHƯƠNG 2: QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
TRONG BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ TÁI ĐỊNH CƯ VÀ THỰC THI PHÁP
LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG BỒI THƯỜNG, HỖ
TRỢ TÁI ĐỊNH CƯ TẠI THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH.
2.1. Qui định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong bồi thường,
hỗ trợ tái định cư………………………………………………………………… 27
2.1.1. Các quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư……………………………..27
2.1.2. Quy định về khiếu nại, tố cáo trong bồi thường, hỗ trợ tái định cư……….. .34
2.1.3. Quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong bồi thường, hỗ trợ tái định cư..........38
2.2. Thực tiễn giải quyết khiếu nại, tố cáo trong bồi thường, hỗ trợ tái định cư
tại thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình……………………………………… 48
2.2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ở thành phố Ninh Bình, tỉnh
Ninh Bình…………………………………………………………………………..48
2.2.2. Thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo trong bồi thường, hỗ trợ tái định cư tại
thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.......................................................................56
2.2.3. Đánh giá kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong bồi thường hỗ trợ tái định
cư............................................................................................................................. 63
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ
CÁO TRONG BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ TÁI ĐỊNH CƯ……………………. 71
3.1. Hoàn thiện các qui định của pháp luật để nâng cao chất lượng giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong bồi thường hỗ trợ tái định cư. ……………………….. 71
3.2. Hoàn thiện cơ chế thực thi, nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong bồi thường, hỗ trợ tái định cư…………………………………….......76
KẾT LUẬN………………………………………………………………………
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. UBND: Ủy ban nhân dân
2. HĐND: Hội đồng nhân dân
3. XHCN: Xã hội chủ nghĩa
4. ANTT: An ninh trật tự
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Việc quan tâm đến quyền và lợi ích của
nhân dân là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước ta. Khiếu nại, tố cáo là quyền cơ
bản của công dân được Hiến pháp năm 2013 nước ta đã ghi nhận; khiếu nại, tố cáo
là phương thức giám sát của nhân dân đối với nhà nước và cán bộ công chức nhà
nước. Giải quyết khiếu nại, tố cáo là một lĩnh vực hết sức quan trọng trong hệ thống
quản lý nhà nước và điều hành xã hội, thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân là góp phần củng cố mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà
nước và tăng cường niềm tin của nhân dân vào chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong những năm qua Đảng, Nhà nước ta đã
đưa ra những chính sách, văn bản pháp luật ngày càng hoàn thiện để giải quyết
khiếu nại, tố cáo nhanh, đúng pháp luật, bảo vệ và khôi phục kịp thời quyền, lợi ích
hợp pháp cho nhân dân, đồng thời xử lý nghiêm minh những cá nhân, tổ chức vi
phạm pháp luật, tạo niềm tin của nhân dân vào con đường đi lên XHCN mà Đảng,
Nhà nước ta đã lựa chọn.
Đất đai là một tư liệu sản xuất vô cùng quý giá, là thành phần quan trọng
hàng đầu của môi trường sống; để đáp ứng yêu cầu trong quá trình bảo vệ, xây dựng
và phát triển đất nước, việc Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế là một điều tất
yếu. Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế của nước ta đã và đang hội nhập vào
nền kinh tế thế giới thì việc đầu tư cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế ngày càng diễn ra
mạnh mẽ, do đó áp lực cho công tác giải phóng mặt bằng là rất lớn. Việc nhà nước
thu hồi đất dẫn đến những tác động lớn cho đời sống của người dân bị ảnh hưởng,
vì vậy để bảo vệ quyền lợi cho người dân đồng thời phát huy mạnh mẽ quyền dân
chủ trong công tác quản lý nhà nước thì điều 74 Hiến pháp năm 1992 và điều 30
Hiến pháp 2013 quy định người dân có quyền khiếu nại, tố cáo về những việc làm
trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân và bất cứ cá nhân nào; cụ thể hóa quy định trên tại điều 138 Luật đất đai
1
năm 2003 và điều 204, 205 Luật Đất đai năm 2013 quy định người dân có quyền
khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai, tố cáo vi
phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai, trong đó bao hàm quyền khiếu nại, tố
cáo trong lĩnh vực thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ tái định cư. Do tính chất phức
tạp và mức độ ảnh hưởng lớn nên khiếu nại, tố cáo trong bồi thường, hỗ trợ tái định
cư luôn chiếm tỉ lệ cao trong tổng số vụ khiếu nại, tố cáo điển hình theo một báo
cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong những năm gần đây thì mỗi năm bình
quân Bộ tiếp nhận 10.000 lượt đơn khiếu nại về đất đai, trong đó khiếu nại liên quan
đến thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ tái định cư để thực hiện các dự án là gần
98,9% tổng lượng đơn thư. Bên cạnh đó, các vụ khiếu nại đông người, phức tạp trên
địa bàn các tỉnh, thành phố hầu hết đều phát sinh trong công tác thu hồi đất và bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư, như trên địa bàn thành phố Ninh Bình trong 5 năm
(2012-2016) đã phát sinh 96 vụ khiếu nại đông người, trong đó nguyên nhân từ việc
đền bù, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là 78 vụ. .
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư trong thời gian qua đã luôn được
thay đổi nhằm phù hợp thực tế, đảm bảo quyền lợi của người dân và cải thiện tình
hình khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực này, điển hình là sự ra đời của Nghị định
47/2014/NĐ-CP quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất ngày
15/05/2014, có hiệu lực từ ngày 01/07/2014. Thiết nghĩ, bên cạnh việc thay đổi
những chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì pháp luật về khiếu nại, tố cáo
và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực này cũng nên có những thay đổi để
góp phần cải thiện tình hình khiếu nại, tố cáo; nhưng không như vậy, khung pháp lý
về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thu hồi đất và bồi thường,
hỗ trợ tái định cư đến nay vẫn chưa có thay đổi kịp thời cho phù hợp với thực tiễn,
Luật đất đai năm 2003, Luật đất đai năm 2013 đều có những quy định về khiếu nại,
tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ
tái định cư, nhưng những quy định ấy vẫn chưa có sự thống nhất chung, còn có nội
dung chồng chéo và mâu thuẫn nhau như: quy định về thời hiệu, thẩm quyền thụ
lý,… Đây cũng là nguyên nhân làm cho tình hình khiếu nại, tố cáo trong thời gian
qua diễn biến phức tạp, làm phát sinh khiếu nại, tố cáo vượt cấp, khiếu nại đông
người. Trước tình hình khiếu nại, tố cáo như hiện nay, khung pháp lý có điểm chưa
chặt chẽ, đòi hỏi việc vận dụng pháp luật tại các địa phương cần phải linh hoạt, phù
hợp tình hình thực tế thì mới mang lại những kết quả khả quan giải quyết tình hình
khiếu nại, tố cáo trong bồi thường, hỗ trợ tái định cư.
Ninh Bình là một trong các tỉnh có tốc độ phát triển nhanh, toàn diện về mọi
mặt, nhất là những năm gần đây cấp ủy, chính quyền các cấp tỉnh Ninh Bình lãnh
đạo phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp và dịch vụ, cùng với nhiều chính
sách mở, tạo điều kiện thu hút nguồn lực đầu tư vào sản xuất, kinh doanh. Do qui
luật phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và hệ lụy trong quá trình thực hiện, để đảm
bảo quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức mình thì việc khiếu nại, tố cáo, phản ánh,
kiến nghị là tất yếu, trong đó có lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất.
Nhận thấy rằng giải quyết khiếu nại, tố cáo trong bồi thường, hỗ trợ tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất là một vấn đề khó khăn, phức tạp, nhưng thành phố
Ninh Bình đã và đang giải quyết tốt vấn đề này trong khuôn khổ pháp luật, nhiều
biện pháp, giải pháp được thực hiện rất hiệu quả, mang lại niềm tin giữa nhân dân
với Đảng và chính quyền, nhất là không để tình hình phức tạp, không để thế lực thù
địch, đối tượng phản động, phần tử xấu lợi dụng gây mất ổn định về an ninh chính
trị, góp phần tích cực cho việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội thành phố phát
triển. Mặc dù vậy trong quá trình thực hiện vẫn thấy có những nội dung chưa thực
sự đồng bộ, thống nhất gây khó khăn, lúng túng cho quá trình thực hiện nên người
viết đã chọn thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình để nghiên cứu thực tiễn đề tài;
thông qua nghiên cứu thực tiễn để chứng minh cho kết quả nghiên cứu lý luận của
đề tài, phân tích và kiến nghị để nhân rộng những giải pháp đạt hiệu quả cao trong
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn thành phố. Để đảm bảo ngắn gọn,
đúng trọng tâm và thuận lợi cho việc nghiên cứu về nội dung giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, người viết chọn đề tài “ Pháp luật về giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong bồi thường, hỗ trợ tái định cư từ thực tiễn thành
phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những vấn đề về pháp luật khiếu nại, tố cáo và việc thực hiện Luật khiếu nại,
tố cáo liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được nhiều nhà nghiên cứu
về khoa học pháp lý và các nhà hoạt động thực tiễn quan tâm như là:
Luận văn Thạc sĩ của Hoàng Văn Lễ: “ Khiếu nại và giải quyết khiếu nại
trong lĩnh vực quản lý hành chính”, 2004; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu
Hằng: “Giải quyết khiếu nại về đất đai tại khu công nghiệp của các cơ quan hành
chính nhà nước ở tỉnh Bắc Giang”; Luận văn thạc sĩ của Đặng Anh Tuấn: “Giải
quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai – Qua thực tiễn tỉnh Thái Nguyên” với đánh
giá chung của luận văn này là có giá trị thực tiễn nhưng chỉ đánh giá được về phần
khiếu nại chưa giải quyết được mặt tố cáo và cũng chưa đề cập và đi sâu vào lĩnh
vực giải quyết khiếu nại, tố cáo trên lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất
Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Thế Thuấn: “Tăng cường hiệu lực của
pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân Việt Nam hiện nay‟
luận án tiến sĩ luật học của Trần Văn Sơn: “ Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ chế hành chính nhà nước
hiện nay”. Với hai luận án tiến sĩ đã khái quát cho thấy được công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo của nhà nước ta dưới góc độ pháp luật có những mặt được, chưa
được và những thiếu sót gì, nhưng với hai luận án này chú trọng phần lớn vào vấn
đề hành chính, cũng có đề cập đến vấn đề đất đai nhưng chưa đi sâu và cụ thể.
Luận văn thạc sỹ Lê Tiến Dũng: “ Đánh giá công tác bồi thường, hỗ trợ tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất tại một số dự án trên địa bàn thành phố Ninh
Bình, tỉnh Ninh Bình, năm 2016 và Chuyên đề : Một số giải pháp “Nâng cao hiệu
quả giải quyết khiếu kiện của một số công dân xã Ninh Nhất liên quan đến công tác
GPMB dự án đường ĐT 477, tại xã Ninh Nhất, thành phố Ninh Bình năm 2013”
của Ban giải phóng mặt bằng và tái định cư thành phố Ninh Bình. Luận văn và đề
tài đã khái quát đánh giá được công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất ở một số dự án trên địa bàn thành phố Ninh Bình của các cơ quan quản
lý nhà nước, nhưng cũng chưa đánh giá sâu và cụ thể công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong bồi thường hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
Cùng với các chuyên đề: “Xây dựng quy trình nghiệp vụ giải quyết khiếu nại
hành chính”, Đề tài nghiên cứu khoa học, Thanh tra nhà nước, 2004…
Một số tài liệu chuyên khảo, giáo trình phục vụ nghiên cứu và giảng dạy có
đề cập đến khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo như: Cuốn: “ Tìm hiểu
pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân” của PGS.TS Lê Bình Vọng, Nxb Pháp lý
Hà Nội, 1991; “ Tìm hiểu pháp luật về khiếu nại, tố cáo” PGS.TS Phạm Hồng Thái
(chủ biên), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2003.
Mặc dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu đề cập đến những vấn đề liên quan đến
khiếu nại, tố cáo nhưng kể từ khi Luật khiếu nại 2011, Luật tố cáo 2011, Luật Đất
đai 2013 có hiệu lực cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu công bố rộng rãi về cập
nhật những vấn đề liên quan đến khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ tái định cư, đặc biệt là thông qua thực tế một địa
phương. Do vậy, việc chọn đề tài “ Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
bồi thường, hỗ trợ tái định cư từ thực tiễn thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh
Bình” là một hướng nghiên cứu mới và có tính thực tiễn cao.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1 Mục đích của đề tài
Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của pháp luật khiếu nại, tố
cáo trong bồi thường, hỗ trợ tái định cư; đánh giá thực trạng pháp luật, thực trạng
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong bồi thường hỗ trợ tái định cư qua thực tiễn thành
phố Ninh Bình. Từ đó đưa ra các đề xuất:
Nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong bồi thường, hỗ trợ tái định cư.
Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong bồi thường, hỗ trợ tái định cư góp phần vào việc đảm bảo quyền công
dân, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, ổn định trật tự an toàn xã hội và phát triển
kinh tế của địa phương.
3.2 Nhiệm vụ của đề tài
Để thực hiện mục đích của đề tài, tác giả đặt ra các nhiệm vụ chính sau:
Thứ nhất: Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về khiếu nại, tố cáo liên quan
đến bồi thường, hỗ trợ tái định cư và pháp luật khiếu nại, tố cáo, những yêu cầu đặt
ra của việc nâng cao chất lượng hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Thứ hai: Đánh giá thực trạng pháp luật khiếu nại, tố cáo và hoạt động giải
quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước tại thành phố Ninh
Bình hiện nay.
Thứ ba: Đưa ra những kiến nghị cụ thể để hoàn thiện pháp luật khiếu nại, tố
cáo và các giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng về pháp luật khiếu nại,
tố cáo trong vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; thực trạng hoạt động giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của các cơ quan hành chính
tại thành phố Ninh Bình.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận văn “Pháp luật về giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong bồi thường, hỗ trợ, tái định cư từ thực tiễn thành phố
Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình” có phạm vi nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực
trạng về pháp luật khiếu nại, tố cáo liên quan đế bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, hoạt
động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn
thành phố Ninh Bình trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2016 và 6 tháng đầu
năm 2017.
5. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác–
Lê nin là biện chứng duy vật và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.
Để thực hiện việc nghiên cứu đề tài, trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn đã
sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: Phương pháp phân tích
được áp dụng khi xem xét quy định của các văn bản pháp luật về khiếu nại, tố cáo
và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Về phương pháp thống kê, điều tra xã hội học tác
giả đã sử dụng khi tìm hiểu một số nguyên nhân phát sinh đơn thư khiếu nại, tố cáo,
các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Ngoài ra,
tác giả luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp
so sánh, phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic và phương pháp bình luận….
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Đồng thời luận văn cũng
cung cấp một số cơ sở lý luận để cho những người làm công tác thực tiễn liên quan
để từ đó có các giải pháp nâng cao chất lượng thực thi pháp luật giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong bồi thường, hỗ trợ tái định cư một cách hiệu quả, giảm thiểu phát
sinh phức tạp trên lĩnh vực này.
Luận văn có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong các công
trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập tại các cơ sở đào tạo luật học, công tác xã
hội, kinh tế… và cho các tổ chức, cá nhân quan tâm đến lĩnh vực giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
7. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn được viết trong thời điểm xã hội đã và đang quan tâm đến lĩnh vực
khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai, nhất là bồi thường, giải phóng mặt bằng khi
nhà nước thu hồi đất và pháp luật khiếu nại, tố cáo cũng cong một số nội dung cần
bổ xung để phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Nên luận văn dự kiến có những đóng góp
mới như sau:
- Luận văn làm sáng tỏ và góp phần hoàn thiện những vấn đề lý luận về pháp
luật giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung và pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong bồi thường, hỗ trợ tái định cư nói riêng.
- Luận văn phân tích, đánh giá quá trình thực thi pháp luật giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong bồi thường hỗ trợ tái định cư trên địa bàn thành phố Ninh Bình,
tỉnh Ninh Bình, giai đoạn 2012 – 2016 VÀ 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2017.
- Luận văn nêu lên một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật giải quyết
khiếu nại, tố cáo, đồng thời đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong bồi thường, hỗ trợ tái định cư.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận
văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong bồi
thường, hỗ trợ tái định cư.
Chương 2: Quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong bồi
thường, hỗ trợ tái định cư và thực thi pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
bồi thường, hỗ trợ tái định cư tại thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong bồi thường, hỗ trợ tái định cư.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG BỒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ TÁI ĐỊNH CƯ.
Mục đính nắm rõ cơ sở lý luận của vấn đề, để có nền tảng vững chắc trong
quá trình nghiên cứu, chương này tập trung tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản về
khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong bồi thường, hỗ trợ tái định cư,
thông qua nghiên cứu khái niệm, vai trò, nguyên tắc của khiếu nại, tố cáo và giải
quyết khiếu nại tố cáo trong bồi thường, hỗ trợ tái định cư.
1.1. Khái niệm khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong bồi
thường, hỗ trợ tái định cư.
1.1.1. Khái niệm khiếu nại, tố cáo
1.1.1.1. Khái niệm khiếu nại
Kể từ khi Luật đất đai năm 1993 thừa nhận giá trị của đất đai trong nền kinh
tế thị trường và mở rộng quyền năng cho người sử dụng đất thì Nhà nước cũng phát
huy quyền dân chủ của người dân trong công tác thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư thông qua những quy định của pháp luật về quyền khiếu nại của công
dân trong bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Để hiểu và nắm rõ được khái niệm khiếu
nại của công dân trong bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì cần làm rõ thế nào là khiếu
nại, giải quyết khiếu nại.
Khiếu nại là một hiện tượng xã hội được quan niệm và hiểu theo nhiều góc
độ khác nhau. Khiếu nại là hoạt động diễn ra khá thường xuyên và phổ biến, do đó
cụm từ khiếu nại được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội.
Khiếu nại xuất phát từ tiếng La-tinh là “complaint” nghĩa là cầu cứu, kêu nài,
kêu oan, nài nỉ1.Theo Đại Từ điển tiếng Việt, khiếu nại là thắc mắc, đề nghị xem xét
lại những kết luận, quyết định do cấp có thẩm quyền đã làm2.
Theo nghĩa rộng: Khiếu nại là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định, hành vi khi có căn cứ
cho rằng quyết định, hành vi ấy xâm hại đến quyền, lợi ích của mình. Các quyết
định, hành vi là đối tượng của khiếu nại là quyết định, hành vi trái pháp luật hoặc
không đúng quy định của tổ chức, cộng đồng.
Theo nghĩa hẹp: Khiếu nại là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xem xét lại quyết định, hành vi trái pháp luật khi có căn cứ
cho rằng quyết định, hành vi ấy xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Lúc này, khiếu nại chỉ hướng vào phạm vi hoạt động của bộ máy nhà nước và được
thực hiện trên cơ sở nhận định, đánh giá về tính trái pháp luật của các quyết định,
các hành vi.
Theo quy định tại Điều 2, Luật khiếu nại năm 2011:
“Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo
thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem
1: Từ điển Anh-Việt, Nxb đại học quốc gia Hà Nội, 2016
2: Đại từ điển tiếng Việt, Nxb giáo dục, 2016
xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà
nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết
định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó
là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”
Căn cứ vào tính chất của quyết định, hành vi và các quan hệ pháp luật phát
sinh khiếu nại được phân thành hai dạng cơ bản sau:
Khiếu nại hành chính: Khiếu nại về quyết định hành chính hoặc hành vi hành
chính trái pháp luật của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền trong hoạt
động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước. Đó là việc cá nhân, cơ quan, tổ
chức yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính,
hành vi hành chính trái pháp luật khi có căn cứ cho rằng nó xâm hại đến quyền, lợi
ích hợp pháp của mình.
Khiếu nại tư pháp: Khiếu nại về quyết định trái pháp luật hoặc hành vi trái
pháp luật trong hoạt động tư pháp. Khiếu nại tư pháp là khiếu nại về quyết định
hoặc hành vi trái pháp luật của cơ quan hoặc của người tiến hành tố tụng như: cơ
quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án hoặc điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm
phán, hội thẩm, chấp hành viên. Khiếu nại tư pháp trong lĩnh vực hình sự, dân sự,
kinh tế, lao động, hành chính được pháp luật tố tụng tương ứng quy định.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn chỉ đề cập đến khiếu nại trong
phạm vi bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là một phần trong khiếu nại hành chính.
1.1.1.2. Khái niệm tố cáo
Tố cáo là khái niệm được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội.
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng thì tố cáo là: “vạch rõ tội lỗi của kẻ khác
trước cơ quan pháp luật hoặc trước dư luận” 3
Cách hiểu khác: Tố cáo là việc công dân báo với cơ quan, tổ chức, người có
thẩm quyền về bất kỳ hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà họ cho rằng hành
vi ấy vi phạm pháp luật hoặc vi phạm quy định của tổ chức, cộng đồng đã gây ra
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, tổ chức, cộng đồng hoặc
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Theo quy định tại Điều 2, Luật tố cáo năm 2011:
3: Từ điển tiếng Việt, Nxb giáo dục, 2016
“Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan,
tổchức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ
quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức”.
Tố cáo được phân thành các dạng cơ bản sau:
Tố cáo hành chính: tố cáo về các hành vi vi phạm pháp luật thuộc phạm vi
quản lý của cơ quan nhà nước. Đây là dạng tố cáo hướng vào các hành vi vi phạm
về các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước. Việc xử lý, giải quyết tố cáo
dạng này do các cơ quan giải quyết theo thủ tục hành chính thông thường.
Tố cáo về các hành vi vi phạm của tổ chức, đoàn thể, cộng đồng dân cư
thuộc phạm vi điều chỉnh của nội bộ các tổ chức, đoàn thể, cộng đồng dân cư đó.
Đây là dạng tố cáo hướng vào các hành vi trái với tôn chỉ, mục đích đã được thể
hiện trong quy định của tổ chức, của cộng đồng; trái với luân thường đạo lý đã mặc
nhiên được thừa nhận. Trước hết, về chủ thể: chủ thể của hành vi khiếu nại phải là
người bị tác động trực tiếp. Xử lý tố cáo dạng này được thực hiện theo quy định của
tổ chức, cộng đồng đã được ghi nhận trong quy chế, điều lệ hoặc được hình thành
mặc nhiên trong cộng đồng.
Tố cáo tội phạm: tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật hình sự khi công dân
cho rằng một cá nhân, một tổ chức đã hoặc sẽ thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho
xã hội hoặc cho rằng hành vi đó đã vi phạm các quy định của pháp luật hình sự thì
họ thực hiện tố cáo hành vi vi phạm trước cơ quan có thẩm quyền. Hành vi là đối
tượng của dạng tố cáo này được quy định cụ thể trong pháp luật hình sự. Việc xử lý
và giải quyết tố cáo tội phạm được quy định chặt chẽ và thực hiện theo thủ tục tố
tụng hình sự.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn chỉ đề cập đến tố cáo trong
bồi thường, hỗ trợ tái định cư, trong tố cáo hành chính đã nêu ở trên.
1.1.1.3. Phân biệt khiếu nại và tố cáo.
Theo Luật khiếu nại, luật tố cáo cùng những văn bản pháp luật khác có liên
quan đã được ban hành nhằm tạo khung pháp lý cho hoạt động khiếu nại, tố cáo và
giải quyết khiếu nại, tố cáo. Song, vấn đề phát sinh trong quá trình thực thi pháp
luật về khiếu nại, tố cáo là đã có không ít trường hợp còn lúng túng, chưa phân biệt
rõ ràng, chính xác thế nào là khiếu nại, thế nào là tố cáo, khi đơn thư có nội dung
chứa đựng cả việc khiếu nại và việc tố cáo thì thụ lý, giải quyết còn nhiều lúng túng.
Đây chính là một trong nhiều nguyên nhân làm nảy sinh những nhầm lẫn, thiếu sót,
thậm chí là sai lầm trong việc xử lý đơn thư, tiến hành xác minh giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân... Từ đó dẫn đến việc đơn thư khiếu nại, tố cáo không được
giải quyết kịp thời, chính xác, để tồn đọng quá nhiều trong một thời gian dài mà
pháp luật không cho phép.
Do đó, để khắc phục tình trạng chung này, đồng thời để các cơ quan có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng như mọi người dân hiểu rõ hơn về khiếu nại
và tố cáo, tác giả xin được đưa ra một vài đặc trưng riêng biệt để phân biệt giữa
khiếu nại và tố cáo như sau:
Thứ nhất, về chủ thể: Chủ thể của hành vi khiếu nại phải là người bị tác động
trực tiếp bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc
thôi việc. Điều đó có nghĩa chủ thể của hành vi khiếu nại có thể là cơ quan, tổ chức
cá nhân. Trong khi đó, chủ thể của hành vi tố cáo chỉ có thể là cá nhân, tức là chỉ
bao gồm công dân và người nước ngoài. Cá nhân thực hiện hành vi tố cáo có thể
chịu tác động trực tiếp hoặc không chịu tác động của hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ hai, về đối tượng: Trong khi đối tượng của khiếu nại là quyết định hành
chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức từ Vụ trưởng
và tương đương trở xuống, những quyết định và hành vi này phải có tác động trực
tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại; thì đối tượng của tố cáo
rộng hơn rất nhiều, công dân có quyền tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật của
bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi
ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Có
nghĩa là hành vi vi phạm pháp luật là đối tượng của tố cáo có thể tác động hoặc
không tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo. Chính sự
khác nhau này đã dẫn đến sự khác nhau về thẩm quyền, thủ tục giải quyết, về quyền
và nghĩa vụ của chủ thể thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo,…chẳng hạn: Người
khiếu nại không phải chịu trách nhiệm về việc khiếu nại không đúng của mình
nhưng việc tố cáo có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến danh dự, uy tín, quyền
lợi chính đáng của cán bộ công chức nhà nước, theo quy định tại điểm c, d khoản 2
- Xem thêm -